Khoản 3 Điều 249 BLTTHS quy định: “Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt, áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn; tăng mức bồi thường thiệt hại, nếu có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của người bị hại, nguyên đơn dân sự”
Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ có thể quyết định sửa bản án theo hướng bất lợi cho bị cáo khi có kháng cáo của người bị hại hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát yêu cầu tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Các trường hợp sửa án theo hướng không có lợi cho bị cáo của Hội đồng xét xử phúc thẩm bao gồm”
- Tăng hình phạt: là việc Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định áp dụng một mức hình hpatj mới nặng hơn so với mức hình phạt mà Hội đồng xét xử sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo. Tăng hình phạt bao gồm tăng hình phạt chính và tăng hình phạt bổ sung (nếu có), chuyển sang loại hình phạt chính khác nặng hơn hay áp dụng thêm loại hình phạt.
Căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định này là khi thấy quyết định áp dụng hình phạt đối với bị cáo trong bản án sơ thẩm quá nhẹ, chưa tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
- Áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn
Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể áp dụng điều khỏa BLHS về tội nặng hơn so với phần nội dung định tội danh trong bản án sơ thẩm nếu xét thấy quyết định của Tòa án sơ thẩm là quá nhẹ so với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo.
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5134 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Quyền hạn hội đồng xét xử phúc thẩm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xét xử phúc thẩm chính là kháng cáo, kháng nghị hợp pháp đối với những bản án, quyết định sơ thẩm.
Đối tượng của thẩm quyền xét xử phúc thẩm: Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền xem xét và quyết định đối với những bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật trên cơ sở những kháng cáo, kháng nghị hợp lệ. Bản án (quyết định) giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm sẽ có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Sau thời gian luật định mà không có bất kỳ kháng cáo, kháng nghị nào tức là những người có quyền kháng cáo, kháng nghị đã thừa nhận tính đúng đắn, phù hợp của bản án, quyết định sơ thẩm. Theo đó, bản án (quyết định) sơ thẩm phát sinh hiệu lực pháp luật và được thi hành trên thực tế, không phải là đối tuwognj cần phải xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm. Nếu sau đó phát hiện ra những tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung của các bản án, quyết định đó hoặc phát hiện ra những vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng khi giải quyết vụ án thì những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật sẽ trở thành đối tượng xét lại theo thủ tục tái thẩm hoặc giám đốc thẩm. Đây là điểm khác cơ bản giữa thẩm quyền phúc thẩm với thẩm quyền giám đốc thẩm và tái thẩm.
Nội dung thẩm quyền xét xử phúc thẩm: Trên cơ sở những kháng cáo, kháng nghị hợp lệ, Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ tiến hành xét lại và xét xử lại đối với những bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Cụ thể, Hội đồng xét xử tiến hành xét lại tính hợp pháp (về mặt nội dung và hình thức của bản án, quyết định đó) và tính có căn cứ (về sự phù hợp giữa kết luận trong bản án, quyết định với những sự kiện trên thực tế khách quan của vụ án). Nội dung thứ hai của thẩm quyền phúc thẩm là việc Hội đồng xét xử tiến hành xét xử lại vụ án hình sự về mặt nội dung để giải quyết vụ án một cách chính xác trên cơ sở những chứng cứ ở cấp sơ thẩm và những chứng cứ mới.
Phạm vi thực hiện thẩm quyền xét xử phúc thẩm: Trong quá trình thực hiện chức năng xét xử, Tòa án được Nhà nước trao cho quyền năng đưa ra các quyết định có tính chất quyền lực nhà nước để giải quyết vụ án, đồng thời, cũng hạn chế quyền năng đó trong một giới hạn pháp luật nhất định gọi là phạm vi thẩm quyền. Về cơ bản, kháng cáo kháng nghị hợp pháp là cơ sở pháp lý để Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định phạm vi xét xử của mình. Hội đồng xét xử chỉ xem xét giải quyết phần nội dung của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, thẩm quyền xem xét còn được mở rộng ra những phần khác của bản án không có kháng cáo, kháng nghị, thậm chí mở rộng xem xét toàn bộ nội dung bản án nếu Hội đồng xét xử nhận thấy đó là những “trường hợp cần thiết” và không vi phạm nguyên tắc “không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo”.
