Quần chúng nhân dân là cội nguồn phát sinh ngững sang tạo văn hóa tinh thần của xã hội và cũng là lực lượng giữ gìn và phát huy ngững giá trị đó.chúng ta có thể thấy điều đó thể hiên trong nền văn hóa đậm đà bản sắc của dân tộc.
Văn hóa Việt Nam, hay nói riêng là văn hóa của dân tộc kinh đã có nguồn gốc tại miền bắc Việt Nam, là một trong những nền văn hóa lâu đời nhất ở khu vực Thái Bình Dương.
Từ ngàn xưa, trong cuộc sống lao động hòa mình vào với tự nhiên ông cha ta dã có những câu ca dao tục ngữ rất hay nói về cuộc sống bình dị của mình, những câu ca khen ngợi thiên nhiên đất trời, câu tục ngữ thành ngữ răn dạy các thế hệ đi sau giúp họ biết được cái đạo làm người thế nào cho tốt:
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây,uống nước nhớ nguồn”
“Cây ngay không sợ chêt đứng”
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9228 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Sự vận dụng của Đảng ta về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân trong quá trình xây dựng đất nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hệ sản xuất, nghĩa là bắt đầu từ hoạt động sản xuất vật chất của quần chúng nhân dân. Bởi vậy, nhân dân lao động là chủ thể của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội, đóng vai trò là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
+ Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần.Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa học, nghệ thuật,văn học, đồng thời, áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn. Những sang tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính trị, đạo đức... của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển nền văn hóa tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại. Hoạt động của quần chúng nhân dân từ trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã hội.Mặt khác, các giá trị văn hóa tinh thần chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận và truyền bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến.
Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động vật chất đến hoạt động tinh thần, quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện lịch sử mà vai trò chủ thể của quần chúng nhân dân cũng biểu hiện khác nhau. Chỉ có trong chủ nghĩa xã hội, quần chúng nhân dân mới có đủ điều kiện để phát huy tài năng và trí sáng tạo của mình.
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân, như Nguyễn Trãi đã nói: "Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân, thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết". Đảng Cộng sản Việt Nam cũng khẳng định rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, và quan điểm "lấy dân làm gốc" trở thành tư tưởng thường trực nói lên vai trò sáng tạo ra lịch sử của nhân dân Việt Nam.
B. Ðảng và những vấn đề cơ bản về xây dựng Ðảng
Ðảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.
Ðảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc.
Mục đích của Ðảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Ðảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Ðảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Ðiều lệ Ðảng, giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân, Ðảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Ðảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Ðảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Ðảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Ðảng lãnh đạo, tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Ðảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.
Ðảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo cách mạng của Ðảng.
C.Vai trò của nhân dân và đảng trong các cuộc cách mang của dân tộc ta
Dưới sự lãnh đạo của đảng,cách mạng tháng 8 thành công khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á. Đó là thắng lợi của nhân dân Việt Nam. Đó là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác Lênin ở một nước thuộc địa. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến chống thực dân pháp và đế quốc Mỹ thắng lợi.giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước,đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là thắng lợi của chủ nghĩa Mác Lênin ở Việt Nam. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước hơn 20 năm qua giành được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Cách mạng tháng 8 trước hết là hình mẫu của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta. Dưới ngọn đuốc soi đường của chủ nghĩa mác ,với ý chí không có gì quý hơn độc lập tự do, bằng chủ nghĩa yêu nước và tấm lòng quả cảm, Đảng và Bác đã khơi dậy truyền thống yêu nước được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Trên nền của phương pháp tư duy sáng tạo, Đảng ta đã quy tụ và tập hợp dưới ngọn cờ chính nghĩa sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Quan điểm “dĩ bất biến ứng vạn biến”là nền tảng của phương pháp tư duy sang tạo kiểu mới. Nhờ phương pháp ấy, chúng ta đã phân hóa, cô lập kẻ thù, gắn kết mọi người VN yêu nước, tha thiết với độc lập dân tộc, không phân biệt Đảng phái, quan điểm chính trị tín ngưỡng … thành một khối thống nhất vững chắc, tạo nên sức mạnh không gì lay chuyển được. Thiên tài sáng tạo HCM và Đảng ta đã xây dựng một hệ thống phương pháp, hình thức tổ chức mẫu mực, tập hợp quần chúng thực hiện bước đột phá trong tổng khởi nghĩa. Có thể nói khơi dậy và tập hợp sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy đến cao nhất chủ nghĩa yêu nước,chủ động nắm bắt thời cơ,tập hợp lực lượng đủ mạnh và biết chọn các loại hình tổ chức thích hợp, giành thắng lợi từng phần tiến đến thắng lợi hoàn toàn là đỉnh cao của sáng tạo trong cách mạng tháng tám.
