MỤC LỤC
Số trang
Lời nói đầu 1
PhầnI Lý luận chung 2
I Quan điểm toàn diện với việc phát triển nền KTTT theo định hướng XHCN 2
1. Khái niệm về CNXH 2
2. Thế nào là nền KTTT 2
3. Việc xd nền KTTT theo định hướng XHCN 4
PhầnII Nền KTTT ở nước ta trong giai đoạn hiện nay 5
I. tính tất yếu khách quan phải xây dựng và phát triển nền KTTT 5
II. Vị trí vai trò của các thành phần kinh tế 6
1. Kinh tế nhà nước 6
2. Thành phần kinh tế hợp tác 7
3. Kinh tế tư bản nhà nước 8
4. Kinh tế cá thể và tiểu chủ 8
5. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân 9
III. Mối liên hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế 9
IV Những thành tựu và hạn chế trong qua trình xây dựng KTTT 10
1. Những thành tựu đạt được 10
2. Những mặt hạn chế 11
Phần III Nhân tố và giải pháp khắc phục khó khan trong quá trình xây dựng nền KTTT 12
1. Giải pháp khắc phục những khó khăn 12
2. Những nhân tố bảo đảm việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN 13
Kết luận 17
Tài liệu tham khảo 18
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1619 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quan điểm toàn diện với việc nghiên cứu nền kinh tế Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành phần kinh tế này.
Do việc quản lí các doanh nghiệp còn rất nhiều sơ hở. Sự liên doanh của Nhà nước với tư bản tư nhân rất ít. Việc quản lí các liên doanh có vốn đầu tư của nước ngoài còn nhiều sơ hở nghiêm trọng dẫn đến các hiện tượng tiêu cực như : Giao công nghệ lạc hậu, khai man giá thiết bị máy móc, trốn lậu thuế trở thành phổ biến. Mặt khác những thành phần kinh tế tiêu biểu cho lực lượng quyết định định hướng xã hội chủ nghĩa còn non kém, chúng chưa phát huy được tính ưu việt so với nền sản xuất nhỏ. Sự non kém đó cùng với năng lực quản lí điều hành yếu kém là nguy cơ dẫn đến chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là một tất yếu khách quan để hoàn thành công cuộc xây dựng CNXH
3. Việc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa là đi đến mục tiêu không còn áp bức, bóc lột, thực hiện được công bằng xã hội và xã hội có mức sống cao. Về mặt kinh tế công bằng không có nghĩa là bình quân. Đó là một quá trình tiệm tiến dần dần thông qua các biện pháp kinh tế - xã hội tổng hợp. Điểm khác nhau cơ bản của cơ chế kinh tế của XHCN so với cơ chế kinh tế tư bản chủ nghĩa là khả năng từng bưóc rút ngắn khoảng cách giàu - nghèo trong khi chủ nghĩa tư bản chỉ có thể dẫn đến phân cực. Trong thời kỳ quá độ chúng ta thừa nhận còn có bóc lột, đây là hiện tượng không hợp lý cần xoá bỏ.
Thực hiện mục tiêu đó là một nhiệm vụ lâu dài của nhiều thế hệ, phải giải quyết bằng nhiều biện pháp không làm tổn hại đến lợi ích hợp pháp của công dân. Bước đầu chìa khoá để giải quyết nhiệm vụ đó là xã hội hoá XHCN trong thực tế nền sản xuất xã hội.
Định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế đòi hỏi phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất xây dựng quan hệ sản xuất mới. Phải khắc phục được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế và xây dựng thành công cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Vừa hình thành được cơ cấu kinh tế đặc trưng cho xã hội mới. Quá trình chuyển hướng và đổi mới nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc, một vấn đề chiến lược quan trọng nhất, cơ bản nhất của tư duy kinh tế mới của Đảng ta.
Phầnii
Nền kinh tế thị trường ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
I. Tính tất yếu khách quan phải xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
Để xác lập cơ sở kinh tế của chế độ mới, Nhà nước ta xây dựng và phát triển các thành phần kinh tế mới. Sự phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia do đặc điểm lịch sử, điều kiện chủ quan, khách quan nên tất yếu có sự phát triển không đồng đều về lực lượng sản xuất giữa các ngành, các doanh nghiệp chính sự phát triển không đều đó quyết định quan hệ sản xuất, trước hết hình thức, qui mô và quan hệ sở hữu phải phù hợp với nó nghĩa là tồn tại những quan hệ sản xuất không giống nhau. Đó là cơ sở hình thành các cơ sở kinh tế khác nhau. Sự tồn tại các thành phần kinh tế ở nước ta có ý nghĩa lý luận và thực tế to lớn.
