MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC 1
DANH MỤC BẢNG BIỂU .4
LỜI MỞ ĐẦU .5
Chương 1 Tổng quan về nguồn vốn FDI và lĩnh vực phân phối bán lẻ .7
1.1 Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài .7
1.1.1 Khái niệm .7
1.1.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài .8
1.1.2.1 Phân theo hình thức đầu tư .8
1.1.2.2 Phân theo bản chất đầu tư .9
1.1.2.3. Phân theo tính chất dòng vốn .9
1.1.2.4. Phân theo động cơ của nhà đầu tư .10
1.1.3. Lợi ích của việc thu hút đầu tư nước ngoài .10
1.2. Tổng quan về lĩnh vực phân phối bán lể .12
1.2.1 Định nghĩa .12
1.2.2 Những kiểu tổ chức phân phối bán lẻ chính .12
1.2.3 Vai trò của phân phối bán lẻ trong nền kinh tế quốc dân .14
1.2.3.1 Cung cấp hàng hóa đến tay người tiêu dùng cuối cùng 14
1.2.3.2Thu thập thông tin thị trường , phản ánh trở lại nhà sản xuất.14
1.2.3.3 Thúc đẩy sản xuất phát triển 15
1.2.3.4 Tạo lập và nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp .15
Chương 2 Hệ thống phân phối bán lẻ và thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài lĩnh vực này tại Việt Nam .17
2.1 Tổng quan về hệ thống phân phối bán lẻ Việt Nam .17
2.1.1 Chủ thể tham gia vào lĩnh vực phân phối bán lẻ 17
2.1.1.1. Các công ty phân phối trong nước (bao gồm cả các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp ngoài nhà nước) .17
2.1.1.2. Các tập đoàn phân phối nước ngoài hoạt động tại Việt Nam .18
2.1.1.3 Các hộ kinh doanh cá thể, buôn bán nhỏ trong nước .19
2.1.2 Hàng hóa lưu thông trên thị trường 20
2.1.3 Doanh thu và tốc độ tăng trưởng 20
2.1.4 Các hệ thống phân phối bán lẻ .21
2.1.4.1 Hệ thống chợ truyền thống 21
2.1.4.2 Hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại .23
2.1.4.3 Hệ thống cửa hàng bán lẻ tự chọn 24
2.1.4.4 Hệ thống các hộ kinh doanh nhỏ lẻ .25
2.2 Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam .26
2.2.1. Quy mô vốn FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ .26
2.2.2 Cơ cấu vốn FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ Việt Nam.29
2.2.2.1 Xét theo đối tác đầu tư.29
2.2.2.2 Xét theo địa bàn đầu tư .31
2.3 Tác động của hoạt động FDI vào linh vực bán lẻ Việt Nam .32
2.3.1. Tác động tích cực 32
2.3.1.1 Tốc độ tăng trưởng của lĩnh vực phân phối bán lẻ thay đổi .32
2.3.1.2 Việt Nam tiếp cận được những phương thức quản lý và trình dộ tổ chức kinh doanh hiện đại.33
2.3.1.3 Thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phải nâng cao năng lực cạnh tranh.34
2.3.1.4 Phục vụ người tiêu dùng tốt hơn 36
2.3.1.4.1 Về giá cả 36
2.3.1.4.2 Về số lượng 36
2.3.1.4.3 Về chất lượng.37
2.3.1.4.4 Về những dịch vụ chăm sóc khách hàng.37
2.3.1.5 Hỗ trợ nông dân và các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa 38
3.1.2 Tác động tiêu cực .39
3.1.2.1 Biến đổi trong tình trạng việc làm .39
3.1.2.2 Biến đổi trong tình trạng thu nhập xã hội 40
3.1.2.3 Các doanh nghiệp FDI tạo ra sự lũng đoạn thị trường .41
Chương 3 Giải pháp nhằm tận dụng tốt nhất nguồn vốn FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ Việt Nam.43
3.1 Thời cơ và thách thức trong việc thu hút FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ Việt Nam .43
3.1.1 Thời cơ 43
3.1.1.1 Xu hướng đầu tư của thế giới .43
3.1.1.2 Xu hướng chi tiêu cá nhân của người tiêu dùng Việt Nam .44
3.1.1.3 Thực hiện các cam kết với quốc tế 45
3.1.2 Thách thức .47
3.1.2.1 Cơ sơ hạ tầng yếu kém.47
3.1.2.2 Phong cách tiêu dùng của người dân vẫn mang nặng tính truyền thống.47
3.1.2.3 Mâu thuẫn giữa các nhà sản xuất trong nước và bán lẻ nước ngoài .48
3.1.2.4Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp trong nước còn hạn chế.48
3.2 Gỉải pháp .49
3.2.1 Bài học từ nước ngoài 49
3.3.1.1 Hàn Quốc .49
3.3.1.2 Trung Quốc 52
3.2.2 Gỉải pháp .54
3.2.2.1 Về phía Nhà Nước .54