Cách mạng tháng Tám thành công chưa bao lâu thì vận nước lại lâm vào cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” . Trong bối cảnh đó vừa phải đói phó với thù trong giặc ngoài, Đảng và Bác vẫn vững vàng đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua ghềnh thác.Thắng lợi của chín năm chống thực dân Pháp xâm lược mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ một làn nữa chứng minh tài thao lược và sáng tạo của Đảng và Bác. Ở đây sức mạnh của dân tộc và của thời đại đã hòa quyện làm một. Nhờ sáng tạo chúng ta dã dám đánh và tìm ra cách đánh, biết chuyển yếu thành mạnh dàn mỏng, chia cắt phân hóa cao độ kẻ thù,đẩy chúng vào thế suy yếu để tiêu diệt.Sau cách mạng tháng tám,một Điện Biên tỏa sáng đã viết tiếp nên bản anh hung ca của sự sang tạo,tạc chân dung dân tộc VN vào thế kỷ 20 như một biểu hiện chói sáng nhất của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc tự cường.chính sách đại đoàn kết dân tộc của đảng ta luôn tỏa sáng.
D. Sự vận dụng của Đảng về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân trong quá trình xây dựng đát nước.
I.Kinh tế
Trong giai đoạn 1976-1986 là giai đoạn áp dụng mô hình kinh tế cũ ở miền Bắc cho cả nước sau khi thống nhất và đồng thời là giai đoạn của những tìm tòi để thoát khỏi mô hình này.Đây là thời kỳ của 2 kế hoạch 5 năm 1976-1980; 1981-1986.
Ở miền Bắc hợp tác hóa còn miền Nam thì không.
* Xây dựng xã hội chủ nghĩa:
- Thứ nhất: sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa,sản xuất lớn có nghĩa là nền kinh tế dựa vào những đơn vị có quy mô lớn trở thành pháo đài kinh tế xã hội,các tỉnh được xác nhập lại làm 29 tỉnh.Còn xây dựng xã hội chủ nghĩa tức là nền kinh tế dựa vào 2 thành phần kinh tế cơ bản: quốc doanh và tập thể. Để thực hiện được sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, cần tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng:quan hệ sản xuất ,khoa học kĩ thuật và văn hóa tư tưởng. Cách mạng quan hệ sản xuất có nội dung cơ bản là cải cách các thành phần kinh tế tư nhân,cá thể biến chúng thành các thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể gọi chung là cải cách xã hội chủ nghĩa.
- Thứ hai: làm chủ tập thể. Đây là một tư tưởng do Lê Duẩn sáng tạo.
- Thứ ba: áp dụng kế hoạch hóa tập trung. Đây là mô hình chung ở các nước xã hội chủ nghĩa.Ở Việt Nam có được thực hiện theo công thức Lê Duẩn sáng tạo đó là: Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ. Tại đại hội IV đường lối này đã được thực hiện bằng chủ trương tiến hành kế hoạch phat triển 5 năm 1976-1980.Theo kế hoạch đại hội IV định hướng, sản xuát xã hội sẽ tăng bình quân hằng năm 14-15%, thu nhập quốc dân tăng 13-14%,giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 8-10%, năng xuất lao động xã hội tăng 7,5-8%,lương thực đạt ít nhất 2,1 triệu tấn vào năm 1980, thịt hơi các loại đạt 1 triệu tấn.
-Thứ tư: công nghiệp nặng được lựa chọn làm ngành động lực chính của tăng trưởng và phát triển kinh tế.
-Thứ năm: nhà nước độc quyền vè kinh tế đối ngoại.
Đẩy mạnh sản xuất tập trung ở miền Bắc: theo kế hoạch 5 năm 1976-1980 thì diện tích đơn vị sản xuất, tức hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc tăng gấp 2 đến 2,5 lần kích thích sản xuất vẫn trì trệ.
