Tiểu luận Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Trước đây, khi còn quan niệm không đúng: đối lập chủ nghĩa xã hội với sản xuất hàng hoá, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường (vì cho rằng kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường gắn với chủ nghĩa tư bản), thì nhiều người nhận thức, và hiểu rằng dưới chủ nghĩa xã hội không còn sản xuất hàng hoá, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, mà nếu có tồn tại thì chỉ là một nền kinh tế hàng hoá đặc biệt (chỉ có tư liệu tiêu dùng là hàng hoá, còn tư liệu sản xuất, sức lao động, vốn không phải là hàng hóa). Nhưng sự tồn tại của nền sản xuất hàng hoá ở nước ta là không thể phủ nhận.

Về điều kiện thứ nhất của sản xuất hàng hoá, đó là phân công lao động xã hội; chẳng những không mất đi, mà trái lại còn phát triển cả về bề rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường.

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5128 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất hàng hoá sản xuât cái gì, như thế nào, cho ai, là do họ quyết định. Mục đích duy nhất của họ là thu được nhiều lãi nhất. Dựa vào sự biến động của giá cả thị trường, người sản xuất biết được mặt hàng nào đang bán chạy và mặt hàng nào đang thừa. Người sản xuất sẽ mở rộng sản xuất những mặt hàng đang thiếu, bán chạy, giá cao và thu hẹp lại những mặt hàng nào ế thừa, giá thấp. Một số người sẽ chuyển sang sản xuất những mặt hàng đang thiếu vầ giá cao, bỏ những mặt hàng mang lại lợi nhuận thấp. Kêt quả là các yếu tố sản xuất như sức lao động, tư liệu sản xuất, tiền vốn chuyển dịch từ ngành này sang ngành khác. Đây chính là sự điều tiết sản xuất của quy luật giá trị. Trong lưu thông hàng hoá, quy luật giá trị cũng tham gia vào quá trình vận động của hàng hóa từ nơi giá thấp đến nơi giá cao. Từ đó phân phối các nguồn hàng hoá một cách hợp lý hơn giữa các vùng, giữa cung và cầu đối với các loại hàng hoá trên thị trường. + Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.: Vì hàng hoá bán theo giá trị xã hội do hao phí lao động xã hội các thiết quyết định, nên ngưòi sản xuất có ít hao phí lao động cá biệt hơn lao động xã hội cần thiết thì sẽ thu được nhiều lợi hơn. Chính vì vậy muốn thu nhiều lợi hơn, chiến thắng và đứng vững trong thị trường cạnh tranh, mỗi nhà sản xuất đều phải không ngừng tìm cách rút xuống đến mức tối thiểu hao phí lao động cá biệt. Muốn vậy, họ phải không ngừng tim cách cải tiến lực lượng sản xuất. + Phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo, và làm nảy sinh quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: trong cuộc chạy đua theo lợi nhuận, những nhà sản xuất nào làm tốt sẽ thu được nhiều lợi nhuận trở nên giàu có. Ngược lại, những nhà sản xuất khác làm kém hơn sẽ phải chịu sự thua lỗ và trở thành nghèo hơn. Từ đây, phát sinh ra quan hệ sản xuất TBCN, những ngưòi giàu trở thành ông chủ, những người nghèo trở thành những người làm thuê. Đây là quan hệ tư sản và vô sản, quan hệ giữa chủ và tớ, quan hệ đối kháng về lợi ích kinh tế. b) Quy luật cung cầu: + Quy luật này thể hiên mối quan hệ khách quan giữa cung cầu trên thị trường. Cung và cầu là sự khái quát hai lực lượng cơ bản của thị trường là: người mua và người bán. Vậy cung và cầu là gì? - Cung là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà các doanh nghiệp tung ra thị trường với giá cả nhất định,trong một thời kỳ nhất định. Cung chịu ảnh hưởng của hai nhân tố là giá cả và thu nhập. Với giá cả, cung chịu ảnh hưởng: khi các yếu tố sản xuất đã được tận dụng thì giá cả không ảnh hưởng tới cung là mấy. Nhưng trong trường hợp chưa tận dụng hết thì tăng giá có thể dẫn tới tăng cung.Với thu nhập, ảnh hưởng tới trường vốn hay đoản vốn của doanh nghiệp, điều này chi phôi cách ứng xủa của doanh nghiệp khi tung hàng ra tiêu thụ. - Cầu là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà ngưòi tiêu dùng, muốn mua trong một thời kỳ với mỗi một mức giá nhất định. Cầu phụ thuộc vào các nhân tố: nhu cầu mua sắm của xã hội, khả năng mua săm của dân cư(khả năng này lại phụ thuộc vào thu nhập của