Về sự điều chỉnh của CNTB đối với Quan hệ sản xuất, cần thấy rằng quá trình điều chỉnh diễn ra ở tất cả các yếu tố, trong hệ thống quan hệ sản xuất TBCN. Những điều chỉnh ở lĩnh vực, các khía cạnh khác nhau của Quan hệ sản xuất đã tác động, ảnh hưởng chi phối lẫn nhau, tổng hợp lại tạo ra sự thích ứng phù hợp cuae Quan hệ sản xuất TBCN đối với Lực lượng sản xuất xã hội, thúc đẩy sự phát triển của Lực lượng sản xuất, tạo ra những biến đổi mới trong Lực lượng sản xuất. CNTB đã tỏ ra là còn có thể tạo điều kiện cho sự phát triển hơn nữa của Lực lượng sản xuất và do đó có những cơ sở mới cho sự tồn tại của mình. Tình hình đó đã xác minh cho tính đúng đắn của quan hệ Mác-xít “không một chế độ xã hội nào lại diệt vong khi tất cả những Lực lượng sản xuất mà chế độ xã hội đó tạo ra địa bàn đầy đủ cho phát triển vẫn còn chưa phát triển”.
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3616 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất vào công cuộc đổi mới ở Việt nam của Đảng ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quan dó tất yếu dẫn đến xoá bỏ Quan hệ sản xuất cũ thay bằng Quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất , mở đường cho Lực lượng sản xuất phát triển.
1.3.3. Quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với Lực lượng sản xuất .
Sự hình thành, biến đổi phát triển của Quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất . nhưng Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà Lực lượng sản xuất dựa vào đó để phát triển, nó tác động trở lại đối với Lực lượng sản xuất : có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của Lực lượng sản xuất . Nếu Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất nó thúc đẩy sản xuất phát triển nhanh. Nếu nó không phù hợp nó kìm hãm sự phát triển của Lực lượng sản xuất , song tác dụng kìm hãm đó chỉ tạm thời theo tính tất yếu khách quan , cuối cùng nó sẽ bị thay thế bằng kiểu Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất.
Sở dĩ Quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với Lực lượng sản xuất (thúc đẩy hoặc kìm hãm); vì nó qui định mục đích của sản xuất, qui định hệ thống tổ chức qửan lí sản xuất và quản lý xã hội, qui định phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng đến thái độ quảng đại quần chúng lao động- Lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hôi; nó tạo ra những điều kiện kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ lao động áp dụng những thành tựu khoa học và kĩ thuật vào sản xuất, hợp tác và phân phối lao động.
Tuy nhiên, không được hiểu một cách đơn giản tính tích cực của Quan hệ sản xuất chỉ là vai trò của những hình thức sở hữu, mỗi kiểu Quan hệ sản xuất là một hệ thống một chỉnh thể hữu cơ gồm ba mặt: quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Chỉ trong chỉnh thể đó, Quan hệ sản xuất mới trở thành động lực thúc đẩy con người hành động nhằm phát triển sản xuất.
Qui luật về sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất là qui luật chung nhất của sự phát triển xã hội sự tác động của qui luật này đã đưa xã hội loài người trải qua các phương thức sản xuất: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa.
Thời kì đầu trong lịnh sử là xã hội cộng sản nguyên thuỷ với Lực lượng sản xuất thấp kém, Quan hệ sản xuất cộng đồng nguyên thuỷ đời sống của họ chủ yếu phụ thuộc vào săn bắt hái lượm.
Trong quá trình sinh sống họ đã không ngừng cải tiến và thay đổi công cụ (Lực lượng sản xuất ) đến sau một thời kì Lực lượng sản xuất phát triển quan hệ cộng đồng bị phá vỡ dàn dần xuất hiện quan hệ tư nhận. Nhường chỗ cho nó là một xã hội chiếm hữu nô lệ, với Quan hệ sản xuất chạy theo sản phẩm thăng dư, chủ nô muốn có nhiều sản phẩm dẫn đến bóc lột, đưa ra công cụ lao động tốt, tinh xảo vào sản xuất, những người lao động trong thời kì này bị đối xử hết sức man rợ. Họ là những món hành trao đi đổi lại, họ lầm tưởng do những công cụ lao động dẫn đến cuộc sống khổ cực của mìnhnên họ đã phá hoại Lực lượng sản xuất , những cuộc khởi nghĩa nô lệ diễn ra khắp nơi.