* Cải cách xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
- Hợp tác hóa: được tiến hành khẩn trương trong các năm từ 1977-1980. Theo kế hoạch thì ruộng đất được tập hợp lại để tổ chức canh tác tập thể, sản phẩm được phân chia căn cứ theo mức đóng góp. Máy móc nông nghiệp của nông dân bị trưng mua để thành lập các tập đoàn phục vụ sản xuất nông nghiệp. Các tập đoàn sản xuất có nghĩa vụ bán sản phẩm của mình cho nhà nước theo giá kế hoạch thấp hơn nhiều giá thị trường. Bù lại nhà nước cung cấp vật tư và hàng hóa tiêu dùng cho các tập đoàn. Tuy nhiên tình hình kinh tế miền Nam không thích hợp với mô hình hợp tác hóa và chương trình “người cày có ruộng” vào đầu thập niên 1970 để phân phối ruộng đất khiến đa số nông dân miền Nam thuộc hàng trung nông với năng suất khá cao. Hơn nữa chính quyền cũng đã nhận thấy lịch sử hợp tác hóa ở miền Nam cũng bị bỏ dở.
Hậu quả lần xuất nông nghiệp giảm trong khi dân số tăng, gây ra canh thiếu lương thực thực phẩm từ 1976-1980 mặc dù trong hoàn cảnh hòa bình Việt Nam vẫn phải nhập cảng 5,6 triệu tấn thực phẩm.
*Cải tạo công thương nghiệp
Cuối tháng 8-1975: bộ chính trị lao động VN đã chỉ đạo tiến hành các chiến dịch cải tạo. Tiếp theo thường vụ trung ương cục miền Nam thông qua một số kế hoạch nhằm vào tư sản mại bản.Đợt 1 của chiến dịch này thực hiện bất ngờ vào nửa đêm ngày 9/9/1975,đợt 2 tiến hành từ ngaỳ 4-6/12,chiến dịch làm nhiều nhà tư sản lớn của miền Nam đã bị bắt, tài sản của họ bị tịch thu.Song song với tấn công tư sản mại bản,chiến dịch di dân thành phố, vì nông thôn đưa những người buôn bán về vùng kinh tế mới.
Dù vậy các hoat động cải tạo công thương ở miền Nam cho đến trước năm 1978 vẫn diễn ra 1 cách thận trọng.Vị bí thư thành ủy TPHCM lúc đó là Nguyễn Văn Linh là người am hiểu tình hình giới tư sản miền Nam, nên các biện pháp của ông mềm dẻo tỏ thái độ trân trọng và có văn hóa với giới tư sản. Nhưng chính điều này đã khiển Nguyễn Văn Linh bị mất chức bí thư thành ủy vào năm 1978, bị đưa ra khổi bộ chính trị, điều chuyển khỏi công tác phụ trách ban cải tạo công thương nghiệp tư doanh TW sang phụ trách công tác dân vận, công đoàn. Từ năm 1978 hoạt động cải tạo công thương diễn ra mạnh hơn, đối tượng bị cải tạo rộng hơn trước. Sâu rộng với toàn giới là cuộc đổi tiến 1978.
Sau vụ kiện 30-4-1975, Hoa Kỳ lập tức triển khai cấm vận kinh tế đối với Việt Nam. Tuy nhiên chỉ khoảng 1 năm sau việc thực hiện kế hoạch kinh tế 5 năm 1976-1980 gặp nhiều khó khăn.trước tiên là nguồn viện trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa giảm sút. Đặc biệt viên trợ từ Trung Quốc chấm dứt hòan toàn từ 1977. Các nguồn viện trợ này gồm các mặt hàng quan trọng. Sau khi tham gia hội đồng tương trợ kinh tế, Việt Nam phải theo thể chế giá của khối này, trong đó có nguyên tắc giá trượt. Với nguyên tắc này,mức viện trợ 1,5 tỷ rubbe Việt Nam chỉ có sức mua bằng 600-700 rubbe trước khi vào khối. Thứ hai từ năm 1978 Khmer đỏ tấn công VN trên toàn lãnh thổ, chi tiêu quốc phòng cho VN vì thế tăng mạnh. Tháng 1 -1979 Việt Nam công bố đánh sang Campuchia chiến dịch ở biên giới phía bắc bùng nổ. Chi phí quốc phòng lại càng tăng vọt.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. thực hiện CNH-HDH đất nước, xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ gắn với chủ động hội nhập quốc tế xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, thực hiện tốt chính sách xã hội, chăm lo và bồi dưỡng con người. Sau khi kết thúc chiến tranh sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa gặp nhiều trở ngại. Cơ chế quan lieu và mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã ngăn cản quá trình sáng tạo tìm tòi con đường mới. Trước tình hình thế giới thay đổi nhanh chóng và bất ngờ,Đảng đã kịp thời điều chỉnh chiến lược và có nhiều chủ trương mới sáng tạo đưa nước ta phát triển.
