MỤC LỤC
NỘI DUNG 1
I. Khái quát về thuế giá trị gia tăng 2
1. Định nghĩa thuế giá trị gia tăng 2
2. Đặc điểm của thuế giá trị gia tăng. 2
3. Nội dung cơ bản của thuế giá trị gia tăng 3
3.1. Phạm vi áp dụng thuế GTGT 3
3.2. Căn cứ tính thuế 3
3.3. Phương pháp tính thuế GTGT 4
3.4. Quy định về đăng ký, kê khai nôp thuế và quyết toán thuế, hoàn thuế GTGT 5
II. Thực tiễn áp dụng pháp luật Thuế GTGT 6
1. Ưu điểm 6
2. Hạn chế 7
III. Hướng hoàn thiện 8
1. Về thuế suất 8
2. Về phương pháp tính thuế 9
3. Về khấu trừ thuế 10
4. Vấn đề hoàn thuế GTGT 10
5. Một số quy định khác 10
6. Về quản lý thu thuế 11
Tài liệu tham khảo 12
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5191 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế GTGT và ý kiến nhằm khắc phục hạn chế của pháp luật thuế GTGT, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h trước và không thay đổi, các phần giá trị hàng hóa dịch vụ có bị chia nhỏ và đánh thuế, tổng số thuế GTGT phải nộp qua các khâu chính là số thuế cuối cùng tính trên tồng giá trị hàng hóa dịch vụ mà người tiêu dùng phải gánh chịu. Đây vừa là đặc điểm vừa là ưu việt của thuế GTGT so với cá loại thuế hàng hóa dịch vụ thông thường mà Việt Nam và nhiều quốc gia đã áp dụng trong giai đoạn trước đây.
Từ những đặc điểm trên có thể thấy, ưu điểm cơ bản nhất của thuế GTGT là khắc phục được những nhược điểm của thuế doanh thu như: tránh được việc đánh thuế trùng lắp bằng cơ chế khấu trừ thuế đầu vào, khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp cùng tham gia hoạt động xuất khẩu bằng cơ chế hoàn thuế GTGT, đem lại số thu tương đối lớn cho ngân sách nhà nước do phàm vi điều tiết của thuế GTGT rộng, cho phép chống trốn lậu thuế hiệu quả, tạo ra sự kiểm soát lẫn nhau về thuế giữa các đơn vị có liên quan trong cung ứng hàng hóa dịch vụ vì việc khấu trừ thuế được thực hiện trên cơ sở hóa đơn GTGT.
3. Nội dung cơ bản của thuế giá trị gia tăng
Nội dung chủ yếu của pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam được xem xét dưới các bộ phận cụ thể như sau: phạm vi áp dụng thuế GTGT, căn cứ tính thuế GTGT, các quy định về phương pháp tính thuế GTGT, các quy định về ưu đã, miễn giảm thuế GTGT và cuối cùng là các quy định về kê khai, nộp thuế.
3.1. Phạm vi áp dụng thuế GTGT
Theo quy định tại Điều 3, Luật thuế GTGT thì đối tượng nộp thuế GTGT là các chủ thể sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ chịu thuế và các tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu thuế. Việc xác định chủ thể nộp thuế GTGT là nhằm giới hạn những đối tượng thuộc diện điều chỉnh của pháp luật thuế GTGT. Điều này cũng có nghĩa những đối tượng không đáp ứng được đầy đủ điều kiện là đối tượng nộp thuế GTGT thì đương nhiên nằm ngoài sự điều chỉnh của quan hệ pháp luật này.
Điều kiện thứ nhất, đối tượng nộp thuế GTGT phải có hành vi kinh doanh. Các chủ thể này phải có hoạt động sản xuất kinh doanh các hàng hóa dịch vụ chịu thuế GTGT hoặc có hành vi nhập khẩu hàng hóa thuộc diện chịu thuế GTGT, ngoài ra các chủ thể kinh doanh này phải có các hành vi kinh doanh được pháp luật công nhận.
