Tiểu luận Phân tích và so sánh các quy định về quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005

( Điều 179 và 205 đến 225 của Bộ luật dân sự năm 1995 với Điều 172 và 200 đến 232 của Bộ luật dân sự năm 2005)

Theo Điều 179 Bộ luật dân sự năm 1995 thì có bẩy hình thức sở hữu đối với tài sản, đó là sở hữu toàn dân; sở hữu của tổ chức chính trị - xã hội; sở hữu tập thể; sở hữu tư nhân, sở hữu của tổ chức xã hội – nghề nghiệp; sở hữu hỗn hợp; sở hữu chung.

Trong Bộ luật dân sự năm 2005 cơ bản giữ nguyên quy định hiện hành về các hình thức sở hữu của Bộ luật dân sự năm 1995 vì nhìn chung còn phù hợp, thể hiện được tính đặc thù của từng hình thức sở hữu cụ thể trong quan hệ sở hữu của Việt Nam. Điều 172 và chương XIII Bộ luật dân sự năm 2005 thể hiện với nôi dung : Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, các hình thức sở hữu bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.

 

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7124 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích và so sánh các quy định về quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
pháp lý riêng, không thể áp dụng cho việc xác lập quyền sở hữu của các hình thức sở hữu khác như tịch thu, trưng mua.. - Các căn cứ chấm dứt quyền sở hữu được quy định từ Điều 256 đến Điều 262 của Bộ luật. Điều 263 đến Điều 266 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định về “bảo vệ quyền sở hữu” : chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp khi có tài sản bị chiếm đoạt trái pháp luật thì có quyền đòi lại tài sản; khi bị người khác cản trở việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu trái pháp luật thì có quyền yêu cầu tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc phải chấm dứt hành vi xâm phạm và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Các quy định về quyền sở hữu được đề cập trong Bộ luật dân sự năm 1995 về cơ bản đã thực sự đi vào đời sống xã hội, đã tạo ra chuẩn mực pháp lý, góp phần đảm bảo công bằng xã hội, an toàn pháp lý cho các bên, bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể, qua đó góp phần ổn định và phát triển kinh tế, xã hội, phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đã đạt được, Bộ luật dân sự năm 1995 vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần phải thay đổi như : một số quy định đã lạc hậu so với sự phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, do có sự thay đổi khách quan của các quan hệ được điều chỉnh và thiếu một số quy định đề điều chỉnh các quan hệ dân sự mới phát sinh, ví dụ như : trong phần “những quy định khác về quyền sở hữu” các nội dung chưa được làm rõ, nhất là các quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản... 2. Phân tích quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 2005 Được xây dựng dựa trên cơ sở của Hiến pháp 1992, Bộ luật dân sự năm 1995, những thay của Hiến pháp sửa đổi bổ sung năm 2001, và nhằm sửa đổi những hạn chế nhìn thấy của Bộ luật dân sự năm 1995, Bộ luật dân sự năm 2005 ra đời, phù hợp với tình hình xã hội hiện tại. Trong Bộ luật dân sự năm 2005 , quyền sở hữu được quy định tại phần thứ hai “ Tài sản và quyền sở hữu” bao gồm 7 chương (từ chương X đến chương XVI) với 117 điều (từ Điều 163 đến Điều 279). Những quy định chung về quyền sở hữu từ Điều 164 đến Điều 173, quy định về chủ thế của quyền sở hữu là những người tham gia quan hệ pháp luật dân sự : Nhà nước là chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân; các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; các tập thể; các công dân; các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp; các tổ chức kinh tế tư nhân. Khách