Chấm dứt chế độ xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến ra đời, xã hội mới ra đời giai cấp thời kì này là địa chủ, thời kì đầu giai cấp địa chủ nới lỏng hơn chế độ trước, người nông dân có ruộng đất, tự do thân thể .
Cuối thời kì phong kiến xuất hiện những công trường thủ công ra đời và đẫn tới Lực lượng sản xuất mau thuẫn với Quan hệ sản xuất, cuộc cách mạng tư sản ra đời chế độ tư bản thời kì này chạy theo giá trị thặng dư và lợi nhuận họ đưa ra những kĩ thuật mới những công cụ sản xuất hiện đại áp dụng vào sản xuất thời kì này Lực lượng sản xuất mang tính chất cục kì hoá cao và Quan hệ sản xuất là quan hệ sản xuất tư nhân về tư liệu sản xuất nên dẫn tới cuộc đấu tranh gay gắt giữa tư sản và vô sản nổ ra xuất hiện một số nước chủ nghĩa xã hội . Chủ nghĩa xã hội ra đời quan tâm đến xã hội hoá công hữu nhưng trên thực tế chủ nghĩa xã hội ra ddời ở các nước chưa qua thời kì tư bản chủ nghĩa chỉ có Liên Xô là qua thời kì tư bản chue nghĩa nhưng chỉ là chủ nghĩa tư bản trung bình.
Qui luật về sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất là quy luật vận động phát triển của xã hội qua sự thay thế kế tiếp nhau từ thấp đến cao của phương thức sản xuất.
1.3.4. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất .
Khi trình độ Lực lượng sản xuất còn thủ công thì tính chất của nó là tính chất cá nhân. Nó Thể hiện ở chỗ chỉ một người có thể sử dụng được nhiều công cụ khác nhau trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm .Như vậy, tất yếu dẫn đến quan hệ sản xuất sở hữu tư nhân (nhiều hình thức )về tư liệu sản xuất .
Khi sản xuất bằng máy ra đời, trình độ Lực lượng sản xuất công nghiệp thì một người không thể sử dụng được nhiều mà chỉ một công cụ,hoặc một bộ phận ,chức năng. Như vậy, quá trình sản xuất phải nhiều Người tham gia, sản phẩm lao động là thành quả của nhiều người. ở đây, Lực lượng sản xuất đã mang tính xã hội hoá. Và tất yếu một Quan hệ sản xuất thích hợp phải là Quan hệ sản xuất sở hữu về tư liệu sản xuất. Ănghen viết: “Giai cấp tư sản không thể biến tư liệu sản xuất có tính chất hạn chế ấy thành Lực lượng sản xuất mạnh mẽ được nếu không biến nhuững tư liệu sản xuất của cá nhân thành những tư liệu sản xuất có tính chất xã hội mà chỉ một số người cùng làm mới có thể sử dụng được”.
Quan hệ biện chứng giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất biểu hiện ở chỗ:
Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát triển. Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của Lực lượng sản xuất mà trước hết là công cụ. Công cụ phát triển đến mâu thuẫn gay gắt với Quan hệ sản xuất hiện có và xuất hiện đòi hỏi khách quan phải xoá bỏ Quan hệ sản xuất cũ thay bằng Quan hệ sản xuất mới. Như vậy, Quan hệ sản xuất vốn là hình thức phát triển của Lực lượng sản xuất (ổn định tương đối), Quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triể của Lực lượng sản xuất (không phù hợp). Phù hợp và không phù hợp là biểu hiện của mâu thuẫn biện chứng của Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất, tức là sự phù hợp trong mâu thuẫn và bao hàm mâu thuẫn.
Khi phù hợp cũng như lúc không phù hợp với Lực lượng sản xuất, Quan hệ sản xuất luôn có tính độc lập tương đối với Lực lượng sản xuất, thể hiện trong nội dung sự tác động trở lại đối với Lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của sản xuất, xu hướng phát triển của quan hệ lợi ích, từ đó hình thành những yếu tố hoặc thúc đẩy, hoặec kìm hãm sự phát triển của Lực lượng sản xuất.
Sự tác động trở lại nói trên của Quan hệ sản xuất bao giờ cũng thông qua các quy luật kinh tế cơ bản.