Thời kỳ đổi mới
- Công nghiệp: các doanh nghiệp nhà nước được giao quyền tự chủ,thưc hiện hoạch toán kinh tế, xóa bỏ bao cấp giảm các chỉ tiêu pháp lệnh; khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng sản xuất, thu hút đầu tư phát triển công nghiệp. Luật đầu tư nước ngoài với nhiều ưu đãi được ban hành dã tạo môi trường đầu tư thông thoáng hơn, góp phần nâng cao năng lực sản xuất. Thời kì này sản xuất công nghiệp là then chốt, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phát triển ổn định và tăng trưởng khá.
- Nông nghiệp: thành tựu nổi bật nhất là giải quyết vững chắc vấn đề lương thực bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.Việt Nam từ nước thiếu lương thực triền mien thành nước xuất khẩu lương thực đứng thứ 2 trên thế giới liên tục từ 1989 đến nay. Mỗi năm lương thực tăng 1,3 triệu tấn khoảng 5%,cao hơn tốc độ tăng dân số, bình quân lương thưc đầu người tăng từ 280kg năm 1987 và ước tính tăng lên khoảng 455kg trong năm 2000. Sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả có bước phat triển khá cao. Chăn nuôi tăng trưởng ổn định
- Việc xuất khẩu cũng không ngừng tăng cả về giá trị lẫn cơ cấu. Cán cân xuất nhập về cơ bản đã cân bằng.
Nhìn chung kinh tế Việt Nam sau đổi mới đã có sự thay đổi nhanh chóng, điều đó chứng minh đường lối mà Đảng ta đề ra là đúng đắn. Đảng và quần chúng nhân dân luôn cùng nhau xây dựng đất nước
II,Tình hình văn hóa dân tộc
Quần chúng nhân dân là cội nguồn phát sinh ngững sang tạo văn hóa tinh thần của xã hội và cũng là lực lượng giữ gìn và phát huy ngững giá trị đó.chúng ta có thể thấy điều đó thể hiên trong nền văn hóa đậm đà bản sắc của dân tộc.
Văn hóa Việt Nam, hay nói riêng là văn hóa của dân tộc kinh đã có nguồn gốc tại miền bắc Việt Nam, là một trong những nền văn hóa lâu đời nhất ở khu vực Thái Bình Dương.
Từ ngàn xưa, trong cuộc sống lao động hòa mình vào với tự nhiên ông cha ta dã có những câu ca dao tục ngữ rất hay nói về cuộc sống bình dị của mình, những câu ca khen ngợi thiên nhiên đất trời, câu tục ngữ thành ngữ răn dạy các thế hệ đi sau giúp họ biết được cái đạo làm người thế nào cho tốt:
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây,uống nước nhớ nguồn”
“Cây ngay không sợ chêt đứng”
Những câu nói lên bài học kinh nghiệm: “đông sao thì nắng vắng sao thì mưa”
“cơn đằng đông vừa trông vừa chạy,cơn đằng nam vừa làm vừa chơi; đi một ngày đàng học môt sàng khôn.”
Hay những câu ca dao nói về thân phận người phụ nữ:
“Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các ,hạt sa ruộng cày”
Sự đa dạng văn hóa nước ta con thể hiện qua các lễ hội. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu thì nươc ta có gần 500 lễ hội cổ truyền lớn nhỏ trải rộng khắp đất nước trong bốn mùa xuân hạ thu đông. Miền bắc thì có lễ hội chọi trâu Đồ Sơn, hội đền Chử Đồng Tử, lễ hội chùa hương,hội Cổ Loa, hội thi nấu cơm,….miền trung hội đua voi ở Thái Nguyên, hội cá cầu ngư,.. Miền Nam có lễ hội bà chúa xứ, lễ hội lăng ông. Hội đèn An Dương Vương ngày mùng 6-1 tưởng niêm thục phán người có công xây dựng nước Âu Lạc, thành Cổ Loa. Cũng vào thời điểm này du khách bốn phương về hội hoa Vị Khê từ ngày 20-30 tháng 1để chiêm ngưỡng hoa cây cảnh của làng nghề truyền thống vị khê, hội du xuân bái lễ cầu mong một năm mới thịnh vượng ở núi Bà Đen. Ngoài ra nền văn hóa nước ta còn thể hiện các măt như các thủ tục ma chay cưới xin. Hằng năm cứ đến ngày giỗ tổ mùng 10-3 thì mọi người ở khắp nơi trên đất nước đều trở về đèn hung để tưởng nhớ công lao của những vị vua hùng đã có công dựng nước. Có thể nói đó là một nét văn hóa tốt đẹp của người dân Việt Nam. Còn có những cô gái Huế với nết duyên dáng trong bộ áo dài thướt tha cùng với chiếc nón huế đã làm nên một xứ huế mộng mơ say đăm lòng người, cái đó đã tạo nên một nét văn hóa Việt Nam. Những nền văn hóa phi vật thể như nhã nhạc cung đình Huế, cồng chiêng Tây Nguyên đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Những đứa trẻ cùng với những