Theo quy định của Luật thuế GTGT hàng hóa, dịch vụ được xác định là đối tượng chịu thuế GTGT bao gồm:
- Hàng hóa, dịch vụ được sản xuất, tiêu dùng trong nước không phân biệt hình thức tiêu dùng.
- Hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu để tiêu dùng trong nước. Việc đánh thuế GTGT đối với hoạt động nhập khẩu tạo ra sự bình đẳng giữa hàng hóa dịch vụ được tạo ra trong nước và hàng hóa dịch vụ nhập khẩu, mặc dù trong những chừng mực nhất định có thể gây ra khó khăn cho nhà nhập khẩu.
Điều kiện thứ hai để xác định đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hóa dịch vụ này phải có phần giá trị tăng thêm trên lãnh thổ Việt Nam. Pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam quy định phần giá trị gia tăng đối với hàng hóa dịch vụ cơ bản như sau:
- Đối với hàng hóa dịch vụ tạo ra trong nước, phần giá trị gia tăng là chênh lệch giữa giá trị bán ra với giá trị mua vào tương ứng của lượng hàng hóa dịch vụ đã cung cấp.
- Đối với hàng hóa dịch vụ nhập khẩu, phần giá trị tăng thêm là toàn bộ giá trị nhập khẩu của hàng hóa.
3.2. Căn cứ tính thuế
* Thứ nhất, về giá tính thuế GTGT
Được xác định theo hai cách. Thứ nhất, giá tính thuế là giá đã bao gồm thuế GTGT; thứ hai, giá tính thuế GTGT là giá chưa bao gồm thuế GTGT, cách tính này được áp dụng hầu hết ở các nước và cũng là sự lựa chọn của Việt Nam khi xác định giá tính thuế GTGT.
Đối với hàng hóa dịch vụ nhập khẩu, giá tính thuế là giá nhập khẩu và các loại thuế áp dụng đối với hàng hóa dịch vụ nhập khẩu nhưng chưa có thuế GTGT.
Đối với hoạt động sản xuất hàng hóa ở dưới dạng đặc thù như cho thuê tài sản, gia công hàng hóa, xây dựng....tùy theo từng trường hợp, pháp luật quy định chi tiết về giá tính thuế GTGT.
* Thứ hai, về thuế suất
Đối với việc quy định thuế suất thuế GTGT phải đáp ứng được những mục tiêu sau:
- Mức thuế suất được ban hành phải đảm bảo tỷ lệ động viên, tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước.
- Vì thuế GTGT là thuế tiêu dùng nên thuế suất phải đảm bảo khả năng định hướng tiêu dùng trong dân cư.
- Thông qua thuế suất Nhà nước thực hiện một số chính sách khuyến khích, thay đổi cơ cấu đầu tư trong nền kinh tế.
3.3. Phương pháp tính thuế GTGT
* Phương pháp khấu trừ thuế
“Khấu trừ thuế là một trong những nội dung đặc trưng của phương pháp tính thuế GTGT” . Tính thuế theo phương pháp này là số thuế GTGT phải nộp được tính trên cơ sở số thuế GTGT đầu ra trừ đi số thuế GTGT đầu vào. Trong đó:
Thuế GTGT đầu ra là số thuế xuất hiện ở khâu bán ra, chủ thể nôp thuế đã xác định và tính trong giá bán cho người nhận hàng hóa dịch vụ. Phần thuế này được tính trên toàn bộ giá trị hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Tại Khoản 1 Điều 9 Luật Thuế GTGT quy định thuế đầu ra được tính bằng giá tính thuế hàng hóa, dịch vụ đầu ra nhân với thuế suất thuế GTGT.
- Giá tính thuế là gái bán chưa có thuế GTGT theo quy định của pháp luật
- Thuế suất được quy định rõ cho từng loại ngành nghề kinh doanh, từng chủng loại hàng hóa, dịch vụ.
- Thuế GTGT ở khâu bán ra được xác định trên chứng từ hóa đơn hợp lệ của chủ thể nộp thuế. Trường hợp chứng từ không phản ánh số thuế GTGT hoặc chỉ ghi nhận giá thanh toán hàng hóa dịch vụ cũng được điều chỉnh cụ thể trong Luật.