Phù hợp và không phù hợp giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất là khách quan và phổ biến của mọi phương thức sản xuất. Sẽ không đúng nếu quan niệm trong Chủ nghĩa tư bản (CNTB) luôn luôn diễn ra “không phù hợp”, còn dưới Chủ nghĩa xã hội (CNXH) “phù hợp” giữa Quan hệ sản xuất và Lực lượng sản xuất.
1.4. CNTB dưới ánh sáng của quy luật về sự thích ứng giữa Quan hệ sản xuất và Lực lượng sản xuất.
Những năm trước đây, khi nói đến mối quan hệ sản xuất TBCN và Lực lượng sản xuất của nó, người ta thường nhấn mạnh rằng Lực lượng sản xuất đã phát triển cao độ tới mức mà khuôn khổ chật hẹp của Quan hệ sản xuất TBCN không thể chứa đựng nổi nữa; rằng mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của quá trình sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân TBCN tất yếu trở nên gay gắt tới cực độ, đòi hỏi phải thay thế chế độ tư hữu TBCN bằng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. CNTB lúc đầu còn là phương thức sản xuất tiến bộ trong lịch sử so với phương thức sản xuất phong kiến, đến nay đã trở thành phản động, kìm hãm sự phát triển của xã hội loài người không còn lý do gì để tồn tại nữa.
Nhưng bước vào những năm đầu của thập kỷ 80 đến nay, CNTB lại đang chứng tỏ một sức sống mới. Phải chăng sau những cơn khủng hoảng, CNTB đã tìm được một liều thuốc hồi sinh? Năng suất lao động, nhịp độ phát triển kinh tế của các nước tư bản tăng rõ rệt, trong thời gian tới còn hứa hẹn một sự tăng trưởng mạnh mẽ hơn nữa.
Quy luật về sự thích ứng giữa Quan hệ sản xuất và Lực lượng sản xuất, tìm ra những điều chỉnh của CNTB về Quan hệ sản xuất có thể thích ứng được với sự phát triển của Lực lượng sản xuất xã hội.
Nhờ những điều chỉnh này, CNTB không những không kìm hãm sự phát triển của Lực lượng sản xuất, mà còn thúc đẩy, tạo điều kiện cho nó phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Đồng thời, những điều chỉnh đó cũng làm biến đổi bản thân Lực lượng sản xuất, đặc biệt là những biến đổi của đội ngũ giai cấp công nhân “ Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại..” ở các nước TBCN, làm cho cuộc đấu tranh giai cấp công nhân hiện đại trở nên phòng phú hơn, đa dạng hơn, xuất hiện những trở ngại mới trên con đường đi tới mục tiêu xoá bỏ sự bóc lột của giai cấp tư sản.
Về sự điều chỉnh của CNTB đối với Quan hệ sản xuất, cần thấy rằng quá trình điều chỉnh diễn ra ở tất cả các yếu tố, trong hệ thống quan hệ sản xuất TBCN. Những điều chỉnh ở lĩnh vực, các khía cạnh khác nhau của Quan hệ sản xuất đã tác động, ảnh hưởng chi phối lẫn nhau, tổng hợp lại tạo ra sự thích ứng phù hợp cuae Quan hệ sản xuất TBCN đối với Lực lượng sản xuất xã hội, thúc đẩy sự phát triển của Lực lượng sản xuất, tạo ra những biến đổi mới trong Lực lượng sản xuất. CNTB đã tỏ ra là còn có thể tạo điều kiện cho sự phát triển hơn nữa của Lực lượng sản xuất và do đó có những cơ sở mới cho sự tồn tại của mình. Tình hình đó đã xác minh cho tính đúng đắn của quan hệ Mác-xít “không một chế độ xã hội nào lại diệt vong khi tất cả những Lực lượng sản xuất mà chế độ xã hội đó tạo ra địa bàn đầy đủ cho phát triển vẫn còn chưa phát triển”.
Trưúc hết, chúng ta xem xét những điều chỉnh trong quan hệ sử dụng của CNTB. Trong các nước chủ nghĩa tư bản hiện nay đã áp dụng chế độ “Sở hữu xã hội” dưới dạng cổ phiéu để dần dần thay thế cho chiếm hữu cá thể và chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Có thể nói đây là một trong những hình thức quan trọng nhất trong Quan hệ sở hữu để phần nào phù hợp, thích ứng với tính chất xã hội hoá cao của Lực lượng sản xuất.