bài hát về dân gian: ô quan ,bịt mắt bắt dê, nhảy lò cò…Chứng tỏ rằng văn hóa VN đã xuyên suốt qua mọi đối tượng tầng lớp. Tất cả đều phản ánh đời sống tinh thần của quần chúng nhân dân- những con người chất phác và lương thiện. Có ca dao có tục ngữ hình thành trrong mỗi thời kì thì chúng ta mới biết được lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc ta,cha ông ta. Văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành từ quần chúng nhân dân chứ không do môt cá nhân nào hết vì vậy nó cũng được nhân dân lưu truyền, gìn giữ cho đến bây giờ.nếu không có sự đóng góp của quần chúng nhân dân liệu dân tộc VN có thể có bề dày truyền thông như bây giờ không? Lịch sử hằng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã tạo cho Việt Nam có một truyền thống lâu đời, bền vững đó là truyền thống lịch sử, truyền thống dân tộc. Cái hồn của truyền thống ấy là văn hóa và bản lĩnh sáng tạo, sức sống của con người Việt Nam. Dân tộc Việt Nam có một truyền thống từ lâu đời về văn hóa và văn hiến, kết tinh thành hệ giá trị chân - thiện - mỹ như một hệ giá trị phổ quát của văn hóa, của mọi dân tộc trong quốc gia - dân tộc mình và trong cộng đồng nhân loại. Song mỗi dân tộc, do những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử riêng của mình, từ những trải nghiệm trực tiếp trong thực tiễn lao động và đấu tranh, trong môi trường tự nhiên và xã hội để tồn tại và phát triển, lại có những quan niệm và cách thức biểu hiện riêng của mình về chân - thiện - mỹ. Nó biểu hiện thành tâm lý và ý thức, phong tục tập quán và lối sống, tạo thành tính cách của con người và cộng đồng dân tộc. Các giá trị văn hóa truyền thống đó kết tinh lại trong quan niệm, tư tưởng, triết lý, trong đạo đức và cách thức ứng xử, phản ánh diện mạo tinh thần, tâm hồn và tình cảm của cả một dân tộc, có trong các sản phẩm vật thể và phi vật thể của văn hóa. Trong văn hóa tinh thần (phi vật thể) và đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam truyền thống, qua các thời đại lịch sử cần đặc biệt chú trọng tới một lĩnh vực rất phong phú và tinh tế nằm chung trong cấu trúc của văn hóa, ấy là văn học, nghệ thuật, bao gồm cả dòng văn học dân gian và dòng văn học bác học. Đây là di sản tinh thần rất quan trọng mà các thế hệ người Việt Nam từ xa xưa - tổ tiên, ông cha chúng ta đã sáng tạo ra, đã để lại cho đời sau. Nó phải được bảo tồn và phát huy, được kế thừa và phát triển trong những điều kiện lịch sử mới. Nó cần phải có mặt trong hành trang của những con người Việt Nam hiện nay, nhất là thế hệ trẻ nhập cuộc với đổi mới để phát triển, đổi mới trong nội tại của đất nước, con người và dân tộc mình đồng thời hội nhập với bên ngoài để phát triển và hiện đại hóa đất nước.
Đảng ta luôn quan tâm chú trọng đến đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân lây nhân dân làm nòng cốt trong mọi lĩnh vực.Đảng đã có những hoạt động cụ thể như sau:
+ Chủ trương tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra chất lượng mới của cuộc sống; xây dựng và hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
+ Ba lĩnh vực cần tập trung thực hiện bằng được là : xây dựng môi trường, lối sống và đời sống văn hoá của mọi người dân ở cơ sở, phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân; khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật, tạo ra những tác phẩm, công trình có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật; xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hoá, chú trọng các công trình văn hoá lớn, tiêu biểu. Theo phương hướng ấy, cần tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn và tôn tạo các di tích lịch sử và di sản văn hoá; tạo điều kiện cho các lĩnh vực xuất bản, thông tin đại chúng phát triển; bảo đảm tự do dân chủ cho mọi hoạt động sáng tạo văn hoá, văn học nghệ thuật đi đôi với phát huy trách nhiệm công dân của văn nghệ sĩ, chăm sóc các tài năng văn hoá, nghệ thuật; đổi mới nội dung và phương thức quản lý của Nhà nước về văn hóa.