Dựa trên các dấu hiệu đặc trưng trên có thể hiểu: “thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm là tổng hợp các quyền mà pháp luật trao cho Hội đồng xét xử phúc thẩm được xem xét và quyết định trong phạm vi xét xử phúc thẩm đối với nội dung của vụ án hình sự mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; nhằm xét lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định đó, đồng thời giải quyết đúng đắn vụ án hình sự”.
Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm
Quyết định không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm (Điều 248 BLTTHS)
Trước hết việc giữ nguyên bản án sơ thẩm là trường hợp toàn bộ bản án sơ thẩm đều được giữ nguyên, không thay đổi. Trong trường hợp một bản án có nhiều kháng cáo, kháng nghị, việc Tòa án không chấp nhận mốt số kháng cáo, kháng nghị và các quyết định sửa án thì được coi là trường hợp sửa án sơ thẩm chứ không phải là trường hợp giữ nguyên bản án sơ thẩm. Do đó, cần phải hiểu giữ nguyên bản án sơ thẩm là giữ nguyên toàn bộ bản án sơ thẩm, chứ không thể có trường hợp giữ nguyên một phần bản án sơ thẩm.
Hội đồng xét xử quyết định bác kháng cáo, kháng nghị khi kháng cáo, kháng nghị không được chấp nhận về mặt hình thức hoặc không được chấp nhận về mặt nội dung. Cần chú ý là tại phiên tòa xét xử, sau khi xem xét các kháng cáo, kháng nghị đủ điều kiện hình thức nhưng lại xác định nội dung của những kháng cáo, kháng nghị này không có căn cứ thì Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị đó. Tuy nhiên việc không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị không đồng nghĩa với việc Hội đồng xét xử phúc thẩm đã giữ nguyên bản án sơ thẩm. Việc quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm cần phải dựa trên những căn cứ nhất định.
Quyết Định sửa bản án sơ thẩm (Điều 249 BLTTHS)
Sửa bản án sơ thẩm là quyết định của Hội đồng xét xử phúc thẩm để thay đổi về nội dung của bản án sơ thẩm như thay đổi về việc định tội danh, quyết định hình phạt, bồi thường thiệt hại và các biện pháp tư pháp (nếu có)… theo hướng bất lợi hoặc có lợi cho bị cáo.
Có thể thấy đây là quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm với ý nghĩa đưa ra nhưng phán quyết cuối cùng nhằm giải quyết trực tiếp về nội dung của một vụ án chứ không chỉ giải quyết gián tiếp qua hủy án để điều tra lại hoặc xét xử lại. Đây cũng là quyền năng tạo nên điểm khác biệt trong thẩm quyền của Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm mà hội đồng giám đốc thẩm và tái thẩm không có. Quyền hạn này xuất phát từ tính chất của cấp xét xử phúc thẩm là không chỉ xét lại về tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án sơ thẩm mà còn xét xử lại. Trong khi hai thủ tục này chỉ là xét lại tính có căn cứ và tính hợp pháp trong những phán quyết của Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm hoặc phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật. Trong cả hai thủ tục tố tụng này, Tòa án không xét xử lại vụ án, mặc dù phát hiện ra những sai lầm thiếu sót nhưng không thể ra sửa nội dung bản án theo bất kì hướng nào. Qua đó cho thấy, việc sửa án chỉ được ghi nhận dưới hình thức bản án của Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm.
