Theo khoản 2 Điều 86 BLTTHS 2003 quy định “những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2, Điều 81 của bộ luật này. Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra lệnh tạm giữ”. Việc điều luật quy đinh bổ sung thêm thẩm quyền ra lệnh tạm giữ cho Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển. Điều này là hoàn toàn hợp lý. Xuất phát từ đặc thù công việc và địa bàn hoạt động vì thế lực lượng cảnh sát biển trong một số trường hợp được giao thẩm quyền điều tra thì Thủ trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra lệnh tạm giữ. Tuy nhiên, hiện tại pháp luật chưa có quy định cụ thể về việc Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có thẩm quyền quyết định tạm giữ trong những trường hợp nào? Với những đối tượng nào? Chính vì vậy, về lý luận cũng như trong thực tế áp dụng còn vướng mắc, cần sự quy định rõ ràng
17 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3272 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tạm giữ trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
như: quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú và đi lại... thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN.
Từ mục đích trên, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn không thể áp dụng tràn lan, tuỳ tiện mà khi áp dụng phải tuân theo những căn cứ nhất định và khi cần thiết mới áp dụng để ngăn chặn tội phạm hoặc có dấu hiệu của tội phạm bỏ trốn, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hay tội phạm sẽ tiếp tục phạm tội, nhằm đảm bảo cho việc thi hành án.
II/ TẠM GIỮ TRONG LUẬT TTHS VIỆT NAM
1. Khái niệm tạm giữ
Theo Điều 86 BLTTHS năm 2003 thì: “Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong TTHS do cơ quan và những người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo lệnh truy nã.”
2. Mục đích và ý nghĩa của tạm giữ
2.1. Mục đích của tạm giữ
Mục đích của tạm giữ đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú là để ngăn chặn hành vi phạm tội, hành vi trốn pháp tránh pháp luật, cản trở hoạt động điều tra của người phạm tội, tạo điều kiện cho Cơ quan điều tra thu thập chứng cứ tài liệu, bước đầu xác định tính chất hành vi của người bị tạm giữ. Tạm giữ đối với người bị bắt theo lệnh truy nã để có thời gian cho cơ quan đã ra quyết định truy nã đến nhận người bị bắt.
2.2. Ý nghĩa của tạm giữ
Biện pháp tạm giữ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình điều tra và xử lý tội phạm. Góp phần vào việc đảm bảo thực hiện tính dân chủ công bằng văn minh, giúp cho việc điều tra xét xử được một cách nhanh chóng. Nếu không có các quy định pháp luật về tạm giữ thì quyền dân chủ của công dân khó có thể đảm bảo thực hiện được một cách triệt để. Việc thực hiện theo đúng thẩm quyền, quyền hạn, thủ tục tạm giữ đúng người, đúng tội, đúng thời hạn sẽ làm hạn chế và tránh được sự vi phạm đến quyền công dân và vi phạm dân chủ XHCN.
3. Đối tượng của tạm giữ
Khoản 1 Điều 86 BLTTHS năm 2003 quy định: "Tạm giữ có thể được pháp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã". Như vậy, theo quy định của luật TTHS thì đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo lệnh truy nã. Nhìn chung đối tượng bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, trong hầu hết các trường hợp khi quyết định bắt khẩn cấp, Cơ quan điều tra đã xác định cần phải ngăn chặn việc người đó bỏ trốn hoặc cản trở điều tra, tuy nhiên điều luật không quy định bắt buộc trong tất cả mọi trường hợp bắt đó đều phải tạm giữ; mà trong một số trường hợp bắt người phạm tội quả tang, nếu xét thấy hành vi phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng lại có nơi cư trú rõ ràng, không có cơ sở để cho rằng người đó trốn hoặc cản trở việc điều tra, trong các trường hợp đó không cần thiết phải tạm giữ họ.