thể của quyền sở hữu là tài sản (được quy định từ Điều 174 đến Điều 181 Bộ luật dân sự năm 2005). Ngoài ra, Bộ luật dân sự còn quy định những tài sản chỉ thuộc sở hữu riêng biệt. Nội dung của quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 2005 được quy định từ Điều 182 đến Điều 199 dựa trên cơ sở chế độ sở hữu được khẳng định trong Hiến pháp 1992, Bộ luật dân sự năm 2005 quy định các hình thức sở hữu bao gồm : sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, sở hữu của các tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu của các tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp (từ Điều 200 đến Điều 232). Điều 233 đến Điều 254 quy định về “Xác lập và chấm dứt quyền sở hữu”. Dựa vào nguồn gốc của những sự kiện pháp lý do Bộ luật dân sự quy định, căn cứ để xác lập quyền sở hữu bao gồm : xác lập theo hợp đồng hoặc giao dịch một bên; xác lập theo quy định của pháp luật; xác lập theo những căn cứ riêng biệt. Còn về chấm dứt quyền sở hữu, Bộ luật dân sự quy định có thể chấm dứt quyền sở hữu theo ý chí của chủ sở hữu, hoặc theo những căn cứ do pháp luật quy định. Điều 255 đến Điều 261 là các quy định về bảo vệ quyền sở hữu : người khởi kiện để yêu cầu Toàn án bảo vệ quyền lợi cho chính mình là người bị xâm phạm quyền sở hữu căn cứ theo quy định của Pháp luật(kiện đòi lại tài sản; kiện yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu, quyền chiếm hữu hợp pháp; kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại). Người có quyền sở hữu bị xâm phạm có thể là chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp. Điều 262 đến Điều 279 Bộ luật dân sự năm 2005 là những quy định khác về quyền sở hữu. Bộ luật dân sự cho phép chủ sở hữu có được những điều kiện thuận lợi khỉ sử dụng các quyền của mình đối với tài sản của người khác và đồng thời cũng phải chịu sự ràng buộc bởi một số nghĩa vụ nhất định để các chủ thể khác được thuận tiện khi sử dụng quyền của mình. Trên đây là những phân tích khái quát, để hiểu rõ hơn về quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 ta đi so sánh chúng với nhau trong phần tiếp sau đây : II. So sánh quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 So với quy định của Bộ luật dân sự năm 1995, cơ cấu, bố cục của quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự năm 2005 không có gì thay đổi, vẫn nằm ở phần thứ hai, bao gồm 7 chương : những quy định chung về quyền sở hữu; các loại tài sản; nội dung quyền sở hữu; các hình thức sở hữu; xác lập, chấm dứt quyền sở hữu; bảo vệ quyền sở hữu; những quy định khác về quyền sở hữu. 1. Về khái niệm sở hữu và quyền sở hữu. ( Bao gồm các Điều 172 đến 180 của Bộ luật dân sự năm 1995 và các Điều 164 đến 173 của Bộ luật dân sự năm 2005) Điều 164 Bộ luật dân sự 2005 : Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật. Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản. Chế định quyền sở hữu trong cả hai bộ luật không có nhiều thay đổi (chỉ có thay đổi nhỏ là không còn chữ “các” trong cụm từ “các chủ thế khác” ở Bộ luật dân sự năm 1995)sở hữu không chỉ được nhìn nhận ở phạm vi hẹp mà là yếu tố cơ bản trải lên toàn bộ quan hệ sản xuất, bao gồm không chỉ quan hệ giữa người với người về vật mà cả quan hệ giữa họ về mặt tổ chức kinh doanh, về mặt chi phối đối với lợi ích kinh tế do sự chiếm hữu về mặt tài sản tạo ra. Bố cục cũng như tiều đề trong Bộ luật dân sự năm 2005 vẫn được giữ nguyên như trong Bộ luật dân sự năm 1995 về các quyền đối với tài sản, nhưng về đặc điểm các loại quyền có sự khác nhau nhất định : Khi thực hiện quyền sở hữu thì chủ sở hữu có quyền tác động trực tiếp đến tài sản, còn trong quan hệ nghĩa vụ thì quyền tài sản của