mỗi ngưòi và giá cả hàng hoá). + Cân bằng cung cầu trên thị trường: cung và cầu luôn tác động qua lại lẫn nhau. Cung xác định cầu và ngược lại cầu cũng xác định cung. Mối liên hệ mạt thiết này tạo ra quy luật cung cầu. Trên thị trường, người mua muốn giá của hàng hoá là thấp , trong khi đó người bán lại muốn giá cả cao. Tới một lúc nào đó thì giá giữa họ là bằng nhau, đó là giá cả thị trường hay giá cả trung bình. Giá cả thực tế trên thị trương xoay quanh điểm cân bằng này, tuỳ thuộc vào tương quan giữa cung và cầu. ậ điểm cân bằng này, lượng hàng hoá mà người bán sẵn sàng bán bằng với lượng hàng hoá ma người mua sẵn sàng mua.Quy luật cung cầu biểu hiện thông qua sự thay đổi của giá cả. Với số lượng cung cố định, cầu tăng sẽ làm tăng giá, nếu với một sức cầu cố định thì cung tăng sẽ làm giảm giá. c) Quy luật cạnh tranh: Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tẩnh về kinh tế giữa những người sản xuất với nhau, giữa những người sản xuất với người tiêu dùng, nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm để thu được nhiều lợi nhuận nhật cho mình. Nội dung cạnh tranh bao gồm việc canh tranh chiếm lĩnh những nguồn nguyê liệu, gianh giật những nguồn lực sản xuất; cạnh tranh về khao học công nghệ. Cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường, giành giật nơi đầu tư, các hợp đồng, các đơn đặt hàng. Cạnh tranh có thể bằng giá cẩ, bằng chất lượng, các dịch vụ kèm theo, phương thức thanh toán....Cạnh tranh có nhiều loại: cạnh tranh giữa nhưng người mua, giữa những người sản xuất, cạnh tranh trong nội bộ ngành, và cạnh tranh giữa các ngành. Cạnh tranh có vai trò tích cực trong nền sản xuất hàng hoá. Nó buộc người sản xuất hàng hoá phải không ngừng cải tiến kỹ thuật sản xuất, lực lượng lao động, nâng cao năng suất, tiết kiệm nhiên liệu....Hơn nữa,để bán được nhiều hàng hoá hơn thì nhà sản xuất phải không ngừng nghiên cứu thị truờng, thị hiếu, sở thích của người tiêu dùng, từ đó kích thích sự đa dạng của mẫu mã sản phẩm Như vậy có thể nói, quy luật cạnh tranh có tác dụng đào thải những cái cũ, lạc hậu, không phù hợp, binh ftuyển những cái mới, tiến bộ thuc đẩu sản xuất hàng hó phát triển. Tuy nhiên cùng với những tác dụng của nó, cạnh tranh cò gây ra những hậu quả: đầu cơ, lừa đảo, ô nhiễm môi trường, khai thác cạn kiệt tài nguyên ... d) Quy luật lưu thông tiền tệ: Khi tiền tệ xuất hiện, sự troa đỏi hàng hoá trực tiếp chuyển sang trao đổi một cách gián tiếp- trao đổi hàng hoá lấy tiền tệ làm môi giới. Sự vận động của tiên tệ lấy sự trao đổi hang hoá làm tiền đề gọi là lưu thông tiền tệ. Sự vân động của hàng hoá và tiền tệ là sự thông nhất giữa lưu thông tiền tệ và lưu thông hàng hoá. Tuy nhiên số tiền đưa vào lưu thông không phải là vô tận. Để thực hiện chức năng phương tiện lưu thông ở mỗi thời kỳ cần có một số lượng tiền nhất định. Số lượng tiền này được xác định bằng quy luật lưu thông tiền tệ. Quy luật này được xác định như sau: Số lượng tiền cần thiết trong lưu thông = Tổng số giá cả hàng hoá - Tổng số giá cả hàng hoá bán chịu + Tổng số giá cả hàng hoá khấu trừ cho nhau + Tổng số giá cả hàng hoá bán chịu đến kỳ thanh toán Số lần luân chuyển trung bình của tiền tệ Quy luật lưu thông tiền tệ nói trên là qui luật tiền vàng. II. Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 1.Tính tất yếu khách quan chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa: 1.1. Sự tồn tại của sản xuất hàng hoá ở nước ta: Trước đây, khi còn quan niệm không đúng: đối lập chủ nghĩa xã hội với sản xuất hàng hoá, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường (vì cho rằng kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường gắn với chủ nghĩa tư bản), thì nhiều người nhận thức, và hiểu rằng dưới chủ nghĩa xã hội không còn sản xuất hàng hoá, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, mà nếu có tồn tại thì chỉ là một nền kinh tế hàng hoá đặc biệt (chỉ có tư liệu tiêu dùng là hàng hoá, còn tư liệu sản xuất, sức lao động, vốn … không phải là hàng hóa). Nhưng sự tồn tại của nền sản xuất hàng hoá ở nước ta là không thể phủ nhận. Về điều kiện thứ nhất của sản xuất hàng hoá, đó là phân công lao động xã hội; chẳng những không mất đi, mà trái lại còn phát triển cả về bề rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường. Về điều kiện thứ hai, trong nền kinh tế nước ta, tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Hơn nữa, nếu cho rằng, sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì sẽ không giải thích được sự tồn tại của sản xuất, lưu thông hàng hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bởi vì nền sản xuất dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất hàng ngày, hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản. Vậy thì muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội phải xoá bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, có nghĩa là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và trong chủ nghĩa xã hội không còn điều kiện thứ hai của sản xuất hàng hoá. Như vậy thì mâu thuẫn với thực tế khách quan: trong chủ nghĩa xã hội sẽ vẫn còn kinh tế hàng hoá, ngay cả khi nền kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Còn trong chủ nghĩa xã hội thì kinh tế hàng hoá lại có thể tồn tại cả trong điều kiện hoàn toàn không có chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.Khi nghiên cứu nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa, Lênin viết: “Về mặt lý luận, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa có thể hoàn toàn đi đôi với việc không có chế độ tư hữu về ruộng đất, với việc quốc hữu hoá ruộng đất…”. Hiện nay, tuy thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác, các đơn vị kinh tế có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật - công nghệ, về trình độ tổ chức quản lý, nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau. Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ hàng hoá - tiền tệ là chủ yếu, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là người chủ sở hữu đối với các hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây là theo nguyên tắc ngang giá. Như vậy, chúng ta không thể dùng ý chí chủ quan của mình để xoá bỏ sự hiện hữu của kinh tế hàng hoá, nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường là một tồn tại tất yếu, khách quan ở nước ta. 1.2. Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có tác dụng to lớn đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng, nâng cao đời sống nhân dân và xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH: Nền kinh tế nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một điểm xuất phát rất thấp. Đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh, cơ sở vật chất kỹ thuật bị tàn phá nặng nề, dự trữ quốc gia gần như không có. Hơn nữa, nền kinh tế nước ta còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc, lực lượng sản xuất chưa phát triển, quan hệ sản xuất tàn dư còn nặng nề, trong khi quan hệ sản xuất mới chưa thực sự hình thành và hoàn thiện. Do vậy, khi chúng ta theo đuổi một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bằng mệnh lệnh hành chính, quan liêu từ trung ương và cơ cấu hướng nội là chủ yếu, đã kìm hãm sự phát triển của đất nước, khiến cho nền kinh tế đã có lúc lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Ngọn gió “đổi mới” với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá ở nước ta đã tạo động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá, buộc mỗi chủ thể sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí đến mức tối thiểu nhờ đó có thể cạnh tranh về giá cả, đứng vững trong cạnh tranh. Nhờ vậy mà khoa học kỹ thuật phát triển, năng suất lao động xã hội tăng lên, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh. Kinh tế hàng hóa cũng thúc đẩy phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất. Nó sẽ phát huy được tiềm năng, lợi thế của từng vùng, cũng như lợi thế của đất nước, có tác dụng mở rộng kinh tế đối ngoại. Ngoài ra, để cạnh tranh được trong nền kinh tế hàng hoá, người sản xuất phải căn cứ vào nhu cầu của người tiêu dùng, của thị trường để quyết định sản xuất sản phẩm gì, với khối lượng bao nhiêu, chất lượng, mẫu mã như thế nào. Vì vậy, nó kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã cũng như tăng khối lượng hàng hóa, dịch vụ. Nhờ đó mà người tiêu dùng sẽ có điều kiện được tiếp cận với nhiều loại hàng hoá hơn, giá rẻ hơn và chất lượng cao hơn. Đời sống nhân dân sẽ được nâng cao lên một bước, nền kinh tế sẽ có sức cạnh tranh cao hơn. Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội hoá cao; đồng thời chọn lọc những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ, lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Tóm lại, phát triển kinh tế thị trường là một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 2. Quá trình hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta: Sau khi giành độc lập, học tập theo nhưng nước Đông Âu và Liên Xô cũ, Việt Nam đã xây dựng một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Trong thời gian này, mô hình nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã cung cấp phương tiện vật chất phục vụ cuộc kháng chiến cứu nước đồng thời khôi phục lại sản xuất sau chiến tranh. Tuy nhiên, sau một thời gian phát huy tác dụng thì mô hình kinh tế nay đã nảy sinh những hạn chế to lớn. Điều này thể hiện qua tình hình kinh tế Việt Nam trong thời kỳ trươc nhưng năm đổi mới: năng suất lao động giảm, phúc lợi xã hội giảm, lạm phát tăng, cơ chế điều hành quan liêu bao cấp gây cản trở cho việc phát triển kinh tế. Tại Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), Đảng ta đã rút ra những bài học và quyết định xây dựng một nên kinh té thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó đến nay, chúng ta đã trải qua ba giai đoạn với những đặc trưng khác nhau của từng giai đoạn. Giai đoạn 1986-1990: Cơ chế thị trường bắt đầu được thực hiện, một số loại thị trường được hình thành, đã tạo ra động lực mới, nhất là trong sản xuất nông nghiệp và một số xí nghiệp quốc doanh. Do đó thị trường hàng tiêu dùng đã dồi dào hơn, đa dạng hơn, thị trường tư liệu sản xuất cũng nhuc nhích lên chút ít, lưu thông bắt đầu tương đối thuận lợi, thị trường xuất nhập khẩu bắt đầu được mổ rộng và phát triển khá mạnh mẽ. Tuy nhiên, tinh hình kinh tế nước ta còn trong khủng hoảng, phát triển chậm, phân phối và lưu thông còn rối ren, ngân sách nhà nước còn htiếu hụt lớn, nguồn vốn thiếu nghiêm trọng, tiền mặt thiếu thường xuyên, lạm phát tăng cao. Tốc độ tăng giá năm1986 là 87,2%, giá cả biến động, giá lương thực, thực phẩm có lúc tăng đột biến, nợ nước ngoài tăng thêm. Nhìn một cách tổng thể, thì ở giai đoạn này, nền kinh tế có sự mất cân đối lớn, tổng cầu quá lớn so với tổng cung. Nguyên nhân là do cơ chế thị trường và các nhân tó của nó là giá cả thị trường, canh tranh thị trường và cung-cầu hình thành từ sự vận hành của thị trường chưa được phát huy thuận lợi. Giai đoạn 1991-1995: Các chính sachs về cơ chế thị trường được thực hiện một cách mạnh mẽ, đã lay động các lĩnh vực của nền kinh tế-xã hội. Hệ thống chủ thể thị trường của các thành phần kinh tế đã thay thế các cơ sở kinh tế hoạt động dưới thời bao cấp. Các nhân tố thị trường hình thành và phát huy tác dụng thực sự thay thế cho các quyết đinh hành chính. Do đó, các loại hình thị trường phát triển một cách nhanh chóng, từ thị trường hàng hoá tiêu dùng thông thường, cho đến thị trường vất tư, nguyên liệu, thị trường các dịch vụ và thị trường xuất nhập khẩu. Thị truờng lao động, thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản cũng bắt đầu hoạt động. Hệ thống cơ cấu thị trường đã được xác lập. Trên thực tế thj trường đã có sự biến đổi về chất. Tình trạng khan hiếm hàng hoá trong giai đoạn chiến tranh và bao cấp đã chấm dứt. Kết quả là thị trường nước ta lần đầu tiên có được sự câ đối giữa tổng cung và tổng cầu xã hội. Trong suốt 5 năm, lượng hàng hoá lưu thông tăng liên tục với tốc độ cao, mặt hàng ngày càng phong phú, chất lượng tăng cao, thị trường xuất nhập khẩu phát triển mạnh. Tuy nhiên, nhìn chung thị trường còn thô sơ, nhỏ hẹp, phân tán, manh mún, chất lượng chưa cao, chủng loại hàng hoá còn nghèo nàn, dịch vụ thương mại yếu kém, tính tự phát còn nghiêm trọng. Thị trường nông thôn, thị