Đối với người bị bắt theo lệnh truy nã, ngay sau khi thấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo cho cơ quan đã ra lệnh truy nã để cơ quan này đến nhận người bị bắt. Việc tạm giữ đối với người này chỉ đặt ra khi xét thấy cơ quan đã ra lệnh truy nã không thể đến ngay để nhận người bị bắt.
Nhận thấy rằng, biện pháp tạm giữ có thể được áp dụng với các đối tượng bị bắt khẩn cấp, bắt quả tang, bắt truy nã, người đầu thú, tự thú chứ không bắt buộc, nói cách khác, sau khi bị bắt trong các trường hợp nêu trên, người bị bắt có thể bị tạm giữ hoặc không bị tạm giữ. Theo quy định tại khoản 1 Điều 83 của BLTTHS 2003 thì "sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, hoặc phạm tội quả tang, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt". Như vậy biện pháp tạm giữ là một biện pháp độc lập, việc áp dụng biện pháp này phải có căn cứ nhất định chứ không phụ thuộc vào biện pháp bắt, nói cách khác, biện pháp tạm giữ không phải là biện pháp ngăn chặn bắt buộc phải áp dụng sau khi bắt người. Vấn đề đặt ra là khi nào cơ quan có thẩm quyền có thể ra quyết định tạm giữ? Còn khi nào không cần thiết tạm giữ? Do vậy nên chăng cần quán triệt mục đích của tạm giữ trong TTHS. Mặc dù trong BLTTHS 2003 không quy định rõ mục đích của việc tạm giữ nhưng qua các điều luật về tạm giữ cho thấy việc tạm giữ người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người tự thú, đầu thú là nhằm có điều kiện để tiếp tục xác minh thêm về hành vi phạm tội của người bị bắt, người ra tự thú, đầu thú để làm rõ thêm căn cứ của việc khởi tố vụ án cũng như khởi tố bị can đối với người họ. Tinh thần này cũng đã được thể hiện qua các quy phạm tại các Điều 83, 87 của BLTTHS 2003. Khoản 3 Điều 87 quy định: “ Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ”. Như vậy sau khi bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, hoặc khi người phạm tội ra đầu thú, tự thú thì họ không thể không bị tạm giữ trong các trường hợp sau đây:
+) Các cơ quan có thẩm quyền xác định được ngay việc bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang đối với họ là không có căn cứ.
+) Ngay sau khi bắt người khẩn cấp hoặc bắt người phạm tội quả tang, ngay sau khi có người ra tự thú, đầu thú các cơ quan có thẩm quyền đã xác định được đầy đủ căn cứ để có thể khởi tố đối với người bị bắt, người tự thú, đầu thú nên đã ra các quyết định khởi tố cần thiết và cũng đã xác định được ngay căn cứ để có thể tạm giam đối với họ nên đã ra lệnh tạm giam với bị can mà không cần tạm giữ. Hoặc ngay sau khi bắt khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, ngay sau khi có người ra tự thú, đầu thú đã xác định đầy đủ căn cứ để khởi tố vụ án và khởi tố bị can nên cơ quan có thẩm quyền không ra quyết định tạm giữ, rồi sau khi đã ra quyết định khởi tố cần thiết nhưng xét thấy không cần thiết phải tạm giam bị can nên cơ quan điều có thẩm quyền để cho bị được tại ngoại mà không cần thiết phải tạm giam bị can.