một bên tương ứng với nghĩa vụ tài sản của bên kia (quyền chủ nợ). Khi một người có quyền sở hữu thì tất cả những người khác đều phải tôn trọng quyền sở hữu của người đó; còn trong quan hệ nghĩa vụ thì người thứ ba không cần biết đến mối quan hệ nghĩa vụ giữa các bên trong nghĩa vụ đó. Trong chế định về quyền sở hữu có cả các quy định về quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản trong việc chiếm hữu, sử dụng định đoạt (còn gọi là các quyền khác đối với tài sản) : - Được quy định tại Điều 180 Bộ luật dân sự năm 1995 về Quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản, tuy nhiên còn khá mờ nhạt, chưa quy định rõ là những quyền gì, cách thức thực hiện và bảo vệ các quyền đó như thế nào... - Trong Bộ luật dân sự năm 2005 đã có sự hoàn thiện nhất định : một mặt vẫn giữ nguyên tắc quyền của chủ sở hữu chiếm vị trí trung tâm, là xuất phát điểm để quy định các quy chế pháp lý tương ứng; mặt khác, đã có sự quy định rõ ràng hơn, đầy đủ hơn về quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản; ở mức độ nhất định đã quy định cách thức thực hiện các quyền này cũng như các biện pháp bảo vệ chúng. => Qua đó ta thấy được sự khác biệt giữa quyền sở hữu (chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình) và quyền của người không phải là chủ sở hữu nhưng cũng có quyền chiếm hữu, sử dụng định đoạt tài sản không thuộc sở hữu của mình(mà là của người khác).Quyền năng của chủ sở hữu rộng hơn,do pháp luật xác định,còn quyền năng của người có quyền khác đối với tài sản bị hạn chế về nội dung,phụ thuộc vào quyền sở hữu,không chỉ do luật xác định mà còn được xác định bởi ý chí của chủ sở hữu. Ngoài ra, trong phần “tài sản và quyền sở hữu”, có nhiều quy định được giữ như quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 như : chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 165); Không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái pháp luật quyền sở hữu đối với tài sản của mình, chủ sở hữu có quyền tự bảo vệ, ngăn cản bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của mình, truy tìm, đòi lại tài sản bị người khác chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không có căn cứ pháp luật, trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân, pháp nhân hoặc của chủ thể khác theo quy định của pháp luật (Điều 169). 2. Nội dung quyền sở hữu. (Điều 189 đến 204 Bộ luật dân sự năm 1995 với Điều 182 đến 199 Bộ luật dân sự năm 2005) Cả hai Bộ luật dân sự năm 1995 và năm 2005, đều quy định nội dung của quyền sở hữu bao gồm : quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt. Các quy định cụ thể không có nhiều thay đổi, Bộ luật dân sự năm 2005 chỉ có thêm những điều luật mới nhằm chi tiết hơn và hướng dẫn rõ ràng hơn như : Điều 188 : Quyền chiếm hữu gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc : Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phải thông báo hoặc trả lại ngay cho chủ sở hữu; nếu chưa xác định được chủ sở hữu thì được chiếm hữu tài sản đó từ thời điểm phát hiện đến thời điểm trả lại cho chủ sở hữu. Điều 197 : Quyền định đoạt của chủ sở hữu : Chủ sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật đối với tài sản. 3. Đăng ký quyền sở hữu tài sản ( Điều 174 của Bộ luật dân sự năm 1995 với Điều 167 của Bộ luật dân sự năm 2005) Theo quy định của Điều 174 Bộ luật dân sự năm 1995 về đăng ký quyền sở hữu tài sản thì “Những tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, thì phải được đăng ký” – đây là quy định rất khái quat, do đó,, trong thực tiễn gặp phải những vướng mắc, khó khăn cho việc áp dụng. Quyền sở hữu tài sản là một quyền cơ bản, quan trọng. Khi quyền sở hữu đã thuộc về