Đối với ngân hàng nhà nước Việt Nam đã trải qua những thăng trầm, vượt qua những khó khăn cũng như tận dụng được những cơ hội quý báu và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Ngân hàng nhà nước đã thực hiện tốt chức năng của NHTW, điều hành chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá và chính sách ngoại hối theo thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời ngân hàng nhà nước thực hiện tốt vai trò ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Ở Việt Nam các công cụ được sử dụng chủ yếu là nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3424 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực tế sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rình thực hiện nghiệp vụ thị trường mở, thì có thể ngay tức khắc sửa sai sót đó bằng các nghiệp vụ bán(nếu như trước đó mua vào quá nhiều) hay mua (nếu như lúc đó bán ra quá nhiều ).
Nghiệp vụ thị trường mở có tính an toàn cao: giao dịch trên thị trường mở hầu như không gặp rủi ro, xét trên cả góc độ của NHTW hay NHTM; vì cơ sở bảo đảm cho các giao dịch trên thị trường mở đều là những giấy tờ có giá, có tính thanh khoản cao, không rủi ro tài chính.
Nghiệp vụ thị trường mở có thể thực hiện một cách nhanh chóng không vấp phải sự chậm trễ của các thủ tục hành chính: khi NHTW muốn thay đổi lượng tiền cung ứng thì chỉ cần đưa ra yêu cầu cho các nhà giao dịch chứng khoán và sau đó việc mua bán sẽ được thực hiện ngay.
v Nhược điểm :
Các NHTW không nhất thiết phải tăng hoặc giảm lượng cung ứng tín dụng và đầu tư khi dự trữ tăng lên hay giảm đi do các tác động của nghiệp vụ thị trường mở. Vì có một số yếu tố ngăn cản các NHTM sử dụng tối đa dự trữ thừa cho việc MR tín dụng : nhu cầu trả nợ NHTM, nhu cầu sử dụng tiền mặt tăng...
Khi lãi suất tiền tệ giảm, không nhất thiết khối lượng tín dụng tăng lên tương ứng. Điều này còn phụ thuộc vào khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, mức RR...
Vì được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi nên nó còn phụ thuộc vào các chủ thể khác tham gia trên thị trường.
Để sử dụng công cụ này có hiệu quả thì cần phải có sự phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ, vốn.
5.2. Dự trữ bắt buộc
a) Khái niệm
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc : là tỷ lệ % giữa số lượng phương tiện thanh toán bị vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động, tức là NHTM phải gửi tại NHTW một phần của tổng số tiền gửi mà NHTW nhận được từ dân cư và các thành phần khác trong nền kinh tế theo một tỷ lệ nhất định.
b) Cơ chế tác động
NHTW sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc nhằm tăng, giảm qui mô tín dụng của các NHTM bằng cách tăng giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc.
Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số nhân tiền tệ trong cơ chế tạo tiền của các NHTM.
Nếu tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì sẽ làm khả năng cho vay của các NHTM giảm, từ đó làm cho lượng cung ứng tiền giảm. Và ngược lại, nếu giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm khả năng cho vay của các NHTM tăng, từ đó làm cho lượng cung ứng tiền tăng.
c) Ưu điểm, nhược điểm
v Ưu điểm :
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có tác động như nhau và tác động một cách đầy quyền lực đến các ngân hàng.
Giúp NHTW chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng.
v Nhược điểm :
Rất khó khăn để thực hiện những thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ.
Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộcsẽ ảnh hưởng tới khả năng thu doanh lợi của các NHTM. Hơn nữa, nếu thường xuyên thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng sẽ gây ra tình trạng không ổn định cho các NHTM và làm cho việc quản lý khả năng thanh khoản của các ngân hàng này khó khăn hơn. Do đó, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần được nghiên cứu kỹ lưỡng để đưa ra mức phù hợp.
Tính linh hoạt không cao vì việc tổ chức thực hiện nó rất chậm, phức tạp, tốn kém và nó có thể ảnh hưởng không tốt tới hoạt động kinh doanh của các NHTM.