Hơn nữa các thành phần kinh tế cũ còn có khả năng phát triển, còn có vai trò đối với sản xuất và đời sống. Mỗi thành phần kinh tế đều có những thế mạnh riêng rất cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH. Trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế cần phải thu hút các nguồn lực từ bên ngoài Nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể liên doanh hợp tác với tư bản tư nhân trong nước và nước ngoài làm hình thành kinh tế tư bản Nhà nước.
Trên đây là nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại và phát triển nhiều thành phần kinh tế ở Việt Nam còn có cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá là do : phần công lao động xã hội với tư cách là cơ sở kinh tế của sản xuất hh chẳng những không mất đi trái lại ngày càng phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. ở nước ta ngày càng có nhiều ngành nghề cổ truyền có tiềm năng lớn trước đây bị cơ chế kinh tế cũ làm mai mọt nay được khôi phục và phát triển. Sản phẩm đưa ra trên thị trường phong phú, đa dạng chất lượng cao, mẫu mã đẹp hơn. Sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động đã vượt khỏi phạm vi quốc gia, trở thành phân công lao động trên phạm vi thế giới. Nền kinh tế nước ta đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế nhưng trình độ xã hội hoá giữa các ngành, các đơn vị sản xuất kinh doanh trong cùng một thành phần kinh tế vẫn chưa đều nhau. Do vậy, việc hạch toán kinh doanh trong cùng một thành phần kinh tế, phân phối và trao đổi sản phẩm tất yếu phải thông qua hình thái hàng hoá - tiền tệ để thực hiện các mối quan hệ kinh tế đảm bảo lợi lích giữa các tổ chức trong các thành phần với người lao động và giữa các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần với nhau.
II. Vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế.
Mỗi thành phần kinh tế đều là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân Mặc dù các thành phần kinh tế nàycó sự khác nhau về hình thức sở hữu, về cách thức thu nhập. Tuy nhiên chúng đều xuất phát từ yêu cầu phát triển khách quan của nền kinh tế và xã hội ta vàchúng có vị trí, vai trò nhất định trong một hệ thống kinh tế thống nhất có sự quản lý của Nhà nước.
1 Kinh tế Nhà nước.
Kinh tế Nhà nước bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, các tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước như đất đai, tài nguyên, kết cấu hạ tầng, các nguồn dự trữ, ngân hàng, kể cả các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Đại hội toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định rằng: Kinh tế Nhà nước cần tập trung vào những ngành, những lĩnh vực chủ yếu như : Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống tài chính ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất thương mại. Như vậy, vị trí của kinh tế Nhà nước là rất quan trọng và to lớn.
Kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ với các thành phần kinh tế khác, thể hiện trên các mặt sau: Kinh tế Nhà nước tạo lực lượng về kinh tế để Nhà nước có thể thực hiện hữu hiệu chức năng định hướng, đòn bẩy hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển có hiệu quả, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác, nó còn cung ứng những hàng hoá, dịch vụ cần thiết trong một số lĩnh vực quan trọng như : Giao thông, thông tin liên lạc, quốc phòng, an ninh,... Đồng thời kinh tế Nhà nước đảm bảo vai trò can thiệp và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, thực hiện một số chính sách xã hội.
Mấy năm qua khu vực kinh tế Nhà nước có chuyển biến tích cực biểu hiện ở: Tỷ trọng tổng sản phẩm trong nước tăng từ 36% năm 1991 lên đến 43,6% năm 1994. Hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng lên, số doanh nghiệp thua lỗ giảm bớt. Tuy nhiên, nó cũng chưa phát huy đầy đủ tính ưu việt và sự chủ đạo đối với nền kinh tế quốc dân, những tiến bộ đạt được chưa đáp ứng yêu cầu, chưa tương xứng với năng lực sẵn có. Hiệu quả kinh doanh còn thấp, một bộ phận đáng kể còn thua lỗ hoặc không có lãi. Do đó vấn đề cấp thiết đặt ra cho khu vực kinh tế Nhà nước là tạo ra động lực, lợi ích trực tiếp cho người lao động để họ thực hiện quyền làm chủ, kiểm tra, kiểm soát quá trình sản xuất kinh doanh. Việc đổi mới kinh tế Nhà nước phải hết sức coi trọng đầu tư và thường xuyên tổng kết để rút ra các bài học kinh nghiệm, bổ xung những tri thức “cập nhật” nhằm thực hiện tốt vai trò chủ đạo và mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa của thành phần kinh tế này.
