Sự thực hành chế độ CNTBNN ở thời Lênin đã mang lại nững kết quả to lớn . Đến tháng 11 năm 1922 . Lênin đã trình bày khái quát những thành tựu của chính sách kinh tế mới nói chung , CNTBNN nói riêng :
Tình hình giai cấp nông dân , từ chỗ đói kém , một bộ phận lớn trong nông dân bất bình đến chỗ trong vòng một năm , nông dân đã thoát khỏi nạn đói và còn nộp được thuế lương thực hàng trăm triệu rúp . Nông dân đã hài lòng với tình hình của họ .
Công nghiệp nhẹ đang có đà phát triển , đời sống của nông dân được cải thiện , tình trạng bất mãn của công nhân không còn nữa .
Công nghiệp nặng tuy vẫn còn khó khăn nhưng đã có sự thay đổi nhất định .
14 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1625 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Sự vận dụng lý luận của Lênin về CNTB nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I . Lý luận của lênin về cntb nhà nước trong thời kỳ quá độ lên cnxh :
1. Sự cần thiết :
Khi cách mạng tháng mười vừa thành công thì chính quyền Xô viết phẩi đương đầu với cuộc nội chiến và cuộc can thiệp cũ trang của cả chủ nghĩa đế quốc thế giới .Đứng trước nguy cơ một mất một còn , chính quyền xô viết tìm mọi cách để tập trung mọi lực lượng nhằm đánh bại những lực lượng thù địch bên trong và bên ngoài .Chính sách “ Cộng sản thời chiến “ ra đời trong hoàn cảnh đó . Đó là chính sách kinh tế của nhà nước Xô viết nhằm huy động mọi tài nguyên trong nước do nhu cầu của tiền tuyến trong điều kiện nền kinh tế bị tàn phá sau cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất .
Chính sách thời chiến đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thắng lợi cho cuộc nội chiến . Nhưng sau khi đập tan bọn vũ trang can thiệp và kết thúc nội chiến , tình hình kinh tế , chính trị , xã hội nước Nga rất bi đát .Đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện trầm trọng . Đất nước Xô viết cần có những biện pháp mới , chiến lược mới để khôi phục và phát triển vì chính sách “ Cộng sản thời chiến “ không còn phù hợp . Thực tế cho thấy không thể thực hiện ngay CNXH mà cần phải lùi về CNTBNN , từ bỏ biện pháp tấn công chính diện và bắt đầu một cuộc bao vây lâu dài . Sự chuyển đổi ấy được đánh dấu bằng chính sách “ kinh tế mới “ .
Chính sách kinh tế mới nói chung , CNTBNN nói riêng ra đời là sự xuất phát từ điều kiện thực tế và là sự tất yếu do hoàn cảnh kinh tế đề ra . Nước Nga là một nước chậm tiến ở châu âu , cho nên nước Nga Xô viết chỉ mới có nguyện vọng tiên quyết tiến lên con đường chxh mà chưa có nền móng kinh tế của nó .Trong một nước như vậy theo lênin , cuộc cách mạng xhcn chỉ có thể thắng lợi với hai điều kiện : Điều kiện thứ nhất là có sự ủng hộ kip thời của cách mạng xhcn ở một số nước tiên tiến . Điều kiện thứ hai : là sự thoả thuận giữa giai cấp vô sản đang thực hiện sự chuyên chính của mình hoặc đang nắm chính quyền nhà nước với đại da số nông dân .Lênin khẳng định : chừng nào cách mạng chưa nổ ra ở các nước khác thì chỉ có thoả thuận với nông dân mới có thể cứu vãn được cuộc cách mạng xhcn . Đó là lý do phải quay về tư bản nhà nước .
Sự thoả thuận giữa hai giai cấp này sau khi kết thúc nội chiến đã trở nên không vững chắc vì nông dân không hài lòng với hình thức quan hệ hiện có , không muốn có hình thức quan hệ ấy nữa và không muốn tiép tục sống mãi như thế .Do đó , phải thiết lập những mối quan hệ mới thông qua các hoạt động kinh tếvà phải thoả mãn được những yêu cầu của nông dân , về thực chất có thể thoả mãn nông dân bằng hai việc : phải có sự tự do trao đổi nhất định và phải kiếm ra hàng hoá và lương thực .