5.3. Chính sách tái chiết khấu
a) Khái niệm
Đây là hoạt động mà NHTW thực hiện cho vay ngắn hạn đối với các NHTM thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu bằng việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu (đối với thương phiếu) và hạn mức cho vay chiết khấu (cửa sổ chiết khấu).
b) Cơ chế tác động
Khi NHTW tăng (giảm) lãi suất tái chiết khấu sẽ hạn chế (khuyến khích) việc các NHTM vay tiền tại NHTW làm cho khả năng cho vay của các NHTM giảm (tăng), từ đó làm cho mức cung tiền trong nền kinh tế giảm (tăng). Mặt khác khi NHTW muốn hạn chế NHTM vay chiết khấu của mình thì thực hiện việc khép của sổ chiết khấu lại.
c) Ưu điểm, nhược điểm
v Ưu điểm :
Chính sách tái chiết khấu giúp NHTW thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng đối với các NHTM khi các NHTM gặp khó khăn trong thanh toán, và có thể kiểm soát được hoạt động tín dụng của các NHTM.
Đồng thời có thể tác động tới việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế thông qua việc ưu đãi tín dụng vào các lĩnh vực cụ thể.
v Nhược điểm :
Hiệu quả của công cụ này còn phụ thuộc vào hoạt cho vay của các NHTM.
Mặt khác, lãi suất tái chiết khấu có thể làm méo mó, sai lệch thông tin về cung cầu vốn trên thị trường.
Là công cụ thụ động của NHTW vì yếu tố chủ động vay và không vay nằm ở NHTM tức là NHTW phải chờ NHTM đang cần vốn đưa thương phiếu, kỳ phiếu đến để xin tái cấp vốn.
Nếu NHTW tăng lãi suất chiết khấu quá cao thì các NHTM có thể tìm đến các nguồn vay khác với lãi suất thấp hơn như tại các ngân hàng khác của nước ngoài.
5.4. Hạn mức tín dụng
a) Khái niệm
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong một thời gian nhất định mà ngân hàng và khách hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
b) Chủ thể tham gia
Áp dụng cho khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên và được ngân hàng tín nhiệm. Thường khi cho vay loại này ngân hàng yêu cầu đảm bảo tín dụng.
c) Cơ chế tác động
Đây là một công cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với lượng tiền cung ứng, việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng cho nên kinh tế có quan hệ thuận chiều với quy mô lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của NHTM.
d) Ưu điểm, nhược điểm
v Ưu điểm :
Thủ tục đơn giản, khách hàng chủ động được nguồn vốn vay, lãi vay trả cho ngân hàng thấp.
Giúp NHTW điều chỉnh, kiểm soát được lượng tiền cung ứng khi các công cụ khác kém hiệu quả.Đặc biệt có tác dụng nhất thời cao trong những giai đoạn phát triển quá nóng, tỷ lệ làm pháp quá cao của nền kinh tế.
v Nhược điểm :
Ngân hàng dễ bị ứ đọng vốn kinh doanh, thu nhập từ lãi cho vay thấp.
Làm giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nền kinh tế, dễ phát sinh nhiều hình thức tín dụng ngoài sự kiểm soát của NHTW.
5.5. Lãi suất
a) Khái niệm :
Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn, việc thay đổi lãi suất sẽ kéo theo sự biến đổi của chi phí tín dụng, từ đó tác động đến việc thu hẹp hay mở rộng khối lượng tín dụng trong nền kinh tế. Do đó, lãi suất là một trong các công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ.
Là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam trong ngắn hạn.
Theo luật Ngân hàng nhà nước, lãi suất cơ bản chỉ áp dụng cho đồng Việt Nam do ngân hàng nhà nước công bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh.
b) Cơ chế tác động
Việc điều chỉnh lãi suất tăng hay giảm sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô huy động và cho vay của các NHTM làm cho lượng tiền cung ứng thay đổi theo.
c) Ưu điểm, nhược điểm
v Ưu điểm :
Giúp NHTW thực hiện quản lý lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của từng thời kỳ.
v Nhược điểm :
Dễ làm mất đi tính khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì thực chất lãi suất là giá cả của vốn, do vậy nó phải được hình thành từ chính quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế.
Mặt khác, việc thay đổi quy định điều chỉnh lãi suất làm cho các NHTM bị động, tốn kém trong hoạt động kinh doanh của mình.
5.6. Tỷ giá hối đoái
Là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại hối.
Tỷ giá hối đoái là công cụ là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.
Chính sách tỷ giá hối đoái tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiền tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước.
Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.