Để áp dụng được phương pháp khấu trừ thuế, cần phải có những điều kiện luật định như sau:
- Chủ thể nôp thuế có hoạt động kinh doanh ổn định, chấp hành chế độ hạch toán kế toán, chế độ sử dụng chứng từ hóa đơn theo quy định hiện hành.
- Đăng ký thuế, đã được cơ quan thuế cấp mã số thuế theo đúng trình tự luật định.
- Đăng ký với cơ quan thuế và được cơ quan thuế chấp nhận nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ.
* Phương pháp tính trực tiếp trên phần giá trị tăng thêm
Phương pháp trừ trực tiếp là phương pháp tính thuế mà theo đó “Số thuế phải nộp bằng giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ nhân với thuế suất thuế GTGT”
Để có được phần “giá trị tăng thêm”, pháp luật quy định GTGT “bằng giá thanh toán của hàng hóa dịch vụ bán ra, trừ đi giá thanh toán của hàng hóa dịch vụ mua vào tương ứng”. Như vậy, nếu phương pháp khấu trừ thuế xác định trực tiếp theo hiệu số thuế thì phương pháp tính trực tiếp xác định theo hiệu số kết quả kinh doanh của chủ thể nộp thuế.
Thuế suất thuế GTGT được áp dụng phù hợp với ngành nghề kinh doanh, hàng hóa dịch vụ mà chủ thể nộp thuế cung cấp.
3.4. Quy định về đăng ký, kê khai nôp thuế và quyết toán thuế, hoàn thuế GTGT
Về tổ chức đăng ký thuế, pháp luật thuế GTGT quy định các chủ thể đăng ký thuế được cơ quan quản lý thuế chấp nhận bằng việc cấp giấy chứng nhận đăng ký thuế và thông báo mã số thuế cho chủ thể nộp thuế. Mã số thuế được cấp duy nhất cho một chủ thể nộp thuế và sử dụng suốt quá trình tồn tại của chủ thể nộp thuế.
Về quản lý giám sát quá trình nộp thuế: việc quản lý và giám sát quá trình kê khai thu nộp thuế đối với thuế GTGT phân chia làm hai loại do đặc thù của đối tượng chịu thuế. Đó là việc quản lý kê khai, nộp thuế với hoạt động kinh doanh thông thường và hoạt động quản lý kê khai, thu nộp thuế đối với hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Bên cạnh việc quản lý thu nộp và kê khai thuế GTGT, chứng từ hóa đơn cũng là một nội dung quan trọng của việc quản lý thuế GTGT. Theo Luật thuế GTGT, chứng từ hóa đơn chính là chứng cứ xác định nghĩa vụ thực tế mà chủ thể nộp thuế phải thực hiện đối với nhà nước.
Về hoàn thuế GTGT: hoàn thuế GTGT là việc cơ quan thuế ra quyết định trả lại số tiền thuế GTGT đã nộp vượt quá của chủ thể nộp thuế. Theo quy định của pháp luật, hoàn thuế áp dụng trong các trường hợp sau:
- Trường hợp thứ nhất, đối với chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh thông thường, các đối tượng được hoàn thuế GTGT chỉ có thể là đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế. Nếu các đối tượng này có “3 tháng liên tục trở lên có số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết”, thì được trả lại phần thuế đã nộp vượt quá.
- Trường hợp thứ hai, hoạt động xuất khẩu hàng hóa, do hưởng thuế suất 0%, cơ sở có hàng suất khẩu có thể được hoàn thuế theo tháng khi thuế đầu vào của hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu chưa được khấu trừ hết trên 200 triệu đồng.
- Trường hợp thứ ba, đối với việc đầu tư dự án có giá trị lớn, thường phát sinh số thuế đầu vào lớn, nếu đó là các dự án của chủ thể đã đăng ký thuế, chưa thực sự kinh doanh, thời gian đầu tư trên 1 năm, được xét hoàn thuế theo từng năm; nếu số thuế đầu vào tương ứng trên 200 triệu, được xét hoàn thuế quý.