3.2.2.2 Về phía doanh nghiệp 57
KÊT LUẬN .60
61 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2842 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong nước theo hướng văn minh, hiện đại, phù hợp với xu hướng phát triển của khu vực và thế giới. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng vẫn chưa cân xứng với tiềm năng của thị trường, hệ thống phân phối bán lẻ trong nước vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân. Loại hình bán lẻ chủ yếu vẫn là các cửa hàng qui mô nhỏ, hoạt động độc lập. Mô hình siêu thị, trung tâm thương mại mới hình thành song tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh với số lượng doanh nghiệp tham gia còn ít, khoảng trên dưới 10 đơn vị, như: Sài Gòn Coop, Intimex, Citimart, Maximark, Fivimart…Đại bộ phận các siêu thị vẫn là qui mô nhỏ. Nếu như tỉ trọng doanh số bán lẻ qua hệ thống siêu thị ở Trung Quốc là 30 - 40 %, Thái Lan trên 40%, Singapore 60 - 70 % và Mỹ trên 90%,…thì ở Việt Nam hàng hoá đến người tiêu dùng chủ yếu vẫn qua hệ thống chợ (khoảng 40%) và qua hệ thống các cửa hàng bán lẻ truyền thống (khoảng 44%), qua hệ thống phân phối hiện đại (TTTM, siêu thị, cửa hàng tiện lợi,..) mới chỉ chiếm khoảng 10%, còn lại 6% là do nhà sản xuất trực tiếp bán thẳng . Trong bối cảnh đất nước đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, lĩnh vực phân phối bán lẻ cần được quan tâm phát triển hơn nữa để thích ứng trong điều kiện mớ cửa nền kinh tế.
2.2 Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam
2.2.1. Quy mô vốn FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ
Dựa trên cơ sở xem xét hoàn cảnh trong nước, nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của người dân, nước ta đã xem xét và cấp phép cho 28 dự án (tính đến tháng 3/2008) với tổng vốn đầu tư là 505.545.206 USD, bình quân 18.055.186 USD/ dự án. Dự án đầu tiên được cấp phép là vào ngày 31/8/1996 của Nhật Bản đầu tư vào phân phối hàng hóa nông sản tại huyện Lâm Đồng.
Bảng 5: Quy mô vốn FDI vào thị trường bán lẻ VN
giai đoạn2006- 2010
Năm 2006 là năm nhiều dự án nhất đã được phê duyệt với tổng vốn đầu tư lên tới 106.450.000 USD, bình quân là 15.207.143 USD/dự án. Năm 2006 cũng là năm có nhiều tập đoàn bán lẻ nổi tiếng trong khu vực và trên thế giới đầu tư vào Việt Nam như Lotte của Hàn Quốc, Mitsui của Nhật Bản. Tuy nhiên, năm có tổng vốn FDI lớn nhất vào lĩnh vực này lại là năm 2001 với 121.200.000 USD. đó là do năm 2001 tập đoàn Metro Cash & Carry của Đức đã được phê duyệt dự án với 8 trung tâm bán buôn các loại hàng hóa. Tổng vốn đầu tư vào 8 trung tâm này lên tới 120 triệu USD. Tuy là trung tâm bán buôn nhưng tại Việt Nam hoạt động của nó có phần thiên về xu hướng bán lẻ.
Như vậy, cho đến nay,đã có 28 dự án FDI đầu tư vào lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam, ngoài một vài dự án lớn mới đầu tư trong một vài năm gần đây, nhìn chung quy mô của các dự án còn khá nhỏ. Vì thế, so với tổng lượng vốn đầu tư vào lĩnh vực này thì vốn FDI còn rất khiêm tốn.
Nếu như năm 2002, khu vực có vốn FDI có tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng là 10.9 nghìn tỉ VNĐ trong tổng số 280.9 nghìn tỉ vốn đầu tư của cả ba khu vực, chiếm 3.9% tổng mức của cả nước thì cho đến năm 2005 thì lượng FDI đã tăng lên gần gấp đôi .Từ năm 2006 đền nay tỷ lệ nay luôn duy trì ở mức 9 – 10%.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt tốc độ tăng bình quân khoảng 25%/năm. năm 2010 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt khoảng 1.561,6 nghìn tỷ đồng; trong đó, tỷ trọng khu vực kinh tế trong nước khoảng 93%, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài khoảng 7%; tỷ trọng tổng mức bán lẻ hàng hóa qua kênh phân phối hiện đại là 35%, qua kênh phân phối truyền thống là 65%.