Người lao động công nhân làm thuê có thể được mua cổ phần của công ty , xí nghiệp như vậy họ đã trở thành những người đồng sở hữu công ty, xí nghiệp đó, có thể cùng tham dự chia sẻ lợi nhuận. Sở hữu cổ phần trở thành biện pháp xã hội hoá sở hữu hoặc một sự phân tán sở hữu, không thể cho tư liệu sản xuất tập trung trong tay một số ít người, hoặc thuộc một công ty độc quyền nào đó.
Mặt khác việc trở thành đồng sở hữu sản xuất được hưởng một phần lợi nhậun cũng làm cho người công nhân quan tâm đến qúa trình sản xuất, chú ý đến việc tăng năng suất lao động đẩy nhanh sự phát triển của Lực lượng sản xuất hơn nữa. Đồng thời, đây cũng là một sợi dây cột chặt lợi ích của hàng triệu người lao động vào lợi ích của tư bản. nhưũng người công nhân có cổ phiếu thường tách khỏi các tổ chức chính trị đoàn thể của giai cấp công nhân. Từ đó dung hoà được sự xung đột giữ người lao động và nhà tư bản.
Một xu hướng khách cho việ điều chỉnh Quan hệ tỏ chức quản lý điều hành quá trình sản xuất xã hội của CNTB để thích ứng với trình đoọ xã hội hoá ngày càng cao của Lực lượng sản xuất là tăng dần tính linh hoạt của tổ chức sản xuất.
Nhờ áp dụng kĩ thuật mới đặc biệt là phương tiện điều khiển bằng điện tử nền sản xuất trong chế đoọ tư bản ngày nay đã có khả năng nhanh chóng đáp ứng đòi hỏi của thị trường dễ dàng thích nghi với nhu cầu của người tiêu dùng. Và như thế vòng quay của quá trình sản xuất mở rộng TBCN sẽ nhanh hơn, nền sản xuất xã hội sẽ càng được thúc đẩy phát triển nhanh chong.
Một điểm cần chú ý tới việc điều chỉnh quan hệ tổ chức quản lý điều hành quá trình sản xuất xã hội của CNTB ngày nay là sự giao kết chặt chẽ giữa lĩnh vực sản xuất với lĩnh vực nghiên cứu, phát minh khoa học, thiết kế Những hoạt động trước đây được coi là “bên người sản xuất” “phục vụ “ sản xuất như cung ứng, tiêu thụ, hoạt động tài chính giao thông bưu điện, cũng trở thành những yấu tố, những mắt khâu quan trọng của bản thân nền sản xuất. Dường như khi quản lý điều hành quá trình sản xuất, người ta cũng đồng thời điều hành quản lý toàn bộ mọi hoạt động của xã hội.
Một sự điều chỉnh về Quan hệ sản xuất nữa mà CNTB đã thực hiện để có thể thích ứng với trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất là sự điều chỉnh về quan hệ phân phối.
Cần chỉ ra rằng CNTB sở dĩ có thể thực hiện được sự điều chỉnh này là nhờ sự phát triển của Lực lượng sản xuất, đã tạo ra một năng suất lao động xã hội cao, Mặt khác chính nhờ sự điều chỉnh qquan hệ phân phối CNTB có thể ràng buộc chặt chẽ hơn nữa người công nhân cũng như mọi thành viên khác của xã hội, qua đó có thể ổn định được chế độ TBCN, đồng thời vẫn thu được lợi nhuận siêu ngạch ngày mmột nhiều hơn.
Như vậy giới hạn trong phạm vi mối quan hệ biện chứng giữa Quan hệ sản xuất và Lực lượng sản xuất bởi chês độ TBCN với những điều chỉnh của CNTB trong tất cả các yếu tố cấu thành của Quan hệ sản xuất để có thể thích ứng với trình độ của Lực lượng sản xuất, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển hơn nữa. Những điều chỉnh này về Quan hệ sản xuất là những thay đổi trong đội ngũ giai cấp công nhân, chính những điều kiện khách quan này CNTB có thể tồn tại và phát triển.
Chương II
Qui luật Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất với công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt nam.
Trong công cuộc đổi mới đất nước đẩy mạnh phát triển sản xuất, cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất nhất thiết phải gắn liền với việc nhận thức và vận dụng qui luật Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất.