- Trường hợp thứ tư, hoàn thuế GTGT do thực hiện chính sách ưu đãi. Đối với sự án sử dụng nguồn vốn ODA, hàng hóa mua bằng nguồn viện trợ nhân đạo, pháp luật cho phép chủ dự án hoặc tổ chức cá nhân viện trợ nhân đạo được hoàn lại số thuế GTGT đã trả tương ứng với hàng hóa, dịch vụ đã được cung cấp.
- Trường hợp thứ năm, quyết toán thuế khi chấm dứt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hoặc chuyển giao quyền sở hữu doanh nghiệp.
Việc hoàn thuế GTGT chỉ có thể thực hiện khi đối tượng nộp thuế nằm một trong những trường hợp nêu trên và có hồ sơ hoàn thuế hợp lệ.
Ngoài các nội dung trên, Luật thuế GTGT còn đề cập đến công tác quyết toán, kiểm toán thuế GTGT.
II. Thực tiễn áp dụng pháp luật Thuế GTGT
Pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam tuy ra đời muộn và còn khá mới mẻ so với các loại thuế khác, nhưng về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu về lý luận của pháp luật thuế GTGT cả cấu trúc bên trong lẫn biểu hiện bên ngoài. Nhìn chung, kể từ ngày được ban hành và có hiệu lực thì pháp luật thuế GTGT đã đạt được một số thành tựu đáng kể, đã có những ưu điểm vượt trội tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng luật thuế này. Tuy vậy trong các quy định cụ thể của pháp luật thuế GTGT thì vẫn còn những hạn chế nhất định cần được hoàn thiện hơn.
1. Ưu điểm
Thứ nhất, pháp luật thuế GTGT đã thể hiện thái độ của nhà nước đối với tính trung lập của thuế. Điều này được thể hiện ở chỗ những quy định của pháp luật thuế GTGT đã tạo ra sự công bằng và bình đẳng giữa các đối tượng chịu thuế với nhau. Các nhóm hàng hóa, dịch vụ chịu thuế đã được phân chia một cách hợp lý và chịu mức thuế suất như nhau giữa các hàng hóa, dịch vụ có cùng mục đích sử dụng. Pháp luật thuế GTGT đã giải quyết việc cân bằng mức thuế suất của các loại hàng hóa, dịch vụ tạo ra sự bình ổn trong hoạt động kinh tế xã hội, thể hiện được tính trung lập của thuế GTGT.
Thứ hai, luật thuế GTGT đã đảm bảo ở mức độ nhất định nguyên tắc công bằng và hiệu quả pháp luật của hệ thống pháp luật. Các quy định của pháp luật thuế GTGT đã phần nào thể hiện rõ nét nguyên tắc công bằng, mà biểu hiện cụ thể thông qua những quy định mang tính phổ biến về đối tượng nộp thuế, cơ sở tính thuế. Tất cả những chủ thể có đủ điều kiện ghi nhận theo luật thuế GTGT đều phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước cho dù họ là ai. Mặt khác pháp luật thuế cũng có nhiều quy định tạo điều kiện cho chủ thể kinh doanh, đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng cuối cùng như quy định những trường hợp hoàn thuế, quy định giá tính thuế có nhiều ưu điểm nổi trội...
Thứ ba, hệ thống pháp luật thuế GTGT đã tạo ra cơ sở pháp lý hình thành nguồn thu ổn định chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng thu từ thuế, phí và lệ phí. Việc triển khai thực hiện luật thuế GTGT bảo đảm động viên số thu cho ngân sách nhà nước không giảm hơn so với thuế doanh thu, không làm ảnh hưởng lớn đến kế hoạch thu ngân sách nhà nước, đồng thời không gây biến động lớn về giá.