II/ Thực tế sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam
Đối với ngân hàng nhà nước Việt Nam đã trải qua những thăng trầm, vượt qua những khó khăn cũng như tận dụng được những cơ hội quý báu và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Ngân hàng nhà nước đã thực hiện tốt chức năng của NHTW, điều hành chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá và chính sách ngoại hối theo thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời ngân hàng nhà nước thực hiện tốt vai trò ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Ở Việt Nam các công cụ được sử dụng chủ yếu là nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Nghiệp vụ thị trường mở
a) Thực trạng
Ở Việt Nam, nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ rất quan trọng và cần thiết trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay với xu thế hội nhập quốc tế, Việt Nam phải có thị trường tài chính phát triển mới có thể tham gia vào thị trường quốc tế. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở sẽ góp phần phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính Việt Nam.
Theo quy định tại điều 21 Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam quy định : Ngân hàng nhà nước thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc mua, bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu ngân hàng nhà nước các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Ngày 12/7/2000, nghiệp vụ thị trường mở chính thức được đưa vào hoạt động theo phương hướng sử dụng nó như một công cụ điều tiết tiền tệ linh hoạt và có hiệu quả của ngân hàng nhà nước.
Trong năm 2000, ngân hàng nhà nước đã thực hiện được 17 phiên giao dịch thị trường mở.
31/12/2000, ngân hàng nhà nước đã bơm 405 tỷ đồng qua thị trường mở sau khi loại trừ các khoản mua, bán đã đến hạn thanh toán.
Như vậy, thị trường mở ở Việt Nam đã phát huy tác dụng ở mức độ nhất định : đã giúp cho các NHTM chủ động hơn trong việc điều chỉnh lượng vốn khả dụng của mình, qua đó ngân hàng nhà nước phần nào đã thực hiện được mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia.
Bắt đầu từ tháng 11/2004, giao dịch thị trường mở được thực hiện định kỳ 3 phiên/tuần (2002 là 2 phiên/tuần, 2001 là 1 phiên/tuần, 2000 là 1 phiên/10 ngày) góp phần điều tiết kịp thời vốn khả dụng của TCTD.
Tổng doanh số giao dịch năm 2004 là 61,936 tỷ đồng, bằng 292% so với năm trước, tăng cao hơn nhiều so với những năm trước đây (năm 2003 là 136%, năm 2002 là 127%). Khối lượng giao dịch bình quân mỗi phiên tăng mạnh: năm 2004 là 500 tỷ đồng/phiên, trong khi năm 2003 là 197 tỷ đồng/phiên, 2002 là 105 tỷ đồng/ phiên, năm 2001 là 82 tỷ đồng/ phiên. Nhờ vậy đã tăng khả năng điều tiết của công cụ này đến vốn khả dụng của các TCTD cũng như đến các điều kiện của thị trường tiền tệ.
- Năm 2005, NHNN đã tổ chức được 158 phiên thị trường mở, tăng 28,5% so với năm 2004.
Trong năm này, do cơ sở hạ tầng thông tin, đường truyền chưa đáp ứng được với yêu cầu thực tế, vì vậy thời gian giao dịch còn kéo dài, có lúc bị tắc nghẽn.
- Quy mô hoạt động nghiệp vụ thị trường mở 2006 tiếp tục được mở rộng: tăng 21% so với năm 2005. Doanh số giao dịch bình quân một phiên khoảng 767 tỷ đồng/phiên. Số lượng thành viên tham gia giao dịch nghiệp vụ thị trường mở trong năm 2006 là 19 thành viên, tăng 26% so với năm 2005.
- Theo báo cáo của ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở, 2006, NHNN đã thực hiện 133 phiên giao dịch chào bán các giấy tờ có giá. Tổng doanh số bán ra đạt khoảng 87000 tỷ đồng (2004 : 950 tỷ ; 2005 :1800 tỷ).
Trong năm 2006, thông qua nghiệp vụ thị trường mở, NHNN đã tăng cường chào bán tín phiếu để hút tiền về, góp phần giảm áp lực tăng tổng phương tiện thanh toán. Tuy nhiên quá trình đăng ký, lưu ký giấy tờ có giá để tham gia nghiệp vụ thị trường mở vẫn còn khá phức tạp.
- Tháng 10/2007, khi lạm phát có xu hướng vượt trên 2 con số, NHNN đã bán ra nhiều giấy tờ có giá để hút tiền về.