Ngoài các trường hợp nêu trên, nếu sau khi bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang, cơ quan có thẩm quyền đã gửi lệnh bắt cho VKS để VKS kiểm sát việc bắt và VKS đã không phê chuẩn việc đó thì cũng không được đưa ra quyết định tạm giữ đối với người bị bắt. Một vấn đề đặt ra về đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giữ, đó là những trường hợp một người đang bị truy nã, bị bắt lại nhưng địa điểm bắt ở xa nơi cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền giải quyết vụ này. Trong thời gian thông báo cho cơ quan có thẩm quyền đến để nhận lại bi can, bị cáo mà họ truy nã thì cơ quan đã bắt được bị can, bị cáo có quyền ra quyết định tạm giữ hay tạm giam hay không? Về nguyên tắc thì không một ai có thể bị bắt, giữ mà không có quyết định các cơ quan có thẩm quyền. Theo hướng dẫn của Thông tư số 03 ngày 7/1/1995 giữa Tòa án nhân dân tối cao – VKSNDTC – Bộ nội vụ (nay là Bộ công an) có điều chỉnh như sau:
Theo quyết định tại điều 64, 65 BLTTHS 1988 thì cơ quan công an, VKS hoặc UBND bắt được hoặc nhận được người bị truy nã thì phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt tới cơ quan điều tra có thẩm quyền ở địa bàn đó. Sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết và giải ngay người đó đến trại tạm giam nơi gần nhất. Ngay sau khi nhận được thông báo về việc đã bắt được người bị truy nã, Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã phải báo cho VKS hoặc Tòa án đã có yêu cầu truy nã biết. VKS hoặc Tòa án đã có trách nhiệm thực hiện theo đúng hướng dẫn tại điểm 1 hoặc điểm 2 của Thông tư này. Trong trường hợp trước ngày hết thời hạn tạm giữ (tối đa là 9 ngày) mà trại tạm giam vẫn không nhận được quyết định tam giam của VKS hoặc của Tòa án đã có yêu cầu truy nã đối với người bị bắt thì trại tạm giam cần báo ngay cho cơ quan điều tra nơi đã bắt được người bị truy nã. Ngay sau khi nhận được thông báo của trại tạm giam, Cơ quan điều tra nơi đã bắt được người bị truy nã có trách nhiệm yêu cầu cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã đến nhận ngay người bị bắt hoặc tự mình áp giải người bị bắt đến cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã.
Theo tinh thần của Thông tư số 03 nói trên thị việc tạm giữ có thể áp dụng đối người bị bắt truy nã, tức là người có áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị thi hành án mà trốn tránh, nói cách khác, đối tượng có thể áp dụng biện pháp tạm giữ không chỉ là những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang mà có thể áp dụng cả đối với người bị bắt theo lệnh truy nã. Tất nhiên trong trường hợp này thì mục đích của biện pháp tạm giữ là nhằm tạo điều kiện về thời gian để cơ quan nơi đã ra lệnh truy nã đến nhận lại người bị bắt theo lệnh hoặc theo yêu cầu truy nã của họ. Rõ ràng việc tạm giữ người trong trường hợp này là cần thiết và vấn đề này đã được bổ sung vào trong quy định của BLTTHS 2003. Điều 86 Bộ luật TTHS năm 2003 cũng không quy định cụ thể các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, mà căn cứ để tạm giữ được hiểu là nếu việc bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang khi có đủ căn cứ quy định tại Điều 81 và Điều 82 Bộ luật TTHS năm 2003 thì đó cũng chính là căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giữ.
4. Thẩm quyền ra quyết định tạm giữ:
Theo khoản 2 Điều 86 và khoản 2 Điều 81 BLTTHS 2003: Những người sau có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ theo thủ tục TTHS bao gồm: Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp; người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; người chỉ huy tàu bay tàu biển khi tàu bay, tàu biển rời khỏi sân bay bến cảng; chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển.
Như vậy theo quy định BLTTHS 2003 thì Cơ quan điều tra cấp huyện trở lên có quyền ra quyết định tạm giữ. Chính quyền và công an cấp xã, phường, thị trấn không có quyền tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự. Thực hiện quyết định này, khi nhận người bị bắt trong từng trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì UBND phường, xã, thị trấn phải tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, biên bản bắt người đang bị truy nã và giải quyết ngay tới cơ quan thẩm quyền.
Như vậy, những người có quyền ra quyết định tạm giữ không hoàn toàn là những người đại diện của các cơ quan tiến hành tố tụng mà bao gồm cả những người của các cơ quan Nhà nước khác hoặc trong lực lượng vũ trang.