Thứ tư, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Việc thực hiện luật thuế GTGT tạo điều kiện cho giá thành các công trình đầu tư xây dựng cơ bản giảm khoảng 10% vì toàn bộ thuế GTGT ở các công trình xây dựng cơ bản được hoạch toán riêng không tính vào giá thành công trình, không phải khấu hao tài sản sau này được khấu trừ hoặc hoàn thuế. Mặt khác, khi nhập khẩu thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng, loại trong nước chưa sản xuất được để đầu tư thành tài sản cố định theo dự án thì không thuộc diện chịu thuế GTGT.
Thứ năm, pháp luật thuế GTGT hiện hành mở rộng lưu thông hàng hóa và đẩy mạnh xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước, sắp xếp, cơ cấu lại nền kinh tế. Luật thuế GTGT khuyến khích việc sản xuất hàng hóa xuất khẩu thay vì luật thuế cũ khuyến khích việc sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu. Đặc biệt, luật thuế GTGT khuyến khích việc sản xất kinh doanh những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh như: nông sản, lâm sản, thủ công mỹ nghệ.
Đặc biệt luật thuế GTGT đã bước đầu tác động đến công tác quản lý của doanh nghiệp, tăng cường công tác hạch toán kế toán và thúc đẩy mua bán hàng hóa có hóa đơn chứng từ ở các doanh nghiệp. Thông qua việc chấp hành công tác kế toán, hóa đơn chứng từ của các doanh nghiệp, qua việc kê khai thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế đã giúp cho cơ quan chức năng của nhà nước và cơ quan thuế từng bước nắm được tốt hơn thình hình sản xuất kinh doanh cũng như tăng cường kiểm tra giám sát đối với các doanh nghiệp.
2. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, Luật thuế GTGT hiện hành còn bộc lộ một số hạn chế cần được tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong tình hình mới:
Thứ nhất, về diện hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT. Luật thuế GTGT hiện hành quy định 28 nhóm hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT. Quy định này là phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta thời gian qua, tuy nhiên trong quá trình thực hiện và cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, một số hàng hoá, dịch vụ nếu tiếp tục áp dụng không chịu thuế GTGT sẽ không còn phù hợp do không đảm bảo tính liên hoàn trong việc khấu trừ thuế đầu vào, đầu ra của doanh nghiệp. Do đó, cần rà soát để chuyển sang đối tượng chịu thuế nhằm đảm bảo tính liên hoàn của thuế GTGT và tạo thuận lợi hơn cho cơ sở sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh đó cũng cần bổ sung cụ thể hoá các dịch vụ tài chính mới chưa được quy định trong Luật, như: dịch vụ hoán đổi lãi suất, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn mua, bán ngoại tệ,...(gọi chung là các dịch vụ tài chính phái sinh) và các giao dịch chuyển nhượng vốn để đảm bảo cơ sở pháp lý trong quá trình thực hiện và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thứ hai, về thuế suất thuế GTGT. Năm 1997, khi ban hành Luật thuế GTGT, ngoài thuế suất 0%, còn có 3 mức thuế suất: 5%, 10 % và 20%. Từ ngày 1 tháng 4 năm 2004; áp dụng Luật sửa đổi bổ sung: bỏ thuế suất 20%, chỉ còn 2 thuế 5% và 10%. Trong đó 5 % là mức thuế suất ưu đãi, được áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ là đầu vào của sản xuất nông nghiệp hoặc phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, trước những khó khăn của nền kinh tế, diện áp dụng mức thuế suất 5% cũng được mở rộng và chưa theo đúng nguyên tắc nêu trên. Từ đó dẫn đến doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh một số hàng hoá, dịch vụ ở mức thuế suất này không những không phải nộp thuế mà còn được hoàn thuế từ ngân sách nhà nước . Mặt khác, tiêu chí phân định ranh giới áp dụng mức thuế suất 5% và 10% chưa rõ ràng: vừa theo tên hàng hoá, dịch vụ, vừa theo công dụng hàng hoá, dịch vụ, vừa theo tính chất của hàng hoá, dịch vụ, dẫn đến việc áp dụng mức thuế suất không thống nhất, nảy sinh vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Ví dụ: sản phẩm cơ khí tiêu dùng áp dụng mức thuế suất 10%, sản phẩm cơ khí là tư liệu sản xuất áp dụng mức thuế suất 5%, trên thực tế có những sản phẩm cơ khí không thể phân định được rõ ràng là dùng cho tiêu dùng hay dùng cho sản xuất.