Căn cứ chung của quyết định sửa bản án sơ thẩm là khi Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng sai những quy định của Luật nội dung (các quy định trong BLHS, BLDS), thì Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm sẽ tiến hành xem xét để sửa chưa những sai lầm, thiếu sót này.
việc sử án cần dựa vào những điều kiện cụ thể, được xem xét cẩn trọng và chặt chẽ theo các hướng sau:
Sửa án theo hướng có lợi cho bị cáo (Điều 249 BLTTHS)
Việc sửa án theo hướng có lợi cho bị cáo là việc thay đổi nội dung bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo so với tình trạng của bị cáo mà bản án sơ thẩm đã tuyên trước đó. Vì đây là quyết định có lợi cho bị cáo nên thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm không phụ thuộc vào yêu cào của kháng cáo, kháng nghị - tức là có thể sửa án theo hướng có lợi cho bị cáo khoảnể cả trong trường hợp bản án chỉ có kháng cáo yêu cầu sử án theo hướng bất lợi cho bị cáo. Ngoài ra, theo tinh thần của khoản 2 Điều 249 BLTTHS thù nếu có căn cứ, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể quyết định sửa án theo hướng có lợi cho cả những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị. Đây chính là một trường hợp cần thiết để Tòa án phúc thẩm thực hiện thẩm quyền với phạm vi xem xét rộng nhất, được ghi nhận tại Điều 244 BLTTHS.
Quyết định sửa án theo hướng có lợi cho bị cáo bao gồm các trường hợp sau:
Miễn trách nhiệm hình sự hoặc hình phạt cho bị cáo
Miễn trách nhiệm hình sự là việc Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mà người đó đã thực hiện. Căn cứ của quyết định là khi bị cáo thuộc một trong những trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự được quyết định trong BLHS tại Điều 25; Điều 19; khoản 2 Điều 69; khoản 3 Điều 80; khoản 6 Điều 289; khoản 3 Điều 314.
Miễn hình phạt là không bắt người phạm tội phải chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước về tội mà người đó đã thực hiện. Người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS, đang được khoan hồn đặc biệt nhưng chưa đến mức miễn trách nhiệm hình sự (Điều 54 BLHS); hoặc là người không tố giác có hành động can ngăn ngườ phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm theo quy định tại khoản 3 Điều 314 BLHS.
Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ quyết định miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo khi xét thấy việc truy cứu trách nhiệm hình sự và buộc người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu các biện pháp chế tài là không cần thiết, không đạt được mục đích của hình phạt hoặc trái với các nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam.
Áp dụng điều khoản của BLHS về tội nhẹ hơn
Trong quá trình xét xử, nếu xét thấy việc định tội danh và quyết định hình phạt áp dụng đối với bị cáo là quá nặng so với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền quyết định sửa án theo hướng áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn. Đây chính là thẩm quyền sửa bản án sơ thẩm về phần xác định tội danh của Hội đồng xét xử phúc thẩm. Áp dụng điều khoản nhẹ hơn có thể là tuyên bị cáo một tội danh khác nhẹ hơn so với tội danh đã tuyên trong bản án sơ thẩm hoặc chuyển từ khung hình phạt ban đầu sang khung hình phạt nhẹ hơn trong cùng một tội, hoặc chuyển từ cầu thành tội phạm tăng nặng sang cấu thành tội phạm giảm nhẹ nhờ thêm một số tình tiết giảm nhẹ, bớt đi một hoặc một sốt tình tiết tăng nặng qui định tại Điều 46, 48 BLHS.
Giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo
Nếu xét thấy mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo cao hơn so với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể quyết định giảm mức hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung (hoặc cả hai) hoặc bỏ bớt một trong tổng số các hình phạt mà Hội đồng xét xử sơ thẩm đã tuyên trong bản án sơ thẩm mà không thay đổi tội danh đối với bị cáo
Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn
Hệ thông hình phạt trong luật hình sự Việt Nam bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung quy định tại Điều 28 BLHS, mỗi hình phạt được quy định chi tiết từ Điều 29 tới 40 BLHS. Mức độ nặng nhẹ của hình phạt chưa được giải thích cụ thể trong văn bản hướng dẫn nào, tuy nhiêm căn cứ vào khoản 1 Điều 28 BLHS, có thể thấy sự sắp xếp sáu hình phạt chính theo thứ tự tăng dần mức độ nghiêm khắc, nhưng đối với hình phạt bổ sung thì không thể căn cứ theo thứ tự sắp xếp được.
Như vậy, việc chuyển sang hình hpatj khác nhẹ hơn là việc Hội đồng xét xử phúc thẩm đã quyết định chuyển từ loại hình phạt chính mà Hội đồng xét xử sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo sang loại hình phạt chính khác nhẹ hơn.
Giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo là quyết định của Hội đồng xét xử phúc thẩm trong đó vẫn giữ mức hình phạt tù đối với bị cáo như trong bản án sơ thẩm nhưng bị cáo được miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.
Giảm mức bồi thường thiệt hại cho bị cáo là việc Hội đồng xét xử quyết định thay đổi mức bồi thường thiệt hại của bị cáo và những người liên quan thấp hơn so với bản án sơ thẩm nếu thấy quyết định tại bản án sơ thẩm về phần bồi thường thiệt hại cao hơn mức thiệt hại thực tế do hành vi phạm tội gây ra. Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ giảm mức bồi thường thiệt hại nếu có kháng cáo, kháng nghị yêu cầu; nhưng không được giảm mức bồi thường thiệt hại cho bị cáo nếu người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự có liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ vắng mặt tại phiên toàn có lý do chính đáng vì quyết định này ảnh hưởng bất lợi tới họ. Quy định trên xuất phát từ nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, phù hợp với bản chất của quan hệ dân sự là bình đẳng và tôn trọng thỏa thuận giữa các bên tham gia (Điều 28 BLTTHS).
Sử phần quyết định xử lý vật chứng
Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể sửa quyết định xử lý vật chứng nếu như quyết định xử lý vật chứng của Hội đồng xét xử sơ thẩm không tuân thủ các quy định tại Điều 76 BLTTHS. Việc sửa quyết định xử lý vật chứng có thể theo hai hướng có lợi hoặc bất lợi cho bị cáo.
Quyết định sửa án theo hướng bất lợi với bị cáo (khoản 3 Điều 249 BLTTHS)
Khoản 3 Điều 249 BLTTHS quy định: “Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt, áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn; tăng mức bồi thường thiệt hại, nếu có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của người bị hại, nguyên đơn dân sự”
Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ có thể quyết định sửa bản án theo hướng bất lợi cho bị cáo khi có kháng cáo của người bị hại hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát yêu cầu tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Các trường hợp sửa án theo hướng không có lợi cho bị cáo của Hội đồng xét xử phúc thẩm bao gồm”
Tăng hình phạt: là việc Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định áp dụng một mức hình hpatj mới nặng hơn so với mức hình phạt mà Hội đồng xét xử sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo. Tăng hình phạt bao gồm tăng hình phạt chính và tăng hình phạt bổ sung (nếu có), chuyển sang loại hình phạt chính khác nặng hơn hay áp dụng thêm loại hình phạt.
Căn cứ để Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định này là khi thấy quyết định áp dụng hình phạt đối với bị cáo trong bản án sơ thẩm quá nhẹ, chưa tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn
Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể áp dụng điều khỏa BLHS về tội nặng hơn so với phần nội dung định tội danh trong bản án sơ thẩm nếu xét thấy quyết định của Tòa án sơ thẩm là quá nhẹ so với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo.