5. Thủ tục tạm giữ:
Tạm giữ là biện pháp cưỡng chế trong TTHS, nó đụng chạm đến quyền tự do danh dự của công dân, quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Ngoài ra còn ảnh hưởng đến tâm tư tình cảm gia đình, bạn bè, đồng nghiệp khu phố hàng xóm nơi họ sinh sống làm việc. Vì vậy, cơ quan có thẩm quyền phải thận trọng trước khi quyết định áp dụng hình thức tạm giữ và phải tuân thủ nghiêm những quy định của pháp luật về thủ tục tạm giữ.
Bộ luật TTHS quy định muốn tạm giữ người phải có quyết định của người có thẩm quyền. Quyết định này không đòi hỏi phải có sự phê chuẩn của VKS trước khi thi hành. Lệnh tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, thời hạn tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và giao cho người bị tạm giữ một bản. Nếu việc tạm giữ không có lệnh của người có thẩm quyền, người bị tạm giữ có quyền yêu cầu trả tự do cho họ.
Khoản 3 Điều 86 BLTTHS 2003 có quy định: "Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ". Mọi thủ tục về tạm giữ phải đảm bảo các yêu cầu về pháp lý như đã nêu ở trên.
VKS có thẩm quyền ra quyết định huỷ bỏ lệnh tạm giữ trong những trường hợp sau đây:
+ Người bị tạm giữ không phải là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã và không phải là người phạm tội tự thú, đầu thú.
+ Người bị tạm giữ chỉ có những vi phạm nhỏ, tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự;
+ Người bị tạm giữ trong trường hợp phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị tạm giữ có nới cư trú rõ ràng và không có biểu hiện sẽ trốn hoặc cản trở việc điều tra.
6. Thời hạn tạm giữ:
Theo Điều 87 BLTTHS 2003, thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể ra hạn tạm giữ nhưng không được quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng cũng không được quá ba ngày. Thông thường đây là trường hợp đối với vụ án xâm phạm an ninh quốc gia và một số vụ án hình sự khác có nhiều tình tiết phức tạp cần xác minh. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ phải được VKS cùng cấp phê chuẩn. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người đã bị tạm giữ. Thời hạn tạm giữ được tính vào thời hạn tạm giam.
Thời hạn tạm giữ dù ngắn nhưng lại hạn chế quyền tự do thân thể, tư do đi lại của công dân nên thời hạn tạm giữ được tính trừ vào thời hạn tạm giam theo nguyên tắc một ngày tạm giữ bằng một ngày tạm giam. Trường hợp người bị tạm giữ sau đó không bị tạm giam thì khi toà quyết định hình phạt từ đối với bị cáo, thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn phải chấp hành hình phạt tù theo nguyên tắc một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tù.
Theo các quy định nêu trên, cách tính thời hạn trong TTHS đã quy định khi tính thời hạn theo ngày tháng thì thời hạn sẽ hết vào lúc 24 giờ, do vậy trong cách tính thời hạn tạm giữ, thời điểm ra lệnh tạm giữ chỉ có ý nghĩa để tính ngày bị tạm giữ chứ không có ý nghĩa tính giờ bị tạm giữ, nói cách khác mặc dù các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ vào lúc mấy giờ nhưng thời hạn tạm giữ chỉ hết vào lúc 24 giờ của ngày hết hạn. Việc quy định hai lần có thể gia hạn tạm giữ nhằm bảo đảm tính có căn cứ và cần thiết của việc tạm giữ, hạn chế hiện tượng tạm giữ tràn làn, góp phần bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, do vậy đòi hỏi người áp dụng pháp luật phải nhận thức rõ vấn đề này để bảo đảm áp dụng pháp luật được tốt.