Mức thuế suất thuế GTGT 10% tính cho các hàng hóa, dịch vụ thông thường cho tiêu dùng là khá cao, làm giảm sức mua, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá gặp nhiều khó khăn.
Thứ ba, về điều kiện được khấu trừ, được hoàn thuế. Luật thuế GTGT hiện hành quy định căn cứ khấu trừ, hoàn thuế GTGT đầu vào là hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ. Thực tiễn quản lý thuế thời gian qua cho thấy quy định nêu trên chưa đầy đủ, chưa chặt chẽ, dễ bị lợi dụng khấu trừ khống hoặc hoàn thuế khống thông qua việc sử dụng hoá đơn ghi chép không trung thực với thực tế giao dịch và các loại hoá đơn bất hợp pháp khác để gian lận trong khấu trừ, làm giảm số thuế GTGT phải nộp hoặc tăng số thuế GTGT được hoàn khống rút tiền ngân sách, gây bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các đối tượng nộp thuế, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư. Trong thời gian vừa qua đã xuất hiện một loại tội phạm kinh tế mới - tội phạm mua, bán, sử dụng hoá đơn bất hợp pháp để chiếm đoạt tiền thuế GTGT của Nhà nước như một số đối tượng đã lợi dụng sự thông thoáng của Luật Doanh nghiệp và quy định về điều kiện được khấu trừ thuế, được hoàn thuế nêu trên để thành lập doanh nghiệp nhằm mục đích mua, bán hoá đơn kiếm lời bất chính
Thứ tư, hai phương pháp tính thuế và hai loại hoá đơn. Ở nước ta thực hiện thuế GTGT đã đáp ứng hai phương pháp tính thuế cả hai loại hoá đơn, áp dụng phương pháp khấu trừ và hoá đơn GTGT đối với các doanh nghiệp đủ điều kiện hạch toán kế toán và áp dụng phương pháp trực tiếp thêm GTGT cả sử dụng hoá đơn thông thường đối với các hộ kinh doanh nhỏ. Việc áp dụng đồng thời hai cách tính thuế GTGT và hai loại hoá đơn trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay là cần thiết, song trên thực tế lại nảy sinh những bất cập gây trở ngại cho các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh. Các doanh nghiệp thực hiện theo phương pháp khấu trừ thuế không được khấu trừ đầu vào khi mua hàng hoá, dịch vụ của các đơn vị tính thuế theo phương pháp trực tiếp, gây mất công bằng trong các thành phần kinh tế, hoặc nảy ra tình trạng chống thuế. Ngoài ra, những bất cập trong kế toán thuế GTGT, trong chế độ hoá đơn, chứng từ đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường... cũng gây nhiều khó khăn cho công tác thu của ngành thuế và cho các hộ kinh doanh nhỏ.
Thứ năm, về hình thức văn bản. Thuế GTGT được thể hiện tại 3 văn bản Luật khác nhau là Luật thuế GTGT năm 1997, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT năm 2003, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế GTGT năm 2005. Mặt khác, năm 2006, Luật Quản lý thuế (đã được Quốc hội thông qua, có hiệu lực từ 01/7/2007) đã quy định các nội dung về quản lý thuế như đăng ký, kê khai, nộp thuế, xử lý vi phạm để thay thế cho các quy định về quản lý thuế trong các luật, pháp lệnh thuế đã được ban hành trước đây, trong đó có Luật thuế GTGT. Với nhiều văn bản Luật cùng quy định về thuế GTGT nên chưa tạo thuận lợi cho việc tra cứu, áp dụng pháp luật.