2. Thành phần kinh tế hợp tác.
Hiện nay một thực tế đặt ra là nếu không củng cố và phát triển kinh tế hợp tác xã để nó cùng với kinh tế Nhà nước tạo thành nền tảng của xã hội thì mục tiêu phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là rất khó khăn. Vì vậy, Đại hội toàn quốc lần VIII đã nêu lên nhiệm vụ phải phát triển kinh tế hợp tác xã với nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao.
Thực tiễn cho thấy: Hợp tác xã phải được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, hưởng lợi quá theo cổ phần và kết quả lao động. Mỗi xã viên có quyền định đoạt ngang nhau đối với công việc chung. Kinh tế hợp tác có nhiều dạng, có những hợp tác xã trở thành lĩnh vực hoạt động chính của các thành viên, có những hợp tác xã chỉ nhằm đáp ứng chung về một hay một số dịch vụ trong quá trình sản xuất. Thành viên tham gia chỉ đóng một phần vốn và lao động, hộ gia đình vẫn là đơn vị kinh tế tự chủ. Hợp tác xã có thể là kết quả liên kết theo chiều dọc, chiều ngang hoặc hỗn hợp không bị giới hạn bởi địa giới và lĩnh vực kinh doanh. Hợp tác xã có thể huy động vốn cả trong lẫn ngoài.
Để đảm đương vai trò và nhiệm vụ mà nền kinh tế giao phó, thành phần kinh tế tập thể phải có sự đổi mới căn bản và đồng bộ về quan hệ sở hữu, quản lí và quan hệ phân phối, áp dụng tiến bộ và công nghệ khoa học mới vào sản xuất, hoạt động phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện tự chịu trách nhiệm với tư cách pháp nhân lời ăn lỗ chịu.
Sự tồn tại, phát triển của kinh tế hợp tác là một tất yếu kinh tế phù hợp với con đường tiến hoá tự nhiên của nền kinh tế nước ta. Vị trí, vai trò của thành phần kinh tế này đã được khẳng định và ngày càng phát huy tác dụng đặc biệt là trong kinh tế hợp tác xã nông nghiệp.
3. Kinh tế tư bản Nhà nước.
Kinh tế tư bản Nhà nước ở nước ta đa số là những doanh nghiệp nhỏ và vừa tập trung trong ngành dịch vụ (64%). Tổng giá trị sản phẩm khu vực này tạo ra là 9% GDP. Nó đã đóng vai trò không kém phần quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay, là cầu nối giữa sản xuất nhỏ và sản xuất lớn góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Lênin đã chỉ rõ “Trong một nước tiểu nông phải đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản Nhà nước tiến lên xã hội chủ nghĩa”. Vận dụng tư tưởng đó Đảng ta đã chỉ rõ là phải áp dụng một cách rộng rãi các hình thức tư bản Nhà nước để phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thu hút đầu tư nước ngoài có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển thành phần kinh tế này. Đó là việc thu hút vốn, công nghệ và kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của thế giới, khu vực nhằm từng bước gớp phần cấu trúc lại nền kinh tế, tạo việc làm, tăng nguồn thu cho ngân sách. Vì vậy Việt Nam cần tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi hơn, hấp dẫn hơn bằng cách đơn giản hoá thủ tục đầu tư, xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ đủ khả năng đảm đương được công việc, nâng cao hệ thống cơ sở hạ tầng và xây dựng hệ thống pháp luật ổn định. Tạo lòng tin và giữ vững chữ tín với các đầu tư nước ngoài.