Chính sách tự do trao đổi là nhằm “ kiếm ra hàng hoá “ căn cứ vào tâm lý của người tiêu dùng . Nhờ chính sách tự do buôn bán mà kích thích người nông dân , vì lợi ích của bản thân mà tạo ra nhiều nông sản , hàng hoá , chính sách tự do buôn bán là sự thoả thuận với nông dân một cách thực tế , khéo léo , khôn ngoan và mềm dẻo . Cũng chính vì chính sách tự do trao đổi hàng hoá trong nông dân và chính sách đó mà xuất hiện hai vấn đề dẫn đến CNTBNN .
Trước hết tự do trao đổi là tự do buôn bán ; mà tự do buôn bán tức là lùi lại CNTB . Lênin đã dự kiến trước như vậy nhưng không phải vì thế mà ta có thể ngăn cấm được . Từ đó thấy được sự cần thiết phải dung nạp CNTB . ở đây diễn ra một điều mà chính Lênin cũng phải nói “ hình như là ngược đời : CNTB lại đóng vai trò là trợ thủ cho CNXH , có thể sử dụng CNTB tư nhân để xúc tiến CNXH “ . Muốn không thể thay đổi bản chất của mình , nhà nước vô sản chỉ có thể thừa nhận cho CNTB được phát triển trong một chừng mực nào đó và tư bản tư nhân phải phục tùng sự điều tiết của nhà nước , phải tìm cách hướng chúng vào con đường của CNTBNN bằng một tổ chức của nhà nước và những biện pháp có tính chất nhà nước từ bên trên . Vậy , trong điều kiện nhà nước vô sản , tự do trao đổi , tự do buôn bán tất dẫn đến sự phục hồi của CNTB dưới hình thức chủ yếu là CNTBNN .
Trong điều kiện mà CNTB tư sản chiếm ưu thế , hàng hoá chỉ có thể có được từ nông dân , từ nông nghiệp , như vậy , phạm vi trao đổi chỉ diễn ra trong phạm vi hàng hoá nông sản điều đó sẽ kích thích nông dân , nông nghiệp phát triển . Do đó , phải có những hàng hoá mà nông dân cần đó là những sản phẩm công nghiệp và thủ công nghiệp . Nhưng tình hình trong nước không thể giải quyết ngay vấn đề này nếu không có sự gíp đỡ của tư bản nước ngoài , theo Lênin thì cần phải “ du nhập “ CNTB từ bên ngoài bằng những hợp đồng buôn bán với nước tư bản lớn bằng những hình thức khác nhau cuả CNTBNN.
2 .Vai trò của CNTBNN trong nền kinh tế nước Nga :
Bản chất của CNTBNN là sự kết hợp , phối hợp Nhà nước Xô viết , nền chuyên chính vô sản với CNTB , là một khối CNTB và đương nhiên sẽ không có CNTBNN, nếu không có những điều kiện cho họ , điều ấy theo Lênin , chính là” cống vật “ . Trong điều kiện trên thế giới chỉ có mình chính quyền Xô viết , xung quanh là cả một hệ thống các nước tư bản , muốn tồn tại , chính quyền Xô viết không thể bỏ qua sự thật ấy . Khi thực hiện CNTBNN, nhà tư bản được lặp lại , được du nhập không phải vì lợi ích củng cố chính quyền Xô viết , mà vì lợi ích của bản thân họ . Chính Lênin còn dự kiến khả năng sự phân chialợi ích đó thoạt đầu có lợi nhiều cho các nhà tư bản dưới hình thức” trả giá “cho sự lạc hậu , cho sự kém cỏi của mình . Vấn đề là không cần che giấu sự thật : phải nộp “ cống vật “ . Nhưng đối với nhà nước vô sản thì sự dung nạp và du nhập CNTB sẽ mang lại những lợi ích cơ bản và lâu dài .
Sự phát triển của CNTB do nhà nước vô sản kiểm soát và điều tiết có thể đẩy nhanh sự phát triển ngay tức khắc nền nông nghiệp . Nhờ việc tăng nhanh lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mà ổn định xã hội , thoát khỏi khủng hoảng , thoát khỏi tình cảnh giảm sút tín nhiệm của nông dân đối với chính quyền Xô viết , khắc phục tình trạng trộm cắp của công ...
Bằng sự du nhập CNTB ở bên ngoài mà tăng nhanh lực lượng sản xuất , tăng lên ngay hoặc trong một thời gian ngắn . Cải thiện đời sống công nhân và nông dân , nền đại công nghiệp sẽ được phục hồi .