Tăng mức bồi thường thiệt hại chỉ được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét và quyết định trên cơ sở có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của người bị hại, nguyên đơn dân sự. Đây là một nguyên tắc bắt buộc do vấn đề ảnh hưởng tới quyền lợi chính đáng về vật chất của các đối tượng có liên quan. Khi tăng mức bồi thường thiệt hại, Hội đồng xét xử cần cawnc cứ vào mức thiệt hại do hành vị phạm tội gây ra, mức độ này có thể ảnh hưởng tới quyết định định tội danh và quyết định hình phạt đối với bị cáo. Do đó, quyết định tăng mức bồi thường thiệt hại cần được xem xét và có thể được thực hiện song song với quyết định khác.
Ngoài ra, trong thực tiễn xét xử, các quyết định của Hội đồng xét xử phúc thẩm không chỉ giới hạn trong ba loại quyết định là tăng hình phạt, áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn và tăng mức bồi thường thiệt hại. Điều này thể hiện sự bất hợp lý trong kĩ thuật lập pháp trong các trường hợp sửa án theo hai hướng ngược nhau là tăng nặng và giảm nhẹ cho bị cáo tại khoản 1 và khoản 3 Điều 249 BLTTHS.
Quyết định hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại (Điều 250 BLTTHS)
Hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại là việc Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để tiến hàng lại giai đoạn tố tụng là điều tra lại hoặc xét xử sơ thẩm lại vụ án đó. Đây là quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm khi ở giai đoạn sơ thẩm có những sai lầm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng là Hội đồng xét xử phúc thẩm không thể khắc phục được hoặc những sai lầm nghiêm trọng về mặt nội dung dẫn đến không có căn cứ để sửa án mà phải yêu cầu cơ quan tố tụng tiến hành thực hiện lại các thủ tục tố tụng trước đó nhằm đảm bảo tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án sơ thẩm, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác, đảm bảo quyền kháng cáo, kháng nghị.
Hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại (khoản 2 Điều 250 BLTTHS)
“Tòa án cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm để điều tra lại khi thấy việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được”. Điều luật đã chỉ rõ hai điều kiện cần và đủ để Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại là việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ đồng thời cấp phúc thẩm không thể bổ sung được.
Điều tra là một giai đoạn tố tụng quan trong nhằm thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội, xác định tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Điều kiện “việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ” không được hướng dẫn cụ thể, dấn đến tình trạng sau khi điều tra lại nhưng những căn cú để giải quyết vụ án không được bổ sung nên nội dung bản án khi xét xử sơ thẩm lại không thay đổi. Có thể đây là trường hợp kết quả của giai đoạn điều tra không xác định đầy đủ đối tượng chứng minh của vụ án nên Tòa án không có đủ cơ sở pháp lý để xác định sự thật bụ án một cách khách quan, toàn diện, đúng đắn.
Có thể liệt kê một số trường hợp được coi là “việc điều tra không đầy đủ” khi:
Không tiến hành lấy lời khai của những người là lời khai của họ quan trọng đối với việc xác định sự thật khách quan của vụ án;
Không tiến hành trưng cầu giám định trong những trường hợp bắt bộc phải trưng cầu giám định theo khoản 3 Điều 155 BLTTHS;
Không xác minh đầy đủ những tình tiết quan trọng về nhân thân bị cáo hay người bị hại;
Không làm rõ được các tình tiết được chỉ ra trong quyết định yêu cầu điều tra bổ sung…
Điều kiện đủ để Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy án để điều tra lại là tại phiên toàn phúc thẩm, Hội đồng xét xử đã tiến hành mọi biện pháp cần thiết nhưng vẫn không bổ sung được những chứng cứ cần thiết để xác định sự thật vụ án. Nếu Hội đồng xét xử tự bổ sung được chứng cứ thì không cần hủy án để điều tra lại mà tiến hành bổ sung chứng cứ mới ngay tại phiên tòa để ra quyết định phù hợp.