4 Kinh tế cá thể, tiểu chủ.
Sở hữu của thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân, sản xuất kinh doanh phân tán, mục đích kinh doanh chủ yếu nuôi sống mình. Thế mạnh của thành phần kinh tế này là phát huy nhanh, có hiệu quả tiền vốn, sức lao động, tay nghề. Vì vậy kinh tế cá thể tiểu chủ có vị trí, vai trò quan trọng và lâu dài đối với sự phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Đảng và Nhà nước chủ trương giúp đỡ thành phần kinh tế tiểu thủ về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Song nó còn có những hạn chế không phù hợp với chủ nghĩa xã hội. Do đó cần hướng dẫn nó đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện hoặc làm “vệ tinh” cho các doanh nghiệp Nhà nước và hợp tác xã. Đó là cách tốt đất để nó hoà nhập với các thành phần kinh tế khác và đóng góp nhiều hơn cho công cuộc đổi mới kinh tế, phát triển đất nước.
5 Thành phần kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế tư bản tư nhân tồn tại dưới các hình thức như : Doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn. Từ năm 1991, sau khi có luật Doanh nghiệp tư nhân ở nước ta, kinh tế tư bản Nhà nước phát triển khá mạnh và sẽ trở thành một lực lượng đáng kể trong công cuộc xây dựng đất nước. Hiện nay có 12.109 Doanh nghiệp tư nhân với số vốn đăng ký 2.234 tỷ đồng, Công ty trách nhiệm hữu hạn có 5583 Công ty với tổng số vốn 3 tỷ đồng. Nền kinh tế nước ta phát triển có năng động với tốc độ cao hay không phụ thuộc không nhỏ vào sự phát triển của khu vực kinh tế này. Mặt khác việc tư nhân hoá các Doanh nghiệp Nhà nước chỉ có thể mở rộng và có hiệu quả dựa trên cơ sở một khu vực kinh tế tư nhân được phát triển đủ lớn làm tiền đề. Vì vậy, trong điều kiện nước ta hiện nay sự phát triển mạnh mẽ và năng động của kinh tế tư bản tư nhân có ý nghĩa rất lớn và đòi hỏi phải được sự quan tâm đúng mức của Đảng- Nhà nước.
Nhà nước cần khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư bỏ vốn ra kinh doanh. Những nhà đầu tư tư nhân phải được thực sự bình đẳng trong kinh doanh trước pháp luật, được tôn trọng trong xã hội. Chính sách của Nhà nước ta là khuyến khích tư bản tư nhân phát triển trong những ngành và lĩnh vực pháp luật cho phép. Nhà nước góp phần vốn đầu tư cùng tư nhân trên cơ sở thoả thuận nhằm tạo thế Kinh doanh tạo lực phát triển xây dựng tình đoàn kết, hợp tác giữa chủ và thợ phát triển Kinh doanh có hiệu quả. Tất cả các thành phần kinh tế trên tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển mạnh mẽ.
III Mối liên hệ biện chứng giữa các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta.
Nền kinh tế hàng hóa quá độ trong đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những kiểu sản xuất hàng hoá không cùng bản chất vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau. Tính thống nhất của các thành phần kinh tế thể hiện :
Các thành phần kinh tế trong quá trình hoạt động không biệt lập nhau mà gắn bó đan xen thâm nhập lẫn nhau thông qua các mối quan hệ kinh tế Mỗi thành phần kinh tế có vai trò, chức năng của nó trong đời sống kinh tế xã hội và đều chịu sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Sự thống nhất của các thành phần kinh tế còn vì yếu tố điều tiết thống nhất của hệ thống các quy luật kinh tế đang tác động trong thời kỳ quá độ và thị trường thống nhất.
Tất cả các thành phần kinh tế đều xuất phát từ yêu cầu phát triển khách quan của nền kinh tế nước ta. Vì vậy các thành phần này đều phát huy mọi tiềm lực hiện có để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Các thành phần kinh tế đều khác nhau về nhiều mặt cho nên sự thống nhất này bao hàm những mặt khác biệt nhau và đối lập nhau. Chúng tồn tại trong mẫu thuẫn.