một chủ thể thì chủ thể đó có quyền tuyên bố với người khác là mình đang sở hữu tài sản đó. Còn những chủ thể khác phải tôn trọng quyền sở hữu của chủ thể đó, bởi nếu vi phạm quyền vừa kể trên thì trong luật dân sự có một loạt các quy định để bảo vệ quyền của chủ sở hữu. Để mọi người biết về quyền của mình phải có cơ chế công khai quyền. Theo quy định của Điều 167, 173 Bộ luật dân sự năm 2005 thì các quyền đối với tài sản sau đây phải đăng ký : tàu bay, tàu biển, các phương tiện giao thông, quyền sử dụng đất, các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp. Đối với các tài sản gắn liền với đất (như các công trình xây dựng) thì trong một thời gian dài (trước khi ban hành Luật đất đai năm 2003), chỉ có các quyền đối với nhà ở tại đô thị là pháp luật có quy định phải đăng ký, còn đối với nhà ở tại nông thôn và các bất động sản khác không phải là nhà ở (như nhà xưởng để sản xuất kinh doanh, khách sạn, các công trình xây dựng khác...) thì pháp luật chưa có quy định rõ. Từ khi có Luật đất đai năm 2003, vấn đề này đã được quy định (khoản 1 Điều 48) nhưng chưa được triển khai thực hiện nhiều. Bộ luật dấn sự với vai trò, mang tính nguyên tắc về các vấn đề trong phạm vi điều chỉnh của mình là luật chung, cần phải có những quy định chung nhất. Trên tinh thần đó Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy định những vấn đề chủ yếu nhất về đăng ký quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản : Điều 167 : Quyền sở hữu đối với bất động sản được đăng ký theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đăng ký bất động sản. Quyền sở hữu đối với động sản không phải đăng ký, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Khoản 5 Điều 173 : Các quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản phải đăng ký bao gồm quyền sử dụng đất, quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề theo thoả thuận và các quyền khác theo quy định của pháp luật. Bộ luật dân sự quy định khái quát như vậy, còn những vấn đề cụ thể như trình tự, thủ tục đăng ký, cơ quan đăng ký... sẽ do Luật đăng ký bất động sản quy định. 4. Thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản ( Điều 168 – điều mới trong Bộ luật dân sự năm 2005) Theo quy đinh của Bộ luật dân sự năm 1995 thì đăng ký là điều kiện làm phát sinh hiệu lực của sự dịch chuyển quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản. Vấn đề này được quy định tại khoản 2 Điều 432 về thời điểm chuyển quyền sở hữu, Điều 444 về thủ tục mua bán nhà ở , Điều 696 về hiệu lực của việc chuyển quyền sử dụng đất. Bộ luật dân sự năm 2005, giữ như quy định của Bộ luật dân sự năm 1995, coi việc đăng ký là điều kiện làm phát sinh hiệu lực của sự chuyển quyền sở hữu và các quyền khác đối với bất động sản vì như vậy tạo ra sự chặt chẽ trong việc chuyển quyền, góp phần phòng ngừa những tranh chấp có thể nảy sinh. Điều 168 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định : 1. Việc chuyển quyền sở hữu đối với bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sở hữu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. 2. Việc chuyển quyền sở hữu đối với động sản có hiệu lực kể từ thời điểm động sản được chuyển giao, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Đây là một điều mới được bổ sung trong Bộ luật dân sự năm 2005. Nếu như trước đây, vấn đề về chuyển quyền sở hữu được quy định trong những hợp đồng cụ thể của Bộ luật dân sự năm 1995 hoặc trong các văn bản pháp luật khác thì hiện nay vấn đề này đã được quy định trong phần chung của về tài sản và quyền sở hữu của Bộ luật dân sự năm, là phần quy định những vấn đề chung nhất về tài sản cũng như xác lập, thay đổi, chuyển dịch, chấm