- Sau 2007, với tốc độ gia tăng lạm phát khá cao, NHNN đã áp dụng nhiều biện pháp tiền tệ mạnh ngay đầu năm 2008 nhằm kiềm chế lạm phát :
+ 30/1/2008, NHNN thông báo điều chỉnh các lãi suất chủ chốt : tăng lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm ; lãi suất chiết khấu từ 4,55/năm lên 6%/năm và lãi suất tái cấp vốn từ 6,5/năm lên 7,5%/năm.
+ Cũng 30/1, NHNN bơm thêm 12000 tỷ để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của các ngân hàng.
+ Tăng đối tượng và tỷ lệ tiền gửi phải dự trữ bắt buộc lên 11%cho các khoản tiền gửi dưới 12 tháng (tỷ lệ áp dụng từ tháng 6/2007 là 10%) và 5% cho các khoản tiển gửi trên 12 tháng ( áp dụng từ tháng 6/2007 là 4%).
+ 13/2/2008, NHNN thông báo phát hành tín phiếu bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng với tổng giá trị là 20300 tỷ.
+ 19 và 20/12/2008, NHNN bơm ra 23000 tỷ thông qua thị trường mở.
+ 21/12/2008, NHNN bơm thêm 10000 tỷ thông qua thị trường mở.
à Các biện pháp tiền tệ dù mạnh nhưng hiệu quả kiềm chế lạm phát chưa thực sự cao do : không đồng bộ với các biện pháp tài chính và tiền tệ không phải là lý do duy nhất của tình hình lạm phát hiện tại.
- Để kiểm soát lạm phát, NHNN đã phải thông qua hoạt động của thị trường mở để hút bớt số tiền đã bơm ra dưới hình thức bán tín phiếu của NHNN. Tuy nhiên, việc hút tiền về từ lưu thông vào giai đoạn cuối 2007, đầu 2008 trong bối cảnh nhu cầu tiền đồng của các NHTM là quá lớn và với trình độ quản lý rủi ro còn hạn chế các NHTM đã góp phần tạo nên sự thiếu thanh khoản tiền đồng của một số NHTM, đã đẩy lãi suất trên thị trường liên ngân hàng cao lên mức chưa từng có. Các NHTM đồng loạt tăng lãi suất huy động và cho vay tạo nên cuộc cạnh tranh lãi suất không lành mạnh trong hệ thống ngân hàng.
- Năm 2008 Sở Giao dịch NHNN đã tổ chức 402 phiên giao dịch thị trường mở, tăng 47 phiên so với 2007. Mua giấy tờ co giá chiếm đến 64,67% tổng phiên giao dịch với doanh số trúng thầu chiếm 91,42%. Không chỉ tăng số phiên giao dịch, doanh số giao dịch cũng tăng kỷ lục so với năm 2007, trong đó chủ yếu là giao dịch mua có kỳ hạn (tăng gấp 15 lần so với năm 2007). Trong khi đó, giao dịch bán hẳn chỉ còn 76,837 tỷ đồng, giảm 4,6 lần so với 2007.
- Trong tháng 2/2010, do khó khăn thanh khoản hệ thống ngân hàng, thị trường biết đến lượng vốn mỗi ngày Ngân hàng nhà nước hỗ trợ qua thị trường mở có từ 12000 – 15000 tỷ ; nghiệp vụ thị trường mở được tăng cường 2 phiên/ngày. Trong ngày 3/3 vừa qua, kết quả đấu thầu cũng lên tới 10005 tỷ qua 2 phiên. Tuy nhiên từ 4/3, lượng bơm qua thị trường mở đã giảm mạnh và chỉ còn duy trì 1 phiên/ngày, khối lượng trúng thầu ngày 4/3 chỉ có 3200 tỷ, ngày 10/3 là 2983 tỷ, đặc biệt trong các ngày 11, 12 và 15 lượng tiền chỉ còn tương ứng là 796, 454 và 742 tỷ đồng.
Giải pháp
- Rà soát lại các quy định của NHNN về các vấn đề liên quan đến hoạt động thị trường mở để điều chỉnh cho phù hợp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng tham gia.
NHTW cần tiếp tục nghiên cứu để mở rộng thêm nhiều loại hàng hóa có thể sử dụng trong các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở.
Cần lựa chọn phương thức giao dịch thích hợp.