2.1.1 Nhìn lại những sai lầm về qui luật Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất trước đại hội VI.
Qui luật Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất thì Lực lượng sản xuất phát triển thuận lợi, đồng thời kéo theo Quan hệ sản xuất cũng phát triển, người có vai trò trong việc tác động đối với Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất, nhưng con người không thể tự do sáng tạo, định hướng bất cứ hình thức nào của Quan hệ sản xuất mà mình muốn vì rằng cái tất yếu phát triển của Quan hệ sản xuất lluôn luôn bị qui định bởi trạng thái của Lực lượng sản xuất .
Do nhận thức chưa đúng đắn về mối quan hệ biện chứng giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất trong công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dưng quan hệ sản xuất mới chúng ta đã ra sức vận động gần như cững bức nông dân đi vào hợp tác xã, mở rộng phát triển qui mô nông trường quốc doanh, các nhà máy xí nghiệp lớn mà không tính đến trình độ Lực lượng sản xuất đang còn thời kỳ quá thấp kém chúng ta đã tạo ra những qui mô lớn và ngộ nhận là đã có “Quan hệ sản xuất XHCN” và còn nói rằng: mỗi bước cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới đều thúc đẩy sự ra đời và lớn mạnh của Lực lượng sản xuất mới. Quan hệ sản xuất XHCN có khả năng “ vượt trước” “mở đường “ cho sự phát triển của Lực lượng sản xuất. Thực tế nhiều năm qua đã chứng minh quan điểm đó là sai lầm. Sai lầm chủ yếu không phải chỗ chúng ta duy trì Quan hệ sản xuất lạc hậu so với sự phát triển của Lực lượng sản xuất như người ta thường nói mà chủ yếu có những mặt của Quan hệ sản xuất bị thúc đẩy lên quá cao, quá xa một cách giả tạo làm cho nó tách rời với trình độ thấp kém của Lực lượng sản xuất. Bởi vậy, nhận định trong đại hội lần thứ 6 là có căn cứ đã làm phong phú thêm lý luận biện chứng giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất “Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp Quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi Quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất”.
Để chứng minh cho “quan niệm sản xuất đi trước” hoặc nói theo chách thời bấy giờ là để giải quyết mâu thuẫn giữa Quan hệ sản xuất tiên tiến với Lực lượng sản xuất lạc hậu chúng ta đã ra sức xây dựng Lực lượng sản xuất một cách khẩn trương bằng cachs đưa khá nhiều máy móc vào các cơ sở sản xuất nông nghiệp mới hình thành còn non yếu, què quặt nhằm xây dựng mô hình lâu dài công-nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện mà không tính đến khả năng quản lý trình độ, tổ chức sử dụng của nông dân.
Thực trạng kinh tế ở nước ta với nền nông nghiệp lạc hậu thì tính tất yếu phải cải tạo xã hội chủ nghĩa phát triển công nghiệp quốc doanh, công nghiệp nặng chỉ nên coi như mục đích lâu dài phải tiến tới chứ không coi như một taats yếu trực tiếp phải cải tạo ngay. Song chúng ta đã bất chấp thực tế khách quan mà chỉ vin vào vai trò tích cực của nhân tố chính trị tưởng rằng nhà nước chuyên chính vô sản, bằng những đường lối chính sách và những hoạt động tích cực có thể tìm cách giải quyết tốt nhất trong sản xuất và đời sống xã hội có khả năng chủ động tạo ra Quan hệ sản xuất mới mở đường cho Lực lượng sản xuất phát triển. Nhưng thực tế chúng ta đã không thể rút ngắn được “những cơn đau của thời kỳ sinh đẻ” Nỗi đau đó cứ kéo dài. Dẫu sao cũng “ không thể nhảy qua các giai đoạn phát triển tự nhiên hay dùng sắc lệnh để xoá bỏ những giai đoạn đó”.