trường yếu tố sản xuát còn chưa phát triển, thị trường chứng khoán chưa có, tệ nạn buôn lậu, gian lận thương mại còn nhiều. Kết quả của giai đoạn này là nền kinh té nước ta đã ra khỏi khủng hoảng, thị trường phát triển ổn định, đảm bảo được cân bằng cung-cầu Giai đoạn 1996-nay: Tình hình thị trường nước ta có những đặc trưng mới. Đặc trung tổng quát của thị trường lúc này là tổng cung vượt xa tổng cầu trong tình hình tổng cung và tổng cầu đều giảm mạnh. Trên thị trương xuất hiện những cơn “sốt” lạnh trên diện rộng, kéo dài, nhiều mặt hàng công nghiệp có số lượng tồn kho lớn như giấy 16000 tấn, thép 400000tấn.... Thực trạng này còn nặng nề hơn nhiều vào năm 1999: lượng than tồn kho vào tháng 6/1999 lên tới gàn 5 triệu, tính tới tháng 10/1999 lượng giấy tồn kho là 15186 tấn, thép chỉ khai thác được 50-60% công suất thiết kế, Tổng công ty phân đạm và hoá chất Hà Bắc sản xuấ cả năm chỉ đạt 20-40% công suất, các dịch vụ về du lịch và khách sạn cũng cung thừa.Mặc dù cho tới những năm sau chính phủ đã có chủ trương kích cầu nhưgn mọi chuyện vẫn không được giải quyết. Tuy thị trường trong nước gặp nhiều khó khăn nhưng thị trường xuất nhập khẩu lại hoạt động rất sôi động, trong đó xuất khẩu thì tăng mạnh, nhập khẩu thì giảm. Trên thị trường đầu tư, sự tiến triển rất chậm chạp, nguyên nhân chủ yếu là do đầu tư nước ngoài liên tục giảm sút. Nếu trong những năm 1994-1997 FDI dạt bình quân 2 tỷ USD/năm, thì năm 1998 chỉ còn 800 triệu và năm 1999 là vào khoảng 600 triệu. Thị trường các yếu tố sản xuất khác như thị trường cốn còn sơ khai, thị trường lao động mới đang hình thành, thị trường bất động sản chưa đuợc khai thông, thị trường chứng khoán mới được thành lập, thị trường dịch vụ giảm sút. Trên từng địa bàn, thị trường cũng chưa thực sự thông suốt do vẫn còn các trạm kiểm soát thu phí bất hợp lý, thậm chí ở một số nơi còn bị chính quyền sở tại dùng biện pháp hành chính để bảo hộ các cơ sở sản xuất địa phương. Một đặc trưng thứ hai của thị trường nước ta trong thời gian này là lạm phát giảm mạnh, hơn nữa còn có hiện tượng giảm phát. Chỉ số lạm phát năm 1996 là 4,5%, năm 1997 là 3,6%, tính cung năm 1999 chỉ số lạm phát là 1%, nhưng trong suốt 8 tháng từ tháng 3 đé tháng 10/1999 chỉ có chỉ số giá âm. Trên thị trường hối đoái thì đồng tiền Việt Nam lên giá trong thời gian nổ ra cuộc khủng hoảng kinh tế. 3. Mục tiêu và đặc trưng bản chất của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyển tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Do đó, kinh tế thị trường định hướng XHCN có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là nhóm nhân tố của kinh tế thị trường và nhóm nhân tố của xã hội đang định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhóm thứ nhất đóng vai trò như động lực thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh, nhóm thứ hai đóng vai trò hướng dẫn, chế định sự vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã được xác định. Như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta có những mục tiêu, dặc trưng bản chất khác biệt cơ bản về nguyên tắc so với nền kinh tế thị trường TBCN. Điều đó được thể hiện như sau: 3.1. Mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta: Mục tiêu hàng đầu phát triển kinh tế thị trường ở nước ta được xác định là: Giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của nền kinh tế; trên cơ sở đó, cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, từng bước thực hiện sự công bằng, bình đẳng và lành mạnh các quan hệ xã hội. Phát triển kinh tế thị trường sẽ khắc phục được tình trạng tự túc tự cấp của nền kinh tế, thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển, mở rộng ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động; áp dụng khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động xã hội, tăng số lượng, chất lượng và chủng loại hàng hoá dịch vụ; thúc đẩy tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, với các nước trên thế giới, động viên mọi nguồn lực trong nước và tranh thủ các nguồn lực bên ngoài; thúc đẩy việc phát huy tinh thần năng động, sáng tạo của