dứt quyền sở hữu. Như vậy, về nguyên tắc đăng ký, Điều 168 Bộ luật dân sự năm 2005 là sự kế thừa các quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 và phù hợp với một số văn bản pháp luật hiện hành như pháp luật về đất đai : đăng ký là điều kiện làm phát sinh hiệu lực của sự chuyển quyền sở hữu. Tuy nhiên nguyên tắc này bị loại trừ trong trường hợp pháp luật có quy định khác. 5. Hình thức sở hữu ( Điều 179 và 205 đến 225 của Bộ luật dân sự năm 1995 với Điều 172 và 200 đến 232 của Bộ luật dân sự năm 2005) Theo Điều 179 Bộ luật dân sự năm 1995 thì có bẩy hình thức sở hữu đối với tài sản, đó là sở hữu toàn dân; sở hữu của tổ chức chính trị - xã hội; sở hữu tập thể; sở hữu tư nhân, sở hữu của tổ chức xã hội – nghề nghiệp; sở hữu hỗn hợp; sở hữu chung. Trong Bộ luật dân sự năm 2005 cơ bản giữ nguyên quy định hiện hành về các hình thức sở hữu của Bộ luật dân sự năm 1995 vì nhìn chung còn phù hợp, thể hiện được tính đặc thù của từng hình thức sở hữu cụ thể trong quan hệ sở hữu của Việt Nam. Điều 172 và chương XIII Bộ luật dân sự năm 2005 thể hiện với nôi dung : Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, các hình thức sở hữu bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, sở hữu của tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp. Như vậy các hình thức sở hữu theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 là sáu hình thức sở hữu. Hình thức sở hữu toàn dân trong Bộ luật dân sự năm 1995 đã được quy định thành hình thức sở hữu nhà nước. Quy định như vậy nhằm làm rõ chủ thể của quyền sở hữu . Bổ sung thêm sở hữu của tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp vì hiện nay đã xuất hiện loại tổ chức này. Hình thức sở hữu hỗn hợp trong Bộ luật dân sự năm 1995 đã được đưa vào sở hữu chung thành một điều (Điều 217) * Định đoạt tài sản chung : Nội dung này được Bộ luật dân sự năm 1995 quy định tại Điều 237 tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều nhược điểm như : trong nhiều quy định của Bộ luật có quy định về các quyền của chủ thể, nhưng không quy định về hậu quả pháp lý khi có sự vi phạm các quyền đó. Bởi vậy trong Bộ luật dân sự năm 2005 đã có những quy định cụ thể hơn để khắc phục nhược điểm này như Điều 223 : 1. Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. 2. Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thoả thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật. 3. Trong trường hợp một chủ sở hữu chung bán phần quyền sở hữu của mình thì chủ sở hữu chung khác được quyền ưu tiên mua. Trong thời hạn ba tháng đối với tài sản chung là bất động sản, một tháng đối với tài sản chung là động sản, kể từ ngày các chủ sở hữu chung khác nhận được thông báo về việc bán và các điều kiện bán mà không có chủ sở hữu chung nào mua thì chủ sở hữu đó được quyền bán cho người khác. Trong trường hợp bán phần quyền sở hữu mà có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua thì trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày phát hiện có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua, chủ sở hữu chung theo phần trong số các chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu Toà án chuyển sang cho mình quyền và nghĩa vụ của người mua; bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại. 4. Trong trường hợp một trong các chủ sở hữu chung từ bỏ phần quyền sở hữu của mình hoặc khi người này chết mà không có người thừa kế thì phần quyền sở hữu đó thuộc Nhà nước, trừ trường hợp sở hữu chung của cộng đồng thì thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu chung còn lại. Trong quy định của điều này là có quy định về hậu quả pháp lý trong trường hợp có sự vi phạm quyền