Trong quy định cũng như nhận thức về thời hạn tạm giữ cũng phát sinh một số vấn đề đòi hỏi cần có nhận thức thống nhất. Một số vấn đề cần giải thích kịp thời:
Thứ nhất: Theo quy định của Điều 87 BLTTHS 2003, thời hạn tạm giữ được tính từ thời điểm cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Về khái niệm chúng ta thấy rằng, trong bộ luật chỉ dùng khái niệm Cơ quan điều tra để chỉ các cơ quan điều tra sau: Cơ quan điều tra của lực lượng cảnh sát, Cơ quan điều tra của lực lượng công an nhân dân, Cơ quan điều tra trong Quân đội và Cơ quan điều tra của VKS. Nếu thời hạn tạm giữ chỉ được tính từ khi “cơ quan điều tra” nhận người bị bắt thì sẽ phát sinh hiện tượng có những cơ quan và người có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ (như chỉ huy đơn vi quân đội độc lập cấp trung đoàn, người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới, người chỉ huy máy bay, tàu bay trên biển khi máy bay tàu biển đã rời khỏi sân bay bến cảng) nhưng quyết định tạm giữ của những cơ quan và những người đó lại không được tính thời hạn, quyết định tạm giữ của họ chỉ bắt đầu khi họ được giao người bị bắt và và bị tạm giữ đó cho “Cơ quan điều tra” có thẩm quyền. Như vậy ở đây phát sinh hiện tượng có cơ quan ra quyết định tạm giữ, có người bị tạm giữ nhưng quyết định tạm giữ của họ không được pháp luật điều chỉnh về mặt thời hạn. Quy định như vậy rõ ràng mới chỉ điều chỉnh thời hạn tạm giữ của một trong bốn nhóm người có thẩm quyền ra quyểt định tạm giữ chứ chưa bao quát hết cả bốn nhóm người ra quyết định tạm giữ.
Thứ hai: Khoản 4 Điều 87 BLTTHS 2003 quy định “Thời gian tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam.” Quy định này có mục đích nhân đạo, do vậy cho phép nếu sau đó người bị tạm giữ bị khởi tố bị can và họ tạm giam thì được trừ đi thời hạn họ đã bị tạm giữ vào thời hạn tam giam. Tuy nhiên sau này, nếu như người phạm tội bị Tòa án kết án tù có thời hạn thì pháp luật Việt Nam vẫn cho phép trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam vào thời hạn họ phải chấp hành hình phạt tù. Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù”. Đây là quy định mới rõ ràng hơn của so với Bộ luật hình sự năm 1985. Do vậy việc áp dụng luật cần được quán triệt để áp dụng đúng luật.
III/ NHỮNG BẤT CẬP VÀ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TẠM GIỮ
Những bất cập trong các quy định của pháp luật về biện pháp tạm giữ:
Thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về tạm giữ còn nhiều bất cập một phần do thiếu sự nghiên cứu pháp luật, nhận thức còn hạn chế hoặc do sự cẩu thả dẫn đến thiếu tinh thần trách nhiệm hoặc lạm dụng chức quyền, hoặc vì thù riêng trong khi áp dụng các quy định về tạm giữ. Bên cạnh đó, công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại các nơi tạm giữ ở nhiều địa phương không được tiến hành một cách thường xuyên và đều khắp, vì vậy mà các vi phạm chưa được khắc phục kịp thời, cho nên VKS chưa phát huy hết vai trò của mình trong công tác tạm giữ. Việc theo dõi, quản lý người bị tạm giữ không được tiến hành thường xuyên dẫn đến tình trạng bỏ trốn, chết do đánh nhau...