CNTBNN là công cụ để liên hợp nền sản xuất nhỏ lại , khắc phục tình trạng phân tán và đấu tranh chống tính tự phát tiểu tư sản và TBCN . CNTBNN là một bước tiến lớn , nhờ nó mà tránh được tình trạng hỗn độn , tình trạng suy sụp về kinh tế , hiện tượng lỏng lẻo , những thói quen , địa vị kinh tế của giai cấp . Cũng chính vì thế mà CNTBNN sẽ đưa nước Nga lên CNXH bằng con đường chắc chắn nhất .
CNTBNN là công cụ để khắc phục được “ kẻ thù chính trong nội bộ đất nước , kẻ thù của các biện pháp kinh tế “ của chính quyền Xô viết . Đó là bọn đầu cơ , gian thương , bọn phá hoại độc quyền nhà nước . CNTBNN còn được xem là công cụ đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu và những lệch lạc quan liêu chủ nghĩa .
Thông qua CNTB và CNTBNN mà giai cấp công nhân có thể học tập cách quản lý của nền sản xuất lớn , tổ chức một nền sản xuất lớn . CNTBNN thông qua sự du nhập của tư bản từ bên ngoài là hình thức du nhập tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại , qua đó có được trình độ trang bị cao của CNTB .
CNTB thông qua sự phát triển của nó mà phục hồi được giai cấp công nhân . Nếu CNTB được lợi thế thì sản xuất công nghiệp cũng sẽ tăng lên và giai cấp vô sản cũng theo đó mà lớn mạnh lên .
3.Các hình thức TBNN mà Lênin đã nêu :
a.Tô nhượng :
Tô nhượng là một giao kèo , một sự liên minh , liên kết giữa chính quyền nhà nước xô viết , nghĩa là nhà nước vô sản với CNTB , chống lại thế lực tự phát tiểu tư hữu .Tô nhượng là chính quyền Xô viết ký hợp đồng với nhà tư bản . Chính quyền XHCN giao cho nhà tư bản tư liệu sản xuất của mình . Nhà tư bản tiến hành kinh doanh với tư cách là một bên ký kết , là người thuê tư liệu sản xuất xã hội chủ nghĩa và thu được lợi nhuận của tư bản mà mình đã bỏ ra , rồi nộp cho nhà nước XHCN một phần sản phẩm , tô nhượng là hình thức kinh tế mà hai bên cùng có lợi . Nhà nước tư bản thu được lợi nhuận bất thường , siêu ngạch hoặc để có được loại nguyên liệu không tìm được hoặc khó tìm được . Chính quyền Xô viết cũng có lợi : lực lượng sản xuất phát triển , số lượng sản phẩm tăng lên .
Hình thức tô nhượng là sự “ du nhập “ chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài vào . Tất cả khó khăn trong nhiệm vụ này là phải suy nghĩ , phải cân nhắc hết mọi điều khi ký kết hợp đồng tô nhượng và sau đó phải biết theo dõi việc chấp hành nó . Lênin đã nêu ra những vấn đề cần chú ý :
Để thực hành tô nhượng cần phải từ bỏ chủ nghĩa ái quốc địa phương một số người cho rằng , tự mình có thể làm lấy , không chấp nhận trở lại ách nô dịch của tư bản .
Người nhận tô nhượng có trách nhiệm cải thiện đời sống công nhân trong xí nghiệp tô nhượng sao cho đạt tới mức sống trung bình của nước ngoài
Vấn đè trả lương cho công nhân ở các xí nghiệp tô nhượng sẽ được quy định riêng cho từng hợp đồng . Điều kiện về thuê mướn , về sinh hoạt vật chất , về trả lương cho công nhân và nhân viên nước ngoài được quy định theo sự thoả thuận tự do giữa người nhận tô nhượng vơí những loại công nhân nói trên . Công đoàn không có quyền đòi hỏi áp dụng các mức lương ở nga , cũng như các luật lệ của Nga về thuê mướn nhân công đôí với những nhân công đó .
Đối với những công dân Nga , chuyên gia Nga có trình độ cao , nếu các xí nghiệp tô nhượng muốn mời thì phải có sự đồng ý của chính quyền trung ương .
Phải tôn trọng luật pháp của nước Nga .