ưu tiên mua : trong trường hợp bán phần quyền sở hữu mà có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua thì trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày phát hiện có sự vi phạm về quền ưu tiên mua, chủ sở hữu chung theo phần trong số các chủ sở hữu chung có quyền yêu cầu tòa án chuyển sang cho mình và nghĩa vụ của người mua bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại. Khi hợp đồng mua bán có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua thì hợp đồng không bị tuyên bố là vô hiệu hoặc không bị hủy, hợp đồng vẫn được thực hiện (chỉ có điều quyền và nghĩa vụ của bên mua được chuyển sang cho chủ sở hữu chung theo phần, nếu người này có yêu cấu Tòa án về vấn đề này trong thời hạn ba tháng, kể từ ngày phát hiện có sự vi phạm về quyền ưu tiên mua) Khoản 4 trông Điều nay vẫn giữ nguyên như khoản 4 Điều 237 Bộ luật dân sự năm 1995, bên cạnh đó có bổ sung thêm trường hợp ngoại lệ : trừ trường hợp sở hữu chung của cộng đồng thì thuộc sở hữu chung của các chủ sở hữu chung còn lại. * Chia tài sản thuộc hình thức sở hữu chung : Khoản 1 của Điều 224 Bộ luật dân sự năm 2005 không có gì thay đổi so với khoản 1 của Điều 238 của Bộ luật dân sự năm 1995 : Trong trường hợp sở hữu chung có thể phân chia thì mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu các chủ sở hữu chung đã thoả thuận không phân chia tài sản chung trong một thời hạn thì mỗi chủ sở hữu chung chỉ có quyền yêu cầu chia tài sản chung khi hết thời hạn đó; khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để chia. Còn khoản 2 Điều 224 Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy định cụ thể hơn so với quy định tại khoản 2 Điều 238 Bộ luật dân sự năm 1995 nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn đặt ra, nhất là trong lĩnh vực thi hành án : Trong trường hợp có người yêu cầu một người trong số các chủ sở hữu chung thực hiện nghĩa vụ thanh toán khi người đó không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để thanh toán thì người yêu cầu có quyền yêu cầu chia tài sản chung để nhận tiền thanh toán và được tham gia vào việc chia tài sản chung, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu không thể chia phần quyền sở hữu bằng hiện vật hoặc việc chia này bị các chủ sở hữu chung còn lại phản đối thì người có quyền có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ bán phần quyền sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. 6. Chịu rủi ro về tài sản ( Điều 166 – điều mới trong Bộ luật dân sự năm 2005) Chủ sở hữu phải chịu rủi ro khi tài sản bị tiêu huỷ hoặc bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Điều này được bổ sung nhằm khẳng định, về nguyên tắc, chủ sở hữu phải chịu rủi ro khi tài sản phải bị tiêu hủy hoặc bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Trong trường hợp chủ sở hữu trực tiếp chiếm hữu tài sản thì chủ sở hữu phải chịu rủi ro đối với tài sản. Nhưng trong trường hợp chủ sở hữu không trực tiếp chiếm hữu mà là người khác chiếm hữu tài sản theo sự thỏa thuận với chủ sở hữu thì người chịu rủi ro theo quy định của pháp luật hoặc theo như thỏa thuận trong hợp đồng, nếu không thì chủ sở hữu phải chịu rủi ro. 7. Các quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản ( Điều 180 của Bộ luật dân sự năm 1995 với Điều 173 của Bộ luật dân sự năm 2005) Tiếp theo mục 1 của phần này, ta có khoản 1 Điều 173 Bộ luật dân sự năm 2005, về cơ bản, đã giữ lại nội dung theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 : Người không phải là chủ sở hữu chỉ có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình theo thoả thuận với chủ sở hữu tài sản đó hoặc theo quy định của pháp luật. Ngoài