Tăng cường khả năng dự đoán cung cầu vốn khả dụng trong hệ thống ngân hàng.
Nâng cao năng lực cán bộ xây dựng và điều hành nghiệp vụ thị trường mở.
Đa dạng hóa thời hạn và tăng khối lượng phát hành các giấy tờ có giá.
Hiện đại hóa công nghệ hệ thống thông tin và công nghệ ngân hàng.
Lãi suất
a) Thực trạng
Ở Việt Nam lãi suất được sử dụng như là công cụ chính của chính sách tiền tệ, là yếu tố đánh dấu sự chuyển biến từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, nó còn là công cụ quan trọng để chuyển các Ngân hàng sang cơ chế tự hạch toán kinh doanh.
Ngày 2/8/2000, NHNN đã thay đổi cơ chế điều hành lãi suất : từ cơ chế điều hành trần lãi suất sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng VND và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ.
Tháng 6/2001, trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xóa bỏ, mức lãi suất cho vay và huy động ngoại tệ do các NHTM tự quyết định theo cung- cầu vốn trên thị trường trong từng thời kỳ. Riêng lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp tại NHTM và tiền gửi ngoại tệ của NHTM tại NHNN chưa được tự do hóa mà vẫn do NHNN quy định, nhằm khuyến khích các doanh nghiệp bán ngoại tệ cho các NHTM và các NHTM không gửi ngoại tệ ra nước ngoài.
Ngày 30/5/2002, NHNN ra quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Theo đó, các tổ chức tín dụng xác định lãi suất cho vay bằng VND trên cơ sở cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm của khách hàng. NHNN không quy định biên độ lãi suất cho vay so với lãi suất cơ bản nhưng vẫn tiếp tục công bố lãi suất cơ bản để làm tham khảo và định hướng lãi suất thị trường.
Tháng 8/2005, lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam : 7,8%/năm, lãi suất tái cấp vốn của NHNN đối với các tổ chức tín dụng 6%. Lãi suất chiết khấu của NHNN đối với các tổ chức tín dụng là 4%/năm.
Năm 2006, NHNN giữ nguyên lãi suất cơ bản là 8,25%/năm, lãi suất tái cấp vốn là 6,25%/năm, lãi suất chiết khấu là 4,5%/năm góp phần hạn chế sức ép tăng trưởng.
Năm 2007, với mục tiêu kiềm chế tốc độ lạm phát thấp hơn tăng trưởng kinh tế nhưng khi lạm phát xảy ra (lên đến 12,63%) thì NHNN vẫn duy trì mức lãi suất cơ bản như năm 2006 là 8,25% trong khi mức lạm phát 2006 là 6,6%.
Ngày 19/5/2008, NHNN thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với luật NHNN và bộ luật dân sự, trong đó các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh bằng VND đối với khách hàng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố trong từng thời kỳ. Với cơ chế này lãi suất cơ bản đã trở thành công cụ điều hành chính sách tiền tệ hữu hiệu của NHNN.
NHNN đã ban hành Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về việc điều hành lãi suất được thắt chặt trên cơ sở thực hiện nghiêm túc khoản 1 điều 476 bộ luật dân sự, điều 9 và 18 luật NHNN. Theo quyết định này, lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố.
Trước những diễn biến nhanh, phức tạp của tình hình kinh tế trong và ngoài nước năm 2008, NHNN đã điều chỉnh lãi suất cơ bản tới 7 lần, trong đó có 3 lần điều chỉnh tăng nhằm kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng dư nợ tín dụng ; 4 lần điều chỉnh giảm nhằm nới lỏng từng bước chính sách tiền tệ, góp phần ngăn chặn đà suy giảm kinh tế.