Phải nghiêm chỉnh tuân theo những nguyên tắc khoa học và kỹ thuật phù hợp với pháp luật của nước Nga và nước ngoài .
b.Các hợp tác xã :
Những xí nghiệp hợp tác xã được coi là một hình thức của CNTBNN . Đặc trưng của xí nghiệp này là sự kết hợp của những xí nghiệp tư bản tư nhân với những xí nghiệp kiểu CNXH chính cống . Những xí nghiệp hợp tác xã này là bước chuyển từ một hình thức đại sản xuất này sang hình thức đại sản xuất khác . Hình thức này là hinh thức hợp doanh ( công tư hợp doanh ) theo khái niệm thường ngày nay với cachs diễn đạt của Lênin .
c. Hình thức đại lý uỷ thác:
Theo hình thức này thì nhà nước lôi cuốn nhà tư bản với tư cách một nhà buôn , trả cho họ một số tiền hoa hồng để họ bán sản phẩm của nhà nước và mua sản phẩm của người sản xuáat nhỏ .
d. Cho tư bản trong nước thuê xí nghiệp , vùng mỏ , rừng đất . Cho nông dân thuê những hầm mỏ nhỏ :
Cho tư bản trong thuê xí nghiệp ... giống hình thức tô nhượng , nhưng đối tượng tô nhượng không phải hình thức tư bản nước ngoài mà là tư bản trong nước .
Cho nông dân thuê những hầm mỏ là một hình thức nữa của CNTBNN. Chính ở những hầm mỏ nhỏ cho nông dân thuê , sản xuất lại đặc biệt phát triển hơn là những xí nghiệp lớn nhất trước kia của tư bản . Những nông dân này hoạt động theo kiểu nộp tô cho nhà nước . Đây cũng là kiểu cho thuê , nhưng đối tượng thuê là những tiểu tư bản .
4. Kết quả vận dụng kinh tế TBNN ở Liên Xô :
Sự thực hành chế độ CNTBNN ở thời Lênin đã mang lại nững kết quả to lớn . Đến tháng 11 năm 1922 . Lênin đã trình bày khái quát những thành tựu của chính sách kinh tế mới nói chung , CNTBNN nói riêng :
Tình hình giai cấp nông dân , từ chỗ đói kém , một bộ phận lớn trong nông dân bất bình đến chỗ trong vòng một năm , nông dân đã thoát khỏi nạn đói và còn nộp được thuế lương thực hàng trăm triệu rúp . Nông dân đã hài lòng với tình hình của họ .
Công nghiệp nhẹ đang có đà phát triển , đời sống của nông dân được cải thiện , tình trạng bất mãn của công nhân không còn nữa .
Công nghiệp nặng tuy vẫn còn khó khăn nhưng đã có sự thay đổi nhất định .
Riêng về chính sách CNTBNN, nhìn chung đã mang lại cho nước Nga những tác dụng tích cực nhất định , góp phần làm sống động nền kinh tế nước Nga đã bị suy sụp sau chiến tranh . Nhờ tô nhượng với nước ngoài , nhiều ngành công nghiệp quan trọng đã phát triển , nhiều kinh nghiệm tiên tiến với kỹ thuật , thiết bị của nền sản xuất lớn TBCN đã được đưa vào quá trình sản xuất , mang lại hiệu quả cao . Tô nhượng cùng các công ty hợp doanh đã góp phần phát triển sản xuất hàng hoá , tăng thêm dự trữ ngoại tệ cho đất nước , mở rộng các quan hệ liên doanh liên kết kinh tế trong lĩnh vực đầu tư sản xuất , chuyển giao công nghệ tiên tiến và phát triển ngoại thương với các nước tư bản phương tây .Thông qua hoạt động của công ty hợp doanh , những người cộng sản Nga có thể thực sự học cách buôn bán , điều mà bấy giờ Lênin thường nói là quan trọng . Hoạt động của các xí nghiệp cho thuê , các xí nghiệp hỗn hợp góp phần giúp nhà nước Xô viết duy trì hoạt động sản xuất bình thường ở các cơ sở kinh tế , tăng thêm sản phẩm cho xã hội , việc làm cho người lao động . Hình thức đại lý thương nghiệp và các hợp tác xã TBCN trong các lĩnh vực sản xuất , tín dụng đã góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ thương nghiệp XHCN đẩy nhanh quá trình trao đổi và lưu thông hàng hoá tiền tệ , làm sống động nền sản xuất hàng hoá nhỏ , qua đó cải biến những người tiểu nông , nối liền quan hệ trao đổi công – nông nghiệp , thành thị – nông thôn .