III. Hướng hoàn thiện
1. Về thuế suất
Theo quy định hiện hành, thuế GTGT hiện nay có 3 mức thuế suất; 0%, 5% và 10%. Quy định các mức thuế suất khác nhau ảnh hưởng lớn đến tính công bằng và hiệu quả của thuế GTGT. Với các mức thuế suất khác nhau, tỷ lệ chi phí sản xuất và giá thành các loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ thuộc các ngành, lĩnh vực khác nhau sẽ khác nhau một cách tương đối. Do vậy, mà cần phải chú ý một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, quy định thống nhất một mức thuế suất chuẩn đối với hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng trong nước. Việc quy định thống nhất một mức thuế suất chuẩn đối với hàng hóa dịch vụ tiêu dùng trong nước sẽ góp phần thực hiện các mục tiêu sau:
- Đảm bảo tính công bằng, hiệu quả của chính sách thuế nhằm góp phần tạo môi trường đầu tư công bằng, bình đẳng khuyến khích các hoạt động sản xuất, kinh doanh phát triển; xóa bỏ phân biệt đối xử về thuế suất giữa các loại hàng hóa sản xuất trong nước và nhập khẩu, giữa các loại hàng hóa, dịch vụ sản xuất trong nước với nhau.
- Đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế để tạo sự bình đằng và tránh những bất lợi trong điều kiện cạnh tranh quốc tế hiện nay.
- Đảm bảo mục tiêu bổ sung nguồn thu cho ngân sách nhà nước trong điều kiện thực hiện các cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình đã ký kết với các nước, đối tác trong khu vực và trên thế giới.
Thứ hai, duy trì và mở rộng diện áp dụng thuế suất 0% đối với hàng xuất khẩu và hàng hóa, dịch vụ cung cấp trực tiếp cho vận tải quốc tế.
Thứ ba, cần xóa bỏ phân biệt đối xử về thuế suất GTGT đối với hàng hóa, nguyên, nhiên, vật liệu sản xuất trong nước và nguyên liệu nhập khẩu.
2. Về phương pháp tính thuế
Hiện nay, Việt Nam đang áp dụng hai phương pháp tính thuế GTGT là: phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp. Phương pháp khấu trừ thường được áp dụng cho các doanh nghiệp lớn, thực hiện chế độ hạch toán kế toán và hóa đơn chứng từ đúng theo chế độ quy định. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phương pháp tính thuế trực tiếp được áp dụng theo tỷ lệ trên GTGT được tao ra bởi doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp này, việc xác định GTGT tạo ra bởi doanh nghiệp thường gặp nhiều khó khăn do họ không thực hiện chế độ kế toán và hóa đơn chứng từ. Do đó, dẫn đến thực tế quy định tỷ lệ GTGT trên doanh thu, trong một phạm vi ý nghĩa nhất định, thuế GTGT đã trở thành thuế doanh thu. Vì vậy, cần có những điều chỉnh trong các phương pháp tính thuế như sau:
Thứ nhất, cải tiến và đi đến thống nhất sử dụng một phương pháp tính thuế khấu trừ đối với các doanh nghiệp có quy mô phù hợp (doanh nghiệp lớn và vừa). Theo khuyến cáo của các chuyên gia quốc tế (IMF), Việt Nam chỉ nên áp dụng một phương pháp tính thuế khấu trừ đối với các doanh nghiệp thực hiện đúng chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ. Điều này hết sức quan trọng nhằm đảm bảo tính nhất quán, chính xác và phù hợp với thông lệ quốc tế trong xác định nghĩa vụ thuế phải nộp của các đối tượng.
Thứ hai, nghiên cứu áp dụng chế độ thuế phù hợp đối với các doanh nghiệp nhỏ. Hiện nay, bên cạnh thuế môn bài, lệ phí trước bạ, các doanh nghiệp nhỏ còn chịu các loại thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế thu nhập doanh nghiệp. Trên thực tế, các doanh nghiệp này thường không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy định về chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ. Do đó, việc xác định thuế đối với các đối tượng này thường chủ yếu dựa trên ước tính hoặc khoán. So với các nước, hệ thống thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ ở nước ta tương đối phức tạp, kém hiệu quả, gây khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện cũng như chi phí lớn cả phía cơ quan thuế và người nộp thuế. Trong thời gian tới cần nghiên cứu cơ chế xem xét việc quy định thống nhất một loại thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ (chẳng hạn như thuế doanh nghiệp nhỏ tính trên doanh thu) để đảm bảo tính đơn giản, dễ triển khai thực hiện và nâng cao tính công bằng, hiệu quả của hệ thống chính sách thuế.