Quan điểm về quan hệ sản xuất đi trước là không đúng và nói đến Quan hệ sản xuất XHCN là nhấn mạnh việc xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và cơ chế thực hiện chế độ đó là phiến diện. Đành rằng yếu tố này cơ bản nhưng không thể xem xét nhẹ quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Phải thấy rằng quan hệ sở hữu đượec thể hiện trong tất cả các lĩnh vực sản xuất trao đổi phân phối và tiêu dùng của người lao động. Ngay cả việc xoá bỏ chế độ tư hữu, thiết lập công hữu về tư liệu sản xuất không phải chỉ thời gian ngắn là xong. Nhưng dẫu có làm được thì cũng không phải là mục tiêu trước mắt của nước ta khi mà chế độ công hữu này chưa thể phù hợp với Lực lượng sản xuất hiện có. Hơn nữa những thành phần kinh tế khác có khả năng góp phần làm cho sản xuất phát triển. Một trong những sai lầm cơ bản mà chúng ta đã vấp phải là xoá bỏ quá sớm Quan hệ sản xuất TBCN, khi nền kinh tế XHCN của chúng ta chư còn đủ sức thay thế. Điều đó ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của Lực lượng sản xuất và đã làm mất một khả năng tạo ra sản phẩm dồi dào cho xã hội. Cũng vậy, chúng ta xoá sạch tiểu thương khi hệ thống thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán của ta chưa làm nổi vai trò “người nội trợ cho xã hội” gây ra nhiều khó khăn ách tắc cho lưu thông hàng hoá và không đáp ứng nhu cầu thiết yếu cho nhân dân.
2.1.2. Đường lối phát triển Quan hệ sản xuất và Lực lượng sản xuất theo định hướng XHCN.
Qua quá trình lãnh đạo xây dựng đất nước đi lên CNXH Đảng ta đã rút ra những kinh nghiệm bổ ích và xác định rằng: một trong những nguyên nhân làm cho sản xuất chậm phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn là “không nắm vững Quan hệ sản xuất phù hợp voí tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất”. Từ đó Đảng đã rút ra cốt lõi để đẩy mạnh việc vận dụng qui luật bằng cách nêu vấn đề gắn liền với cách mạng quan hệ sản xuất với cách mạng khoa học-kỹ thuật, chú trọng việc tổ chức lại nề sản xuất xã hội để xác định những hình thức và bước đi thích hợp.
Đảng nhận thức rằng: sự phù hợp giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất không bao giờ là sự phù hợp tuyệt đối, không có mâu thuẫn, không thay đổi. Sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với Lực lượng sản xuất không bao giờ là sự phù hợp chung mà bao giờ cũng tồn tại dưới những hình thức cụ thể, thích ứng với những đặc điểm nhất định với trình độ nào đó của Lực lượng sản xuất. Trong thời kì quá độ đi lên CNXH, nền kinh tế không còn là nền kinh tế tư bản, nhưng cũng chưa hoàn toàn là nền kinh tế XHCN. Bởi vậy công cuộc cải tạo XHCN phải chú ý đến đặc điểm của sự tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần. Trong cải tạo Quan hệ sản xuất cũ và xây dựng Quan hệ sản xuất mới, Đại hội VI đã nhấn mạnh là phải giải quyết đồng bộ ba mặt, xây dựng chế độ sử hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối, không chỉ nhấn mạnh việc xây dựng chế độ sở hữu mà bỏ qua việc xây dựng hai chế độ kia. Không nên quá đề cao chế độ công hữu, coi đó là cái duy nhất để xây dựng Quan hệ sản xuất mới. Thực tế chỉ rõ, nếu chế độ quản lý và phân phối không được xác lập theo những nguyên tắc của CNXH và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất nhằm củng cố chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mà còn cản trở Lực lượng sản xuất phát triển.
Đối với chế độ quản lý, chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất có những qui định gì ? Trước tiên, nó qui định tính chất mục tiêu, phương pháp của quản lý đó là quyền làm chủ của nhân dân lao động đối với việc tổ chức quản lý nền kinh tế. Làm sao cho mọi người lao động trong xã hội cũng làm chủ tư liệu sản xuất có quyền bình đẳng, hợp tác trong lao động sản xuất và trong lợi ích kinh tế. Thứ hai là, cơ chế quản lý kinh tế dựa trên chế độ công hữu là phải có tính kế hoạch tính tậph trung thống nhất. Văn kiện Đại hội VI cũng đã khẳng định điều này: tính kế hoạch là đặc trung số một của cơ chế quản lý kinh tế ngay từ buổi đầu của thời kì quá độ.