Những kết quả ấy có ý nghĩa tích cực đối với nước Nga Xô viết . Nó còn góp phần không nhỏ vào công cuộc phát triển nền kinh tế nước Nga sau chiến tranh .Tuy nhiên so với sự mong muốn và mục tiêu đặt ra của Lênin thì kết quả thực hành chế độ này vẫn còn rất thấp . Nguyên nhân quan trọng nhất là CNTB đế quốc vẫn còn tìm cách bóp chết chính quyền Xô viết , vì thề sự hợp tác , đầu tư của tư bản nước ngoài vào Liên xô không đạt sự mong muốn .
Tuy nhiên , kết quả lớn nhất là bắt đầu hình thành một khái niệm mới , và CNTBNN đã thực sự là một phần đặc trưng của chính sách kinh tế mới . Và nhờ chính sách kinh tế mới mà chính quyền Xô viết đã giữ vững được vị trí vững chứcc trong nông nghiệp và công nghiệp , có khả năng tiến lên được . Nông dân vừa lòng , công nghiệp cũng như thương nghiệp đang được hồi sinh và phát triển . Đó là thắng lợi của chính quyền Xô viết .
Chính sách kinh tế mới của Lênin đánh dấu một bước phát triển mới về lý thuyết nền kinh tế XHCN . Theo tư tưởng này , nền kinh tế nhiều thành phần , các hình thức kinh tế quá độ , việc duy trì và phát triển hàng hoá - tiền tệ , quan tâm tới lợi ích kinh tế cá nhân trước hết là của nông dân là những vấn đề có tính nguyên tăcs trong việc xây dựng mô hình có tính nguyên tắc trong việc xây dựng mô hình kinh tế XHCN .
II. Sự vận dụng lý luÂN của lênin về cntbnn trong thời kỳ qúa độ lên cnxh ở việt nam :
1.Sự cần thiết :
Đặc trưng của thời đại ngày nay ; loài người đã bước vào một thời đại mới , chuyển từ nền văn minh máy móc , hoá chất và dầu lửa sang nền văn minh sinh học và thông tin , nền kinh tế thế giói đang bước vào một nền kinh tế được gọi là kinh tế trí tuệ . Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới đang tạo ra một lực lượng sản xuất mới có tính chất và trình độ cao hơn lực lượng sản xuất cũ và quốc tế hoá rất cao . Tính quốc tế cao của nền kinh tế đang làm cho tất cả cá nước trên thế giới ngày càng phụ tuộc và họp tác chặt chễ với nhau . Bất cứ một nước nào muốn tách khỏi một nền kinh tế thế giới là một điều tự sát . Đấu tranh và hợp tác giữa các nước là điều kiện tồn tại của tất cả các nước , của mỗi nước . Vì vậy , trong thời đại ngày nay nước ta không thể tách rời khỏi nền kinh tế thế giới mà phải hoà nhập và muốn như thế trong các thành phần kinh tế của nước ta phải có thành phần kinh tế TBNNđể có thể hợp tác kinh tế với tất cả các nước trên thế giới .
Việt nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNTBNN là một trong những trung gian quan trọng nhất vì vậy để có thể tiến lên CNXH nước ta không thể bỏ qua các hình thức kinh tế TBNN .
2. Các hình thức kinh tế TBNN vận dụng ở Việt nam :
Từ quan điểm của Lênin và căn cứ vào thực tiẽn của nước ta , trong bối cảnh hiện nay , có thể xác định các hình thức CNTBNNcần vận dụng ở nước ta là :
a.Liên doanh , liên kết giữa nh với các nhà tư bản trong nước :
Trước đây , hình thức này hình thức này được gọi là công ty hợp doanh nhưng chúng ta mới chỉ áp dụng một cách hạn chế với chủ trương cốt để cải tạo XHCNnhằm sớm đi đến xoá bỏ kinh tế nhân . Nay , trên cơ sở quan điểm thừa nhận các thành phần kinh tế còn tồn tại và phát triển lâu dài trong thoừi kỳ quá độ lên CNXH , hình thức này cần được sử dụng và phát triển đa dạng hơn .