Hủy bán sơ thẩm để xét xử lại (khoản 2 Điều 250)
Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm với thành phần Hội đồng xét xử mới trong những trường hợp sau:
Trường hợp 1: Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng luật định hợp sau:
Thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm vi phạm quy định tại Điều 185 BLTTHS. Thông thường, Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân, nhưng trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trong, phức tạp thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân; còn nếu bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì Hội đồng xét xử phải có thêm ba Hội thẩm nhân dân.
Thành phần Hội đồng xét xử không đúng luật định về tiêu chuẩn thành viên như: vi phạm quy định tại Điều 46 BLTTHS về việc Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân thuộc trường hợp phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi; trường hợp Thẩm phán thuộc Hội đồng xét xử bị mất chức, cách chức hết nhiệm kỳ mà chưa được tái bổ nhiệm…
+Thành phần Hội đồng xét xử không có một Hộ thẩm là giáo viên hoặc cái bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh khi xét xử bị cáo là người chưa thành niên (khoản 1 Điều 306 BLTTHS)
Thành phần Hội đồng xét xử thuộc trường hợp phải thay đổi theo quy định tại Điều 46 BLTTHS.
Trường hợp hai: Có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng
Là trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng mà chủ thể vi phạm là Tòa án cấp sơ thẩm, khác với trường hợp vi phạm nghiêm trong trong thủ tục tố tụng thuộc về cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát.
Dựa vào hướng dẫn tại chương I, mục 4.4 của Nghị quyết số 04/2004/HĐTP-TANDTC về căn cứ “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” tại điều 179 theo đó có thể chỉ ra một số trường hợp như sau:
Xét xử sai thẩm quyền;
Xác định sai tư cách người tham gia tố tụng;
Không giao quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bị cáo và người khác theo quy định tại Điều 182 BLTTHS;
Xét xử vụ án khi thuộc trường hợp phải hoãn phiên tòa quy định tại BLTTHS;
Vi phạm ngững quy định trong quá trình xét hỏi, tranh luận, nghị án và tuyên án tại phiên tòa.
Trường hợp 3: Người được Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội. Đây chính là điểm khác biệt sau khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực mà việc sửa đổi Điều 222 BLTTHS năm 1988 và quy định Tòa án cấp phúc thẩm có quyền hủy án sơ thẩm để xét xử lại. Sự thay đổi này là hợp lý vàn cần thiết để đảm bảo không để lọ người phạm tội và làm oan người vô tội; đồng thời cung tạo cơ hội cho bị cáo thực hiện đầy đủ quyền bào chữa và quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm.
Chỉ cần một trong các trường hợp trên xảy ra thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể quyết định hủy bản án sơ thẩm để xét xử với thành phần Hội đồng xét xử mới theo đúng quy định của pháp luật.
Quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án (Điều 251 BLTTHS)
Hủy án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án
Khi có một trong những căn cứ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 107 BLTTHS thì Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ quyết định hủy bản án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án theo các căn cứ:
Không có sự việc phạm tội;
Hành vi không cấu thành tội phạm.
Nếu có một trong hai căn cứ trên thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo không có tội và đình chủ giải quyết vụ án.
Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án
Hội đồng xét xử quyết định hủy bản án sơ thẩm để đình chỉ vụ án, nếu có những căn cứ:
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự: theo quy định tại Điều 12 BLHS thì “người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc đặc biệt nghiêm trọng”. Vì không đủ tuổi chịu trách nhiệm nên hành vi nguy hiểm ch xã hội của họ không đủ dấu hiệu về năng lực chủ thể, do vậy hành vi đó không cấu thành tội phạm.
Người mà hành vi vi phạm pháp luật hình sự của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án đã có hiệu lực pháp luật: Việc truy cứu trách nhiệm hình sự phải dựa trên nguyên tắc một hành vi cấu thành tội phạm chỉ bị truy cứu trách nhiệm một lần. Hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được các cơ quan tố tụng giải quyết thì không còn là đối tượng khởi tố vụ án hình sự một lần nữa.
Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự: Đây là trườn hợp người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nữa nếu đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, BLHS quy định tính từ thời điểm người đó thực hiện hành vi phạm tội (khoản 2 Điều 23 BLHS). Một số trường hợp với việc tái phạm, trống tránh và đã có lệnh truy nã, các tội về xâm phạm an ninh quốc gia các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh thì Hội đồng xét xử phúc thẩm không được ra quyết định để đình chỉ vụ án.
Tội phạm đã được đại xá: Quốc hội ra quyết định đại xá để miên TNHS hoặc miễn hình phạt đói với người phạm tội hoặc người bị kết án nhằm thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước trong nhưng sự kiện trọng đại của đất nước. Khi có quyết định đại xá đối với hành vi tội phạm cụ thể thì không được khởi tố vụ án hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi đó, nếu vụ án đã bị khởi tố thì phải đình chỉ. Nếu Tòa án sơ thẩm vẫn xét xử trong trường hợp này thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết trừ (trường hợp cần tái thẩm đối với người khác): xét xử lại vụ án để truy cứu TNHS và buộc một người đã chết chịu biện pháp cưỡng chế của Nhà nước là không cần thiết do không đạt được mục đích trừng phạt, giáo dục, cải tạo họ. Do đó, nếu trong quá trình xét xử phúc thẩm người thực hiện hành vị nguy hiểm cho xã hooin đã chết thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án đó.
Nếu trong quá trình xét xử phúc thẩm bị cáo chết mà có căn cứ cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo phạm tội là không chính xác thì Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ quyết định hủy bản án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo vô tội và đình chỉ vụ án (theo hướng dẫn tại thông tư số 03/TTLT-TANDTC-VSNDTC ngày 25/12/2000)
Trong trường hợp vụ án có nhiều bị cáo hoặc bị cáo phạm nhiều tội mà căn cứ để hủy, đình chỉ vụ án không liên quan đến các bị cáo khác hoặc các tội khác thì Tòa án phúc thẩm có thể quyết định hủy, đình chỉ vụ án đối với một phần bản án sơ thẩm.
Hoàn thiện pháp luật TTHS về thẩm quyền của Tòa án xét xử phúc thẩm
Thành phần của Hội đồng xét xử phúc thẩm (Điều 244)
Thành phần của Hội đồng xét xử phúc thẩm được quy định tại Điều 244 BLTTHS, các trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm phải có thêm hai hội thẩm nhân dân tham gia vào Hội đồng xét xử hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể của TANDTC.
Trên thực tế thì trừ trước đến giờ TANDTC chưa ghi nhận trường hợp nào Hội đồng xét xử phúc thẩm của TANDTA có thêm 2 Hội thẩm nhân dân. Như vây, quy định của BLTTHS về thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm trong trường hợp cần thiết là quy định chưa được áp dụng trong thực tiễn, vì vậy việc các cơ quan có thẩm quyền đưa ra văn bản hướng dẫn cụ thể về việc này là cần thiết và quan trọng.
Căn cứ để không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị
Việc bổ sung thêm một điều luật về việc không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm là hoàn toàn cần thiết nhằm tạo dựng cho Hội đồng xét xử phúc thẩm sử dụng quyền đó với quyết định nhằm giới hạn quyền kháng cáo của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự hay quyền kháng nghị của Viện kiểm sát vì trong một số trường hợp các chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị sử dụng quyền này không đúng mục đích, lạm dụng quyền lực. Do đó, việc quy định thiếu căn cứ để không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị, giữ nguyên bản án sơ thẩm là cần thiết và cần được bổ sung hoàn thiện sớm.
Sửa bản án sơ thẩm (Điều 249 BLTTHS)
Quyết định sửa bản án sơ thẩm bao gồm sửa bản án về phần định tội danh, về h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Quyền hạn hội đồng xét xử phúc thẩm.doc