Trong công cuộc đổi mới đất nước phải tuân thủ qui luật về sự phù hợp giữa Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất hiện có để xác định bước đi và những hình thức thích hợp. Qui luật đó luôn được coi là tư tưởng chỉ đạo công cuộc cải tạo Quan hệ sản xuất cũ, xây dựng Quan hệ sản xuất mới trên những điều kiện phát triển của Lực lượng sản xuất. Đại hội VI chỉ rõ “đảm bảo sự phù hợp giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất luôn luôn kết hợp chặt chẽ tạo Quan hệ sản xuất với tổ chức và phát triển sản xuất”, không nên nóng vội duy ý chí trong việc xác định trật tự bước đi cũng như việc lựa chọn các hình thức kinh tế cần phải cải tạo nề sản xuất nhỏ, các thể để đưa nền sản xuất từng bước tiến lên sản xuất lớn. Trên cơ sở sản xuất nhỏ xây dựng những hình thức của Quan hệ sản xuất phù hợp, từng bước và đồng bộ. Rà soát lại quá trình cải tạo XHCN trong thời gian qua Đảng ta đã đưa ra kết luận: “Theo qui luật về sự phù hợp giữa Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất, qúa trình cải tạo XHCN phải có bước đi và hình thức thích hợp,phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ qui mô nhỏ đến qui mô lớn, trong mỗi bước đi của quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa, phải đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật tạo ra lực lượng sản xuất mới trên cơ sở đó tiếp tục đưa Quan hệ sản xuất lên hình thức và qui mô thích hợp để thúc đẩy Lực lượng sản xuất phát triển”.
Tóm lại việc xây dựng và hoàn thiện Quan hệ sản xuất XHCN nhất thiết phải đảm bảo sự thích ứng đồng bộ giữa ba yếu tố của Quan hệ sản xuất cũng như mối liên hệ biện chứng giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất.
2.2. Phát triển Lực lượng sản xuất và xây dựng Quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN.
Nền văn minh nhân loại suy cho cùng là do sự phát triển đúng hướng của Lực lượng sản xuất quyết định. Do vậy trong quá trình xây dựng CNXH, việc phát triển Lực lượng sản xuất xây dựng quan hệ sản xuất mới là nhiệm vụ cần thiết khách quan.
2.2.1. Thực trạng nguồn lực của Lực lượng sản xuất nước ta hiện nay.
Chúng ta tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước trong điều kiện nền kinh tế còn mang nặng tính chất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn chiếm tỉ trọng nhỏ, tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người thua quá xa so với các nước trong khu vực.
Theo số liệu thống kê ở Việt Nam lao động hoạt động chiếm gần 45% dân số, trong đó lao động nông nghiệp chiếm 75%, công nghiệp chiếm 11% còn lại là ở trong các hoạt động dịch vụ khác.
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đén năm 2000 đã đưa ra các thông tin dự báo và nguồn lực lao động : “bước vào thập kỉ 90 nước ta có 66 triệu dân với 33 triệu người trong độ tuổi lao động. Đến năm 2000 có khoảng 80 triệu dân với hơn 40 triệu lao động, tình hình giáo dục cũng có những biểu hiện đáng ngại, học sinh bỏ học hàng năm có xu hướng tăng lên, chất lượng giáo dụng không đảm bảo. Nếu như giáo dục đại học một số nước đông Nam á đạt tỉ lệ 60-80 sinh viên / 10000 dân thì nước ta tỉ lệ đó chỉ có 22 sinh viên /10000 dân.
2.2.2. Một số giải pháp phát triển Lực lượng sản xuất.
Nước ta một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện tiền vốn ít,khả năng khoa học còn hạn chế và còn nhiều yếu tố khác qui định thì chưa thể đổi mới ngay Lực lượng sản xuất cũ bằng một Lực lượng sản xuất tiên tiến, dođó những yếu tố Lực lượng sản xuất truyền thống vẫn cần phải được duy trì và khai thác.Trong hoàn cảnh hiện nay Lực lượng sản xuất bổ sung quan trọng đối với giai đoạn chuyển tiếp của Lực lượng sản xuất. Đi lên sản xuất lớn XHCN đòi hỏi tất yếu phải hiện đại hoá Lực lượng sản xuất. Cần phải sàng lọc trong Lực lượng sản xuất truyền thống những yếu tố nào có giá trị để bổ sung cho việc xây dựng Lực lượng sản xuất hiện đại cần phải kết hợp các yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại,bảo đảm tính phủ định có kế thừa,tiếp thu có chọn lọc cho phép tạo nên một sự phát triển ổn định,bìng thường của Lực lượng sản xuất tránh được sự “gãy gục” trong tiến trình phát triển nó.
Những tiến bộ to lớn của cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật ngày nay cho phép nước
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 60725.doc