Để phát huy sức mạnh của thành phần kinh tế này , bên cạnh việc tạo diều kiện cho kinh tế tư bản tư nhân phát triển cần khuyến khích họ liên doanh , liên kết với kinh tế nhà nước qua đó mà tăng vốn , đổi mới công nghệ , mở rộng quy mô sản xuất , tăng sức cạnh tranh và tăng khả năng họp tác với nước ngoài .
b.Tô nhượng và liên doanh giữa nhà nước với các tư bản và các tổ chức kinh tế nước ngoài:
Lênin rất coi trọng việc sử dụng các chuyên gia tư sản nước ngoài vào phát triển kinh tế trong thơì kỳ quá độ lên CNXH. Hình thức tô nhượng được Lênin coi là rành mạch và rễ hiểu nhất để sử dụng các chuyên gia tư sản .
Ngày nay , theo kinh nghiệm các nước , việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới hình thức liên doanh và công ty 100% vốn nước ngoài (thực chất là một kiểu tô nhượng ) là hấp dẫn và có hiệu quả hơn so với việc vay vốn và tiếp nhận viện trợ của các nước trong quá trình hiện đại hoá nền kinh tế . Thông qua các hình thức này , nhà nước thu hút và cho phép các nhà tư bản và công ty nước ngoài dầu tư vào trong nướcđể phát triển sản xuất kinh doanh . Hiện nay ở nước ta ,các hình thức này đang được triển khai tích cực .
c.Cho thuê kinh doanh :
Thông qua đấu thầu một số cơ sở vật chất của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước , thức hiện các hợp đồng ký kết giữa nhà nước ta với các nhà tư bản trong và ngoài nước để triển khai hình thức này . So với tô nhượng , hình thức này khác ở hai điểm : Thời gian hợp đồng thường ngắn hơn , và đối tượng cho thuê không phaỉ chủ yếu là quyền sử dụng đất mà chủ yếu là hầm mỏ , rừng và cửa hàng ... Thông qua phát triển hình thức này mà mở rộng một số nghành và lĩnh vực kinh tế , đồng thời nhà nước có điều kiện để tập trung vốn vào các lĩnh vực , nghành trọng yếu , then chốt nhằm tăng cường vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần .
d.Đại lý kinh doanh :
Hình thức này áp dụng ở các nghành kinh tế dịch vụ . Thông qua các đại lý mua bán và các cơ sở dịch vụ, nhà nước , tư nhân hoặc các nhà tư bản trong và ngoài nước tiêu thụ , cung cấp các yếu tố cần thiết cho phát triển sản xuất và các sản phẩm cho tiêu dùng xã hội .
e.Gia công đặt hàng :
Hình thức này áp dụng ở các nghành sản xuất vật chất . Thông qua hình thức này , nhà nước đặt hàng với các nhà tư bản trong và ngoài nước hoặc các doanh nghiệp nhà nước nhận gia công cho các công ty nước ngoài . Trong điều kiện hiện nay , khi trình độ của ta còn thấp kém , chưa thể sản xuất hoàn chỉnh có hiệu quả một số loại sản phẩm , nhưng với một lực lượng lao động dồi dào , giá nhân công rẻ , vị trí địa lý thuận lợi , thị trường tiêu thụ lớn và hấp dẫn , ta có thể nhận gia công cho các công ty nước ngoài các mặt hàng giầy da , may mặc , sản xuất các mặt hàng tái xuất , lắp ráp các sản phẩm ô tô, xe máy , thiết bị điện tử ...
3.Kết quả vận dụng lý luận kinh tế TBNN của Lênin , những vấn đề tồn tại :
Trong mấy năm qua , nước ta đã áp dụng các phương thức góp vốn liên doanh giữa nhà nước với các nhà tư bản để hình thành các công ty cổ phần , công ty trách nhiệm hữu hạn . Cho đến tháng 9/1998 đã có 299 công ty cổ phần , với 100 tỷ đồng vốn chiếm 0.1% tổng số vốn của các doanh nghiệp và bằng 3% tổng số vốn của nhà nước tại các công ty cổ phần trong nước và và các công ty liên doanh với nước ngoài . Tuy nhiên , trong tổ chức vẫn còn những trở ngại để mở rộng hình thức này , một mặt cần hoàn thiện cơ sở pháp lý tài chính , mặt khác , đẩy mạnh hơn nữa cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước , phát triển các loại hình công ty cổ phần , có quy chế tạo ra khả năng lưu hành rộng rãi cổ phiếu và các chứng khoán khác , ra đời và phát triển thị trường chứng khoán , hoàn thiện các yếu tố của nền kinh tế thị trường .