Ngoài những nguyên nhân trên thì những tồn tại trong quy định của pháp luật về tạm giữ cũng làm cho việc thi hành các quy định này trở nên kém hiệu quả. Mặc dù BLTTHS 2003 đã có sửa đổi bổ sung rất nhiều trong các quy định về tạm giữ so với BLTTHS 1988 nhưng những quy này vẫn chưa thực sự chặt chẽ khiến cho thực tiễn áp dụng các quy định về biện pháp tạm giữ vẫn còn nhiều bất cập, không hợp lý, gây không ít khó khăn cho những hoạt động áp dụng các quy định trên. Đó là những quy định:
a. Về đối tượng của biện pháp tạm giữ:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003 thì tạm giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú. Mà như chúng ta đã biết, người phạm tội tự thú, đầu thú không phải là người phạm tội vì bị bắt mà họ tự nguyện trình diện khai báo hành vi phạm tội. Họ không phải là người bị bắt. Chính vì vậy, việc khoản 1 Điều 86 quy định “Tạm giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc người bị bắt theo quyết định truy nã”. Vô hình chung đã coi người phạm tội tự thú, đầu thú là người bị bắt, điều này là không hợp lý.
b. Về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ:
Theo khoản 2 Điều 86 BLTTHS 2003 quy định “những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2, Điều 81 của bộ luật này. Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra lệnh tạm giữ”. Việc điều luật quy đinh bổ sung thêm thẩm quyền ra lệnh tạm giữ cho Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển. Điều này là hoàn toàn hợp lý. Xuất phát từ đặc thù công việc và địa bàn hoạt động vì thế lực lượng cảnh sát biển trong một số trường hợp được giao thẩm quyền điều tra thì Thủ trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra lệnh tạm giữ. Tuy nhiên, hiện tại pháp luật chưa có quy định cụ thể về việc Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có thẩm quyền quyết định tạm giữ trong những trường hợp nào? Với những đối tượng nào? Chính vì vậy, về lý luận cũng như trong thực tế áp dụng còn vướng mắc, cần sự quy định rõ ràng.
c. Về thời hạn tạm giữ
Theo khoản 1 Điều 87 BLTTHS 2003 quy định “ thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt”.
Để đạt được mục tiêu của tạm giữ, thời điểm tính thời hạn tạm giữ không phải là thời điểm bắt người. Mặt khác, để hạn chế việc giữ người trái pháp luật thì thời điểm tính thời hạn tạm giữ cũng không được tính từ khi ra lệnh tạm giữ mà được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng thì việc quy định như trên vẫn còn nhiều vướng mắc:
Thứ nhất: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS 2003 thì thời hạn tạm giữ được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Mà theo quy định tại khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003 thì tạm giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú. Và như chúng ta đã biết người phạm tội tự thú đầu thú không phải là người bị bắt mà họ tự nguyện trình diện, khai báo hành vi phạm tội. Họ không phải là người bị bắt. Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là: thời hạn tạm giữ đối với họ được tính từ thời điểm nào? Điều này chưa được pháp luật quy định.
Thứ hai: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS 2003 thì thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày kể từ ngày cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Điều này có nghĩa là thời điểm tạm giữ được tính từ ngày cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Mà theo quy định tại điểm c Điều 81 thì: Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng mới có quyền ra lệnh bắt trong trường hợp khần cấp, và có quyền ra quyết định tạm giữ theo khoản 2 Điều 86 BLTTHS 2003. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là: Trong trường hợp tàu bay thì có thể kịp thời hạn để giao hạn để giao người bị tạm giữ cho cơ quan điều tra, nhưng trong một số trường hợp tàu biển thì khó có thể về kịp thời hạn để giao người bị tạm giữ cho cơ quan điều tra. Vậy trong trường hợp này thời hạn tạm giữ sẽ được tính như thế nào? Điều này chưa được luật quy định.
d. Về việc gia hạn tạm giữ và trả tự do cho người bị tạm giữ:
Theo khoản 2 Điều 87 BLTTHS 2003 quy định: “ trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không được quá 3 ngày; trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần hai nhưng không được quá 3 ngày…”
Quy định này sẽ giúp cho người hoạt động điều tra có hiệu quả hơn. Tuy nhiên luật cần nêu rõ: Trong trường hợp cần thiết đề ra quyết định tạm giữ là những trường hợp nào? Mức độ cụ thể ra sao? Khái niệm “ngày” nên hiểu như thế nào? Do luật chưa có quy định rõ điều này nên trong thực tiễn áp dụng có thể dẫn tới sự áp dụng không thống nhất quy định này trong việc gia hạn tạm giữ.