3. Về khấu trừ thuế
Việc cho khấu trừ thuế đầu vào lại phát sinh những vướng mắc như: Có nhiều tỷ lệ khấu trừ khác nhau nên rất phức tạp trong quá trình thực hiện và không khuyến khích sử dụng hoá đơn chứng từ. Đối với hàng hoá nông, lâm, hải sản không cần hoá đơn, chỉ cần bản kê dẫn tới có trường hợp cơ sở sản xuất mua của người kinh doanh buôn chuyến, người thu gom trốn thuế, các doanh nghiệp không lấy hoá đơn bán hàng, tạo kẽ hở để cơ sở kinh doanh buôn chuyến, người thu gom trốn thuế. Các doanh nghiệp mua nông, lâm, hải sản sau đó sơ chế bán hàng trong nước thì được khấu trừ thuế nhưng nếu xuất khẩu lại không được trừ thuế đầu vào. Do đó, giải pháp cho vấn đề này là: Cho phép khấu trừ hoặc hoàn lại thuế GTGT trong trường hợp giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ bị huỷ bỏ, sau khi đã chấp nhận trả tiền của người mua hoặc trường hợp giảm giá, các khoản thu không đòi, được xử lý có đầy đủ chứng từ hợp lệ.
4. Vấn đề hoàn thuế GTGT
Trong thời gian đầu áp dụng thuế GTGT, thủ tục hoàn thuế rất phức tạp nên tiến độ hoàn thuế chậm, gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp đầu tư, mua sắm tài sản cố định với khối lượng lớn. Nguyên nhân của tình hình trên một phần do doanh nghiệp chưa làm đúng thủ tục, một phần do cơ quan thuế chưa quen, văn bản hướng dẫn lại chưa rõ ràng. Trước tình hình đó, Bộ tài chính đã có các văn bản bổ sung là hoàn thuế trước kiểm tra sau và phải xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm. Các văn bản này đề cao trách nhiệm và quyền lợi của các doanh nghiệp, của người nộp thuế trong việc hoàn thuế GTGT.
Tuy nhiên vấn đề hoàn thuế vẫn còn nhiều bấp cập về thủ tục cũng như thời gian hoàn thuế. Cần đề cao hơn nữa trách nhiệm của cơ sở trước những hồ sơ xin được hoàn thuế cà tăng cường kiểm tra, thanh tra của cơ quan thuế.
5. Một số quy định khác
Cần có quy định cụ thể về thời điểm xác định nghĩa vụ thuế GTGT. Điều này có ý nghĩa quan trọng vì trong một số trường hợp, thời điểm giao nhận hàng hóa, dịch vụ và thời điểm thanh toán tiền bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ có thể khác nhau. Nếu không có những quy định cụ thể về thời điểm xác định nghĩa vụ thuế GTGT sẽ gây ra những khó khăn trong công tác quản lý thuế và tập trung nguồn thu thuế vào ngân sách nhà nước.
Cần có quy định về địa điểm cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Thực tế công tác quản lý thuế cho thấy một số doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn có nhiều chi nhánh hoạt động trong phạm vi toàn quốc, có sự hoán chuyển trong địa điểm cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Điều này tạo ra sự không thống nhất và thiếu đồng bộ trong công tác quản lý thuế cũng như ảnh hưởng đến quá trình phân chia nguồn thu ngân sách hoặc hoàn thuế giữa các địa phương. Do đó, trong quá trình sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về thuế GTGT, cần quy định rõ ràng, cụ thể về địa điểm cung cấp hàng hóa, dịch vụ để xác định nghĩa vụ thuế chính xác giữa các tổ chức, chi nhánh trong cùng mộ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế GTGT và ý kiến pháp lý của nhóm thực hiện nhằm khắc phục hạn chế của pháp luật thuế GTGT.doc