Kinh tế TBNN với nước ngoài tồn tại dưới hình thức công ty liên doanh và công ty 100% vốn nước ngoài .Tính đến tháng 7/1997 tỷ lệ đó là 2397 dự án đầu tư được cấp giấy phép hoạt động với số vốn đăng ký 32.8 tỷ USD và vốn thực hiện là 13 tỷ USD thu hút 700 hãng ở 50 quốc gia . Tuy nhiên , để đẩy mạnh thu hút và thu hút có hiệu quả đầu tư nước ngoài tránh đầu tư quá lớn vào một số nghành trong thời gian ngắn , dự án lỗ... Cần mở rộng một số hình thức liên doanh , trong đó cho phép các nhà tư bản và công ty nước ngoài mua cổ phiếu của công ty cổ phần , kể cả một số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá , phát hành trái phiếu chính phủ , trái phiếu công trình ra nước ngoài . Nâng cao hơn nẵ tính chủ động trong gọi vốn đầu tư , tăng tỷ lệ góp vốn của phía Việt nam trong các công ty liên doanh với nước ngoài .
Bên cạnh những kết quả đạt được , việc vận dụng các hình thúc kinh tế TBNN ở nước ta một số hạn chế như: dầu tư quá lớn vào một số ngành trong một thời ngắn dẫn đến cung lớn hơn cầu . Có những nghành trong nước có thể làm tốt thì lại gọi vốn đầu tư nước ngoài ví dụ sản xuất đồ chơi trẻ em...Có những nghành có khả năng thu hồi vốn nhanh tỷ suất lợi nhuận cao sử dụng nhiều lao động thì lại 100% vốn nước ngoài ví dụ nghành dệt , da dầy ... Trong các liên doanh nước ngoài thường đưađưa thiết bị vào nhưng giá cao .
4.Phương hướng phát triển các hình thức kinh tế ở nước ta
Một là , sự chung vốn , hợp vốn giữa nhà nước và tư nhân được tập trung vào một số hướng ưu tiên sau:
Phát triển các doanh nghiệp chế biến từ nguyên liệu nông , lâm , hải sản và các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng với công nghệ thích hợp , thu hút nhiều lao động , thu hút vốn nhanh , có mức doanh lợi hấp dẫn phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu .
Mở rộng sản xuất , hiện đại hoá công nghiệp ở những doanh nghiệp nhà nước hiện có dưới hình thức gọi vốn cổ phần tư nhân và ngoài nước .
Phát triển những nghành mũi nhọn , công nghệ hiện đại có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và khu vực .
Hai là , về nguyên tắc chung vốn , hợp vốn giữa các nhà nước và tư nhân , đặc biệt là tư nhân nước ngoài cần được tập trung vào các doanh nghiệp mà việc phát triển mới , cải tạo mở rộng , hiịen đại hoá nó đòi hỏi vốn lớn . Cần tăng cường sức mạnh về vốn của các đối tác phía Việt nam và các nhà tư sản dân tộc để trở thành một đối tượng cần thiết đối với nhà tư bản nước ngoài .
Ba là hợp tác , đầu tư dưới hình thức liên doanh , ký kết hợp đồng , hợp tác kinh doanh giữa nhà nước với các nhà đầu tư nước ngoài được tiến hành nhằm tranh thủ vốn , công nghệ , mở rộng thị trường và công nghệ quản lý tiên tiến . Để thu hút vốn đầu tư trức tiếp của tư bản nước ngoài cần áp dụng đồng thời và có hiệu quả ba hình thức : xí nghiệp liên doanh , xí nghiệp đầu tư 100% vốn đầu tư nước ngoài và hợp tác kinh doanh ở tất cả các lĩnh vực , ngành nghề của nền kinh tế ( trừ những lĩnh vực liên quan đến quốc phồng và an ninh ). Caanf có những chính sách thu hút mạnh mẽ hơn nữa sự hiện diện đầu tư của các công ty đa quốc gia vào khu vực công nghiệp trung , khu chế xuất dưới hìh thức 100% vốn hoặc liên doanh với đối tác Việt nam dưới dạng công ty cổ phần . Mở rộng từng bước việc phát hành trái phiếu chính phủ , cổ phiếu của công ty nhà nước trên thị trường vốn trong và ngoài nước .
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 60413.DOC