III.Giáo dục
Nhận thấy vai trò quan trọng của quần chúng nhân dân,đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến vấn đè giáo dục của nước nhà .bồi dưỡng các thế hệ trẻ những chủ nhân tương lai của đất nước.Cụ thể là:
Cùng với củng cố kết quả xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, việc phổ cập giáo dục trung học cơ sở đã được triển khai tích cực, đến hết năm 2005 có 31 tỉnh đạt tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỉ lệ học sinh trong độ tuổi đi học ở bậc tiểu học đạt 97,5%. Quy mô giáo dục tiếp tục được mở rộng và trình độ dân trí đã được nâng lên rõ rệt.
Số học sinh trung học chuyên nghiệp tăng 12,9%/năm và dạy nghề dài hạn tăng 12%/năm, sinh viên đại học và cao đẳng tăng 8,4%/năm. Các trường sư phạm từ trung ương đến địa phương tiếp tục được củng cố và phát triển. Chất lượng dạy nghề có chuyển biến tích cực. Bước đầu đã hình thành mạng lưới dạy nghề cho lao động nông thôn, thanh niên dân tộc thiểu số, người tàn tật, gắn dạy nghề với tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo.
Đổi mới giáo dục đang được triển khai từ giáo dục mầm non, phổ thông, dạy nghề đến cao đẳng, đại học. Việc xã hội hoá giáo dục và đào tạo đã đạt kết quả bước đầu. Nhiều trường dân lập, tư thục bậc đại học, trung học chuyên nghiệp, trung học phổ thông và dạy nghề đã được thành lập.
Đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo tăng lên đáng kể. Năm 2005, chi cho giáo dục và đào tạo chiếm khoảng 18% tổng chi ngân sách nhà nước; đã huy động được nhiều nguồn vốn khác để phát triển giáo dục thông qua việc phát hành công trái giáo dục, đóng góp của dân cư, của doanh nghiệp, vốn từ bên ngoài. Cơ sở vật chất của ngành đã được tăng cường, đặc biệt là đối với vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
* Xây dựng kế hoạch trong tương lai:
Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo được chuyển biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và thế giới; khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể, thiếu kế hoạch đồng bộ. Xây dựng nền giáo dục của dân, do dân và vì dân; bảo đảm công bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời.
Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập suy nghĩ của học sinh, sinh viên. Coi trọng bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên khát vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân với tương lai của cộng đồng, của dân tộc, trau dồi cho học sinh, sinh viên bản lĩnh, phẩm chất và lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam hiện đại. Triển khai thực hiện hệ thống kiểm định khách quan, trung thực chất lượng giáo dục, đào tạo.
Hoàn chỉnh và ổn định lâu dài hệ thống giáo dục quốc dân; chú trọng phân luồng đào tạo sau trung học cơ sở; bảo đảm liên thông giữa các cấp đào tạo. Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học, tạo chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng đào tạo. Tập trung sức xây dựng một số trường đại học đạt đẳng cấp quốc tế, đào tạo nhân tài cho đất nước.
Mở rộng quy mô dạy nghề và trung học chuyên nghiệp, bảo đảm tốc độ tăng nhanh hơn đào tạo đại học, cao đẳng. Quy mô tuyển sinh dạy nghề dài hạn tăng 17%/năm và trung học chuyên nghiệp tăng hàng năm khoảng 15%. Tăng nhanh tỉ lệ học sinh tốt nghiệp phổ thông được học tiếp lên đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề. Phát triển rộng khắp và nâng cao chất lượng các trung tâm giáo dục cộng đồng. Tích cực triển khai hình thức giáo dục từ xa.
Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục và đào tạo. Rà soát, sắp xếp lại quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Đi đôi với việc đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao chất lượng các trường công lập, cần bổ sung chính sách ưu đãi để phát triển các trường ngoài công lập và các trung tâm giáo dục cộng đồng. Xúc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đề tài sự vận dụng của Đảng ta về vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân trong quá trình xây dựng đất nước.doc