ra,Điều 173 Bộ luật dân sự năm 2005 đã được bổ sung : - Khoản 2 : liệt kê các quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản, đó là quyền sử dụng đất; quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề; các quyền khác theo thỏa thuậ hoặc theo quy định của pháp luật (như quyền của người nhận cầm cố, quyền của người nhận thế chấp, quyền sử dụng rừng, quyền thuê tài sản dài hạn..) - Khoản 3 : quy định việc chủ sở hữu chuyển quyền sở hữu tài sản cho người khác không phải là căn cứ để chấm dứt các quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản theo quy định của khoản 2 Điều này. - Khoản 4 : quy định các quyền đối với tài sản đã được quy định tại khoản 2 Điều 173 cũng được bảo vệ theo cách thức bỏa vệ quyền sở hữu. - Khoản 5 quy định các quyền của người không phải là củ sở hữu đối với tài sản phải đăng ký bao gồm : quyền sử dụng đất , quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề thep thỏa thuận và các quyền khác theo quy định của Pháp luật. => Qua đó ta thấy được rằng : Các quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản là một trong các hình thức pháp lý thể hiện quan hệ sở hữu ở khía cạnh kinh tế. Các quyền này tạo khả năng cho những người không phải là chủ sở hữu sử dụng tài sản của người khác nhằm đáp ứng các nhu cầu về sản xuất kinh doanh cũng như tiêu dùng của mình. Nhưng do tài sản – đối tượng của quyền khác đối với tài sản, đã thuộc sở hữu của chủ sở hữu, nên tất cả các chủ thể khác chỉ có thể sử dụng nó ở mức độ hạn chế, trong phạm vi đã được chủ sở hữu cho phép hoặc do pháp luật quy định. Quyền khác đối với tài sản bắt nguồn và phụ thuộc vào quyền sở hữu (phần lớn là phát sinh do ý chí của chủ sở hữu). Đất đai và tài nguyên thiên nhiên – loại tài sản được Bộ luật dân sự năm 2005 quy định là thuộc sở hữu nhà nước – được đưa vào sử dụng khi chủ thể có quyền sử dụng đất (hoặc quyền sử dụng rừng, quyền sử dụng mặt nước...). Việc những người không phải là chủ sở hữu sử dụng tài sản của người khác theo những căn cứ như luật định , trong một số trường hợp là cần thiết nhằm thực hiện quyền mà những người đó có (như sử dụng bất động sản liền kề để có lối đi qua, mắc dây tải điện, cấp thoát nước...- Điều 271 đến 279 Bộ luật dân sự năm 2005). Quyền khác đối với tài sản cũng bao gồm các quyền năng như chiếm hữu, sử dụng, định đoạt nhưng vẫn hạn chế hơn so với chủ sở hữu tài sản. Các quyền khác đối với tài sản được bảo vệ theo trình tự và bằng các biện pháp pháp lý giống như bảo vệ quyền sở hữu. 8. Bảo vệ quyền, lợi ích của chủ sở hữu và của người chiếm hữu ngay tình ( Điều 263 đến 266 Bộ luật dân sự năm 1995 với Điều 255 đến 261 Bộ luật dân sự năm 2005). Đặc trưng của biện pháp bảo vệ quyền sở hữu bằng pháp luật dân sự thể hiện ở chỗ : nó lấy tính toàn vẹn của quyền sở hữu và của tài sản làm mục tiêu bảo vệ. Tuy nhiên Bộ luật dân sự năm 1995 chưa chỉ ra được khi tài sản đang thuộc sự chiếm hữu ngay tình thì lợi ích của chủ sở hữu và người chiếm hữu ngay tình được giải quyết như thế nào. Bộ luật dân sự năm 2005 đã giải quyết vấn đề này thông qua các quy định về quyền đòi lại động sản không phải đăng ký từ người chiếm hữu ngay tình – Điều 257 : Chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trong trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu và quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình – Điều 258 : Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa. 9. Xác lập, chấm dứt quyền sở hữu ( Điều 241 đến 262 Bộ luật

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích, so sánh các quy định về quyền sở hữu trong bộ luật dân sự năm 1995 và bộ luật dân sự năm 2005.doc
Tài liệu liên quan