mỗi người lao động, mỗi đơn vị kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước nghèo và kém phát triển, thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh theo con đường XHCN. Sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không chỉ dừng lại ở tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, mà còn phải không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo tốt các vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳng trong xã hội. Đảng ta đã chủ trương tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Tóm lại, phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là phương tiện khách quan để xã hội hoá XHCN nền sản xuất, để công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. 3.2. Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần cùng tồn tại và phát triển nhưng kinh tế Nhà nước phải luôn giữ vai trò chủ đạo: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức sở hữu, trong đó sở hữu Nhà nước làm chủ đạo. Do đó nền kinh tế gồm nhiều thành phần, trong đó nền kinh tế Nhà nước giữu vai trò chủ đạo. Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Các thành phần kinh tế đó là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Do đó không chỉ ra sức phát triển các thành phần kinh tế thuộc chế độ công hữu, mà còn phải khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế thuộc sở hữu tư nhân để hình thành nền kinh tế thị trường rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu, các đơn vị kinh tế tư doanh, các hình thức hợp tác liên doanh giữa trong và ngoài nước, các hình thức đan xen và thâm nhập vào nhau giữa các thành phần kinh tế đều có thể tham gia thị trường với tư cách chủ thể thị trường bình đẳng. Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Việc xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta với kinh tế thị trường của các nước khác.Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta đã quy định kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ, mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó, kinh tế nhà nước, nói đúng ra kinh tế dựa trên chế độ công hữu bao gồm kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác, tạo cơ sở kinh tế cho chế độ xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Việc vin vào tình trạng kém hiệu quả của kinh tế nhà nước trong thời gian qua để phủ định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là sai lầm về lý luận. Vấn đề chủ yếu không phải là phủ định vai trò của kinh tế nhà nước, mà là cơ cấu lại khu vực kinh tế nhà nước và đổi mới cơ bản cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước để chúng hoạt động có hiệu quả. 3.3. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu. Mỗi chế độ xã hội có chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu quyết định. Phân phối có liên quan đến chế độ xã hội, đến chính trị. Dưới chủ nghĩa tư bản, phân phối theo nguyên tắc giá trị: đối với người lao động theo giá trị sức lao động, còn đối với nhà tư bản theo giá trị tư bản. Như vậy, thu nhập người lao động chỉ giới hạn ở sức lao động mà thôi. Chủ nghĩa xã hội có đặc trưng riêng về sở hữu, do đó chế độ phân phối cũng có đặc trưng riêng; phân phối theo lao động là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Thu nhập của người lao động không chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động, mà nó phải vượt qua đại lượng đó, nó phụ thuộc chủ yếu vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên việc đo lường trực tiếp lao động là một vấn đề phức tạp và khó khăn, nhưng trong nền kinh tế thị trường, có thể thông qua thị trường để đánh giá kết quả lao động, sự cống hiến thực tế và dựa vào đó để phân phối. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta gồm nhiều thành phần kinh tế. Vì vậy cần thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập: phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh, và phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội, trong đó phân phối theo kết quả lao độn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKC174.doc
Tài liệu liên quan