Bảng 6 : Cơ cấu tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ
giai đoạn 2006-2009
Như vậy, xét về tỉ lệ vốn đầu tư của các khu vực vào lĩnh vực phân phố bán lẻ của Việt Nam hiện nay thì có thể thấy sự áp đảo của khu vực tư nhân. Số lượng của các doanh nghiệp phân phối trong nước cũng như các hộ kinh doanh cá thể trong nước so với số lượng các nhà phân phối của nước ngoài đang có mặt tại Việt Nam có sự chênh lệch khá lớn. Các tập đoàn tham gia vào lĩnh vực này thì nếu như không kể tới các tập đoàn phân phối chuyên doanh như Zen Plaza về thời trang, Lotteria, KFC, BBQ Chicken về đồ ăn, Medicare về sản phẩm chăm sóc sức khoẻ, sẽ chỉ có khoảng 3 - 4 tập đoàn phân phối bán lẻ hàng hoá tiêu dùng tổng hợp là Metro Cash & Carry của Đức, Bourbon của Pháp và Parkson của Malaysia, Diamond Plaza của Hàn Quốc đang trực tiếp cạnh tranh trên thị trường bán lẻ ở Việt Nam thông qua hệ thống các siêu thị, trung tâm thương mại, trung tâm bán lẻ quy mô lớn. Trong đó, tập đoàn Parkson và Diamond Plaza mặc dù có thực hiện bán lẻ tổng hợp nhiều mặt hàng nhưng cũng chủ yếu là các dòng sản phẩm thời trang, mỹ phẩm, quà tặng cao cấp. Trong khi đó, có tới hàng chục doanh nghiệp trong nước đã và đang tổ chức hoạt động kinh doanh phân phối của mình theo các hệ thống trung tâm thương mại, chuỗi siêu thị, chuỗi cửa hàng bán lẻ kiểu này, và chưa kể đến khoảng 900 nghìn hộ kinh doanh cá thể đang hoạt động ở khắp các vùng miền trong nước. Tuy nhiên, các tập đoàn này đang mở rộng thêm hệ thống của mình.
Bảng 7 : Số của hàng của các doanh nghiệp bán lẻ
STT
Hãng Bán Lẻ
Số Lượng Cửa Hàng Trên Toàn Quốc
1
Tập đoàn Metro Cash & Carry Của Đức
13
2
Tập đoàn Bourbon Pháp ( Chuỗi siêu thị Big C )
14
3
Parkson của Malaysia
7
4
Tập đoàn Diamond Plaza của Hàn Quốc
1
5
KFC
80
6
Chuỗi bán hàng ăn nhanh Hàn Quốc, BBQ Chicken
14
Khi Việt Nam hoàn toàn mở cửa thị trường vào 1/2009 thì đã có rất nhiều tập đoàn bán lẻ tham gia đầu tư vào lĩnh vực này của Việt Nam. Đặc biệt là một tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới là Wal-Mart (Mỹ), Carefour (Pháp) và Tesco (Anh) cũng đang xúc tiến tìm hiểu về Việt Nam và lên kế hoạch đầu tư vào thới gian tới.
2.2.2 Cơ cấu vốn FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ Việt Nam
2.2.2.1 Xét theo đối tác đầu tư
Tính đến đầu tháng 3 năm 2008, đã có 14 nước có dự án đầu tư vào lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam. Tuy lượng vốn của các nước còn nhỏ nhưng nó là đòn bẩy quan trọng trong việc phát triển cả hệ thống phân phối bán lẻ của Việt Nam.
Đã có 3 nước đầu tư nhiều nhất vào lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam là Pháp, Hàn Quốc, Hồng Kông với (4 dự án mỗi nước). Trong 14 nước đó, Pháp và Đức là những nước có tổng vốn đầu tư lớn nhất với 161,975 triệu USD và 120 triệu USD. Sự có mặt của tập đoàn Bourbon của Pháp và Metro Cash & Carry của Đức đã đánh dấu những bước chuyển mình của thị trường bán lẻ Việt Nam trong những năm qua đồng thời góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy đầu tư, nâng cao chất lượng phục vụ và quản lý của các doanh nghiệp trong nước. Sức ép cạnh tranh từ các doanh nghiệp FDI mang lại đã là một giải pháp lớn để phát triển lĩnh vực phân phối bán lẻ của nước ta.