Những dấu mốc thay đổi lãi suất cơ bản từ 12/2005 đến 12/2008 :
Lãi suất
Quyết định
Ngày thực hiện
8,25%/năm
1746/QĐ-NHNN ngày 1/12/2005
1/12/2005
8,75%/năm
305/QĐ-NHNN ngày 30/1/2008
1/2/2008
12%/năm
1099/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008
19/5/2008
14%/năm
1317/QĐ-NHNN ngày 10/6/2008
11/6/2008
13%/năm
2316/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008
21/10/2008
12%/năm
2559/QĐ-NHNN ngày 3/11/2008
5/11/2008
11%/năm
2808/QĐ-NHNN ngày 20/11/2008
21/11/2008
10%/năm
2948/QĐ-NHNN ngày 3/12/2008
5/12/2008
8,5%/năm
3161/QĐ-NHNN ngày 19/12/2008
22/12/2008
- Để hỗ trợ tăng trưởng hợp lý trong bối cảnh kiềm chế lạm pháp là ưu tiên hàng đầu, NHNN đã điều chỉnh tăng lãi suất tín phiếu (từ 7,8% lên 13%/năm từ 1/7/2008) và lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc (từ 1,2% lên 3,6%/năm từ 1/9/2008, lên 5%/năm từ 1/10/2008 và lên 105 Từ 21/10/2008) nhằm khuyến khích các tổ chức tín dụng điều chỉnh giảm lãi suất cho vay thấp hơn mức ấn định lãi suất kinh doanh tối đa.
- Tháng 2/2009, NHNN đã điều chỉnh giảm các mức lãi suất chủ đạo (lãi suất cơ bản lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn), giảm mặt bằng lãi suất cho vay, đáp ứng nhu cầu mở rộng tín dụng của nền kinh tế. Theo đó lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam được điều chỉnh giảm từ 8,5% xuống còn 7%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 9,5% xuống 7%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 7,5% xuống 5%/năm. Các mức lãi suất này được giữ nguyên cho đến hết tháng 11/2009.
- Tuy nhiên từ cuối tháng 9/2009, để phù hợp với diễn biến của nền kinh tế, NHNN đã điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu thêm 1% áp dụng từ 1/12/2009.
- Thực tế cho thấy, mặc dù có nhiều biện pháp hỗ trợ tích cực, tốc độ giải ngân gói hỗ trợ lãi suất của Chính phủ diễn ra hết sức chậm chạp trong tháng 2 và tháng 3/2009. Một tỷ lệ lớn vốn kích cầu quay trở lại ngân hàng làm cho tỷ lệ tăng dư nợ tín dụng nhỏ hơn nhiều so với lượng vốn giải ngân theo chương trình hỗ trợ lãi suất.
- Để đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ, từ cuối tháng 12/2009, NHNN đã chủ động xây dựng và triển khai đồng bộ phương án, biện pháp ổn định thị trường tiền tệ :
+ Giữ ổn định lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu, cho vay qua đêm, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ kể từ kỳ dự trữ 2/2010 (giảm 3% đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng, giảm 1% đối với tiền gửi có kỳ hạn lớn hơn 12 tháng). Quy định mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng đô la Mỹ của tổ chức kinh tế (trừ tổ chức tín dụng) tại tổ chức tín dụng tối đa là 1%/năm từ 11/2/2010.
+ Tăng cường hỗ trợ vốn cho các tổ chức tín dụng thông qua các biện pháp : tăng cường nghiệp vụ thị trường mở với 2 phiên/ngày, kỳ hạn 7 ngày và 28 ngày bắt đầu từ 23/12/2009 ; thực hiện tái cấp vốn và nghiệp vụ Swap với khối lượng lớn và kỳ hạn hợp lý cho các tổ chức tín dụng để đảm bảo thanh khoản ; bổ sung giấy tờ có giá được phép tham gia giao dịch nghiệp vụ thị trường mở và tái cấp vốn.
- Ngày 26/2/2010, NHNN đã ban hành thông tư số 07/2010/TT-HNN quy định việc cho vay bằng VND theo lãi suất thỏa thuận của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Việc ban hành thông tư 07 giúp lãi suất dẫn được trả về cho thị trường, qua đó khơi thông dược nguồn vốn tín dụng trung- dài hạn, mang lại nhiều lợi ích cho các tổ chức dụng, cho doanh nghiệp và cho nền kinh tế. Điều đặc biệt hơn là thông tư 07 là tín hiệu chính sách cho những bước tiến thận trọng dần đạt đến mục tiêu tự do hóa lãi suất.
b) Giải pháp
- Chính sách lãi suất là công cụ chính của chính sách tiền tệ, tùy thuộc vào từng mục tiêu của chính sách tiền tệ, NHNN áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cho phù hợp.
- Phải có chính sách lãi suất phù hợp với đường lối đổi mới nền kinh tế, tuân thủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo vai trò quản lý của nhà nước trong việc xây dựng và phát triển kinh tế.
- NHTW
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực tế sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam.doc