Mâu thuẫn giữa công hữu và tư hữu, giữa tư nhân với tập thể, giữa xu hướng tư bản chủ nghĩa và xu hướng xã hội chủ nghĩa. Sở dĩ có sự mâu thuẫn là do đặc điểm sở hữu của các thành phần kinh tế là khác nhau nên lợi ích kinh tế giữa các thành phần là khác nhau, trái ngược nhau nên mâu thuẫn nhau. Ngay trong mỗi thành phần kinh tế các Doanh nghiệp cũng mâu thuẫn lẫn nhau vì chúng đều là các chủ thể tham gia cạnh tranh trên thị trường.
Mâu thuẫn là động lực của mọi sự vận động và phát triển trong hệ thống thống nhất của nền kinh tế qúa độ trong đó chứa đựng những sự đối lập, một mặt bài trừ, như định lẫn nhau, cạnh tranh với nhau. Mặt khác chúng thống nhất với nhau, nương tựa vào nhau để tồn tại và phát triển Trong quá trình cạnh tranh và hợp tác từng thành phần kinh tế tồn tại với tư cách là đơn vị sản xuất hàng hoá để vươn lên tự khẳng định mình và phát triển theo quỹ đạo chung chịu sự quản lý của Nhà nước. Tuỳ vào khả năng và trình độ xã hội hoá của từng thành phần và sự hợp tác giữa chúng mà giải phóng mọi năng lực sản xuất Kinh doanh, mở rộng thị trường tạo công ăn việc làm nâng cao đời sống người dân.
IV.Những thành tựu và hạn chế trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
1 Những thành tựu đạt được.
Qua hơn mười năm đổi mới nền kinh tế nước ta bước đầu đi dần vào thế ổn định và tăng trưởng đã đạt được những thành tựu đáng kể: Tổng sản phẩm xã hội (GDP) tăng bình quân hàng năm là 8,2%, giảm tỷ lệ lạm phát từ 14,7% năm 1986 xuống 12,7% năm 1995 và khoảng 5% năm 1996. Kim ngạch xuất khẩu trong năm năm (1991-1995) đạt 17 tỷ đôla và năm 1996 đạt trên 7 tỷ đôla. Mở rộng được quan hệ kinh tế hợp tác với nước ngoài, thu hút vốn đầu tư và kỹ thuật của nhiều nước để phát triển kinh tế trong nước. Đến cuối 1996 có trên 700 Công ty lớn, nhỏ đầu tư vào nước ta với 22 tỷ đôla nằm trong 1800 dự án phát triển kinh tế thuộc nhiều thành phần khác nhau như : công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, ngân hàng tài chính chúng ta đã thiết lập quan hệ buôn ngoại thương với 120 nước trên thế giới, xoá bỏ thế bị bao vây cô lập về kinh tế tạo ra thế và lực mới để cạnh tranh trên thị trường thế giới. Môi trường kinh tế vĩ mô ngày càng ổn định và cán cân thương mại ngày càng được cải thiện rõ rệt làm cho nền kinh tế phát triển và năng động hơn.Tuy nhiên nền kinh tế nước ta còn bộc lộ những hạn chế
2 Những mặt hạn chế.
Sự tăng trưởng của nền kinh tế chưa thật ổn định và vững chắc. Sự tăng trưởng này chủ yếu do đầu tư theo vốn và lao động. Chưa tạo lập được một hệ thống thị trường đầy đủ theo yêu cầu của kinh tế thị trường. thị trường hàng hoá và dịch vụ tuy có hoạt động sôi nổi nhưng chỉ tập trung ở thành phố, đô thị lớn và một số tỉnh biển giới, về cơ bản là tự phát, lộn xộn rất không bình thường, thị trường nông thôn không được quan trọng. Mặt khác ở những vùng miền núi, trung du, nơi có tiềm năng lớn về tài nguyên khoáng sản lại chưa được chú ý. Trong khu vực kinh tế Nhà nước, thị trường lao động chỉ tồn tại ở trình độ thấp, còn có 1/3 trong hơn 6000 Doanh nghiệp Nhà nước làm ăn chưa có lãi hoặc thua lỗ. Nạm tham nhũng buôn lậu, làm hàng giả ngày càng gia tăng phá hoại sản xuất nội địa gây thiệt hại cho lợi ích người tiêu dùng và gây thất thu cho ngân sách Nhà nước. Trình độ lực lượng sản xuất thấp kém có nguy cơ tụt hậu so với nhiều nước nếu như sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá chậm phát triển. Mặt khác kết cấu hạ tầng ở nước ta còn quá kém, chưa phát huy được nhân tố con người trong công cuộc phát triển kinh, năng suất lao động xã hội chưa cao. Sự phân hoá giàu - nghèo trong xã hội đang diễn ra khá nhanh và có xu hướng ngày càng gia tăng.