Theo khoản 3 Điều 87 BLTTHS 2003 quy định: “ trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ.”
Việc luật quy định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ nếu không có đủ căn cứ khởi tố bị can là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên luật lại không quy định về thẩm quyền trả tự do và thủ tục trả tự do cho người bị tạm giữ. Do đó đặt ra câu hỏi là: trong trường hợp người phải trả tự do cho người bị tạm giam thì ai có thẩm quyền trả tự do cho họ? Phải chăng là những người có thẩm quyền ra lệnh bắt tạm giữ theo khoản 2 Điều 86 thì cũng là người có thẩm quyền ra lệnh trả tự do cho người tạm giữ hay là một chủ thể khác. Và thủ tục trả tự do luật cần có quy định rõ.
Đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật về biện pháp tạm giữ:
Đầu tiên và quan trọng nhất là đối với những người làm công tác lập pháp và đội ngũ các cán bộ, những người có thẩm quyền trong việc tạm giữ. Họ là những người liên quan trực tiếp đến việc tạm giữ cũng như liên quan đến quyền lợi của những người bị tạm giữ. Chính vì thế mà yêu cầu đầu tiên cần đặt ra đối với họ là cần phải trau dồi đạo đức nghề nghiệp, có kiến thức và trình độ hiểu biết tốt về lĩnh vực tạm giữ.
Còn đối với các chế định quy định về việc tạm giữ trong pháp luật TTHS cũng cần phải được sử đổi và bổ sung, tiếp tục hoàn thiện hơn nữa, cụ thể:
+ Hoàn thiện các quy định về thời hạn tạm giữ, đối tượng áp dụng biện pháp này, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vụ án hình sự. Cần giải thích rõ khái niệm "ngày" để tạo nên sự thống nhất giữa các điều luật.. Nếu sửa đổi cụm từ “3 ngày” trong khoản 1 Điều 87 BLTTHS 2003 thành “72 giờ” để hợp lý hơn hoặc cần giải thích rõ ràng khái niệm “ngày” để có sự áp dụng thống nhất.
+ Đối với trường hợp người có thẩm quyền ra lệnh tạm giữ là: người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng mà khi tàu bay, tàu biển không thể về giao nộp người bị bắt cho cơ quan điều tra đúng thời hạn như pháp luật đã định, cần quy định cụ thể hướng giải quyết hoặc bổ sung thêm quy định về cách tính thời hạn tạm giữ trong trường hợp này.
+ Cần quy định bổ sung thêm thẩm quyền bắt người trong trường hợp khẩn cấp là chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển. Theo quy định của Pháp lệnh lực lượng cảnh sát biển Việt Nam thì nhiệm vụ của cảnh sát biển là tuần tra, kiểm soát để giữ gìn an ninh, trật tự trên biển, trong trường hợp phát hiện có hành vi phạm tội quả tang thì có quyền bắt giữ người và phương tiện phạm pháp quả tang, lập biên bản và chuyển cho cơ quan có thẩm quyền. Thực tế thực hiện pháp lệnh này cho thấy, quy định này là cần thiết, hợp lý trong hoạt động thực tế đấu tranh phòng chống tội phạm. Do vậy, khoản 2 Điều 86 BLTTHS năm 2003 đã bổ sung quy định chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ. Tuy nhiên, việc bổ sung này cần thiết song chưa đủ vì đối tượng bị tạm giữ như phân tích ở trên không chỉ là người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang mà còn là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp và những người khác theo quy định tại Điều 48 BLTTHS 2003. Do vậy, cần bổ sung thẩm quyền quyết định bắt người trong trư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập học kỳ- Tạm giữ trong TTHS và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng.doc