Đơn vị: USD
Bảng 8: FDI vào lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam xét theo đối tác đầu tư tính đến tháng 3/2008
TT
Tên nước
Số dự án
Tổng VĐT
Bình quân
1
Nhật Bản
3
37.800.700
12.600.233,33
2
Pháp
4
161.975.000
40.493.750
3
Đức
1
120.000.000
120.000.000
4
Hàn Quốc
4
51.550.000
12.887.500
5
Hồng Kông
4
26.200.000
6.550.000
6
Đan Mạch
2
1.100.000
550.000
7
Singapore
2
15.000.000
7.500.000
8
Hoa Kỳ
1
800.000
800.000
9
Lào
1
300.000
300.000
10
Đài Loan
1
4.994.506
4.994.506
11
Trung Quốc
2
1.625.000
812.500
12
Anh
1
67.000.000
67.000.000
13
Malaysia
1
200.000
200.000
14
Nga
1
17.000.000
17.000.000
Tổng
28
505.545.206
18.055.186
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và đầu tư
2.2.2.2 Xét theo địa bàn đầu tư
Việc phân bố các dự án theo vùng lãnh thổ ảnh hưởng lớn đến trình độ phát triển kinh tế- xã hội của một quốc gia. Việc phân bố này sẽ tạo ra sự hài hòa giữa các vùng đồng thời quyết định đến tăng trưởng chung của cả nước. FDI vào phân phối bán lẻ lại là một nguồn vốn có ảnh hưởng rất lớn vì nó tác động đến cả một phong tục mua bán truyền thống, và có vai trò quan trọng trong việc phát triển thương mại trong nước. Vì vậy khi phê duyệt dự án, nhà nước đã phải cân nhắc một cách khá kỹ càng.
Tính đến tháng 3 năm 2008 đã có 12 tỉnh thành được nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, vốn FDI này chủ yếu vào các thành phố lớn của Việt Nam là TP Hồ Chí Minh và Hà Nội. TP Hồ Chí Minh dẫn đầu với 9 dự án có tổng vốn đầu tư là 282.425.000 USD, bình quân 31.380.560 USD/dự án. Tiếp đó là Hà Nội với 7 dự án có tổng 101.000.700 USD, bình quân 14.485.810 USD/dự án. Nguồn vốn đầu tư vào những thành phố lớn vì những thành phố này tập trung khá đông dân, TP Hồ Chí Minh là khoảng 6 nghìn người, Hà Nội là trên 3 nghìn người. Thu nhập bình quân trên đầu người ở những thành phố này cũng khá cao so với các khu vực khác. Tại TP Hồ Chí Minh là vào khoảng 2.000 USD/ người, tại Hà Nội là 1.500 USD/ người. Do đó mức tiêu dùng ở những thành phố này cao nhất tại Việt Nam đặc biệt là tiêu dùng vào những hàng hóa cao cấp. Điều đó lại càng làm cho lĩnh vực phân phối bán lẻ tại đây trở nên hấp dẫn đối với các nhà bán lẻ nước ngoài. Tóm lại, có thể thấy các nhà phân phối nước ngoài mặc dù chưa có diện bao phủ rộng song đã có mặt ở hầu hết các trung tâm mua sắm và tiêu dùng lớn của Việt Nam ở cả 3 miền Bắc - Trung - Nam. Các doanh nghiệp phân phối trong nước mặc dù có lợi thế hơn về diện bao phủ song ở những khu vực thị trường có dung lượng lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ... thì đều gặp phải sự cạnh tranh gay gắt với các trung tâm phân phối của nhà đầu tư nước ngoài.
2.3 Tác động của hoạt động FDI vào linh vực bán lẻ Việt Nam
2.3.1. Tác động tích cực
2.3.1.1 Tốc độ tăng trưởng của lĩnh vực phân phối bán lẻ thay đổi
Tại các thành phố lớn, phương thức bán lẻ hiện đại đang thay thế dần phương thức truyền thống. Trước đây, phương thức bán lẻ hiện đại rất ít, chỉ đạt khoảng 3% (năm 2001) thì nay đã lên tới 20% năm 2010 ,riêng tại TP.HCM và Hà Nội, việc người dân đến các trung tâm, siêu thị, chuỗi cửa hàng... để mua sắm sẽ chiếm tới 37% trong vài ba năm nữa. Các tập đoàn phân phối lớn của nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam sẽ có thể tạo ra cùng lúc hai tác động:
Thứ nhất, đó là tác động làm gia tăng tốc độ phát triển của thị trường. Các tập đoàn phân phối của nước ngoài đang có mặt tại Việt Nam tiếp tục củng cố mạng lưới để giữ vững và nâng cao thị phần trên thị trường. Các tập đoàn phân phối khác, sau một thời gian tìm hiểu cơ hội kinh doanh tại thị trường Việt Nam vốn đã được thực hiện từ trước, sẽ bắt đầu tham gia vào thị trường này một cách mạnh mẽ. Có thể nhận định rằng sự tham gia này thực sự mạnh mẽ kể từ sau thời điểm 01 tháng 01 năm 2009, khi mà các hạn chế về thành lập doanh nghiệp phân phối 100% vốn nước ngoài sẽ được dỡ bỏ. Sự có mặt của các doanh nghiệp FDI đã đánh dấu một bước chuyển biến mới trong lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam. Lần đầu tiên việc bán lẻ hàng