Phần IV.
Nhân tố và giải pháp khắc phục khó khăn Trong QUá TRình XD nền kinh tế thị trường
1 Giải pháp khắc phục khó khăn.
Để khắc phục những khó khăn và hạn chế nêu trên Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và thực hiện các giải pháp sau: song song với việc phát triển mạnh các thành phần kinh tế phải đảm bảo cho kinh tế Nhà nước giữ vững vai trò chủ đạo và khả năng điều tiết được các thành phần kinh tế khác. Để thực hiện được điều này cần thực hiện một cách đồng bộ các giải pháp sau :
Kinh tế Nhà nước phải được quan tâm đầu tư đúng mức: Hiện đại hoá quy trình công nghệ,vận dụng kịp thời những thành tựu mới nhất của khoa học, kỹ thuật hiện đại vào quá trình sản xuất kinh doanh. Kinh tế Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo, kinh doanh có lãi. Nhà nước phải độc quyền ngoại thương vì chỉ có độc quyền ngoại thương Nhà nước mới có thể tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp phát triển và định hướng được các thành phần kinh tế khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cần đảm bảo thu nhập của các cán bộ công nhân trong khu vực kinh tế Nhà nước phải cao hơn ngoài khu vực kinh tế Nhà nước, để tránh tình trạng chảy máu chất xám.
Giải pháp lớn thứ hai là: phải thường xuyên cải tiến và đổi mới cơ chế quản lý, hoàn thiện quan hệ sản xuất trên các mặt sở hữu, tổ chức sản xuất - Kinh doanh và phân phối tiêu thụ sản phẩm. Phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát Doanh nghiệp Nhà nước đối với tất cả các thành phần kinh tế. Phải tạo công ăn việc làm cho người lao động, nhanh chóng giao đất giao rừng cho người lao động ở nông thôn và miền núi, thực hiện phân phối lại nhiều lần để đảm bảo cho người nghèo có điều kiện phát triển.
Thứ ba là đảm bảo được niềm tin của quần chúng nhân dân lao động vào chủ nghĩa xã hội vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.
Xu hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển kinh tế sẽ không thể thực hiện được nếu như quần chúng nhân dân lao động mất niềm tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa. Do đó phải củng cố niềm tin của dân vào Đảng vào xã hội chủ nghĩa.Phải khắc phục được tệ nạn tham nhũng đang trở thành quốc nạn trong xã hội ta.
Giải pháp thứ tư là hoàn thiện hệ thống pháp luật sử phạt nghiêm minh. Hoàn thiện tổ chức của các cơ quan pháp luật để không còn hiện tượng, chồng chéo lẫn nhau. Chức năng, nhiệm vụ các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp phải rõ ràng. Cần đảm bảo tính chất công bằng, hợp lý của luật pháp ngày trong bản thân các điều luật ban hành.Phổ cập giáo dục pháp luật trong toàn dân, nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật cho tất cả mọi người. Giữ vững quyền lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng cộng sản Việt Nam. Để làm được điều này cần đề phòng hai nguy cơ sau:
Nguy cơ xâm lược tác động từ bên ngoài theo chiều hướng đối lập về bản chất và nguy cơ phân liệt, biến loạn từ bên trong nội bộ Đảng
Bên cạnh những giải pháp đó đồng thời phải xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp giỏi và các nhà quản lý vĩ mô có tài cần phải liên kết họ lại. Mặt khác thi hành các chính sách như : chính sách mở cửa tạo thuận lợi cho sự hợp tác, văn hoá, khoa học với nước ngoài, các chính sách về thuế quan xuất nhập khẩu hàng hoá, chính sách về luật đầu tư ngày càng được cải tiến bổ sung đã có tác dụng tích cực cho sự phát triển mạnh nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế trong khu vực và thế giới.
Để hỗ trợ cho sự phát triển công nghiệp, nông nghiệp chúng ta đã đẩy mạnh mặt trận ngoại giao, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và y tế.
Tất cả những giải pháp trên kết hợp với việc quản lý kinh tế - xã hội bằng luật pháp theo mô hình Nhà nước pháp quyền đã có sức sống và đang trở thành hiện thực. Đó là thành tựu to lớn mà chúng ta đã đạt được.
2. Những nhân tố bảo đảm việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là một tất yếu khách quan
Xu hướng khách quan sự tăng trưởng kinh tế của nhân loại đến một trình độ nhất định làm xuất hiện sự phát triển kinh tế thị trường. Nhưng kinh tế thị trường có thể phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa hoặc xã hội chủ nghĩa. Như thế xu hướng khách quan chưa đủ đảm bảo để kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà còn đòi hỏi các nhân tố chủ quan. Nhân tố chủ quan bảo cho sự phát triển kinh tế theo định hướng xã hội của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam là :
Thứ nhất : Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng hoạt động với tư cách là người tổ chức và lãnh đạo, định hướng mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng cần nâng cao được nhận thức với nội dung cơ bản là : xác định mục tiêu chính trị, định hướng chính trị cho sự phát triển kinh tế xã hội công bằng, cương lĩnh đường lối chiến lược phát triển, bằng những nguyên tắc và chính sách lớn trong đối nội và đối ngoại.
Yêu cầu của mọi sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đòi hỏi Đảng ta phải thực sự có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ, sáng tạo trong hoạch định cương lĩnh, chiến lược và sách lược nhằm hiện thực hoá bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội trong cuọc sống.
Thứ hai : Xây dựng Nhà nước Việt Nam vững mạnh, trong sạch quản lý kinh tế xã hội có hiệu quả.
Phải xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước pháp quyền là nấc thang của văn minh nhân loại trong lĩnh vực quản lý xã hội bằng pháp luật. Nhà nước nước pháp quyền đạt trình độ phát triển rực rỡ trong chủ nghĩa tư bản. ngày nay Đảng ta cũng sử dụng nó để phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy có quy luật gì, đặc điểm nào của Nhà nước pháp quyền mà chủ nghĩa tư bản sử dụng thì phù hợp còn Việt Nam lại không vì Việt Nam đi theo chủ nghĩa xã hội. Điều này phải thật rõ ràng để khi xây dựng và thực thi pháp luật Nhà nước pháp quyền Việt Nam không rơi vào tình trạng mất định hướng, “chắp vá” sẽ rất nguy hiểm đối với một “cỗ máy” trong sản xuất công nghiệp và càng nguy hiểm đối với một bộ máy Nhà nước khi vận hành không theo một mục đích. Định hướng xã hội chủ nghĩa là phải làm cho kinh tế xã hội phát triển. Như thế cơ chế, chính sách của Nhà nước phải khoa học, sáng tạo và đồng bộ nhằm hướng sự phát triển toàn diện xã hội.
Nhà nước phải có môi trường pháp lý, xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần phải có sự quản lý của Nhà nước. Nội dung và phương tiện quản lý của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế là pháp luật và hành lang pháp lý. Vậy phải tạo môi trường pháp lý để tất cả các thành phần kinh tế cạnh tranh và phát triển trong khuôn khổ pháp luật.
Thứ ba : Tính nhân dân, tính dân tộc trong phát triển kinh tế.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là phương tiện, phương thức khơi dậy tiềm năng, sức sáng tạo của cả cộng đồng dân tộc. Như vậy, toàn bộ hoạt động của Đảng, Nhà nước phải hướng tới sự giải phóng mọi tiềm năng của đất nước của nhân dân như : Khả năng làm giàu, tính tự giác, lòng yêu xã hội chủ nghĩa. Tất cả phải hướng tới mục tiêu “dân là gốc” - “gốc là của mọi quyền lực”.
Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Hơn mười năm đổi mới chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn tuy nhiên những thành tựu đó lại làm phát sinh nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã cảnh báo. Nguy cơ đó bắt đầu từ các nguyên nhân sau.
Do năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của nhà nước chưa nâng lên kịp thời với yêu cầu hiện nay, lại bị quốc nạn quan liêu tham nhũng làm yếu đi. Để khắc phục chúng ta cần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và nhà nước
Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước . Vai trò của Đảng thể hiện ngay từ việc Đảng đã chủ động thúc đẩy, lựa chọn tạo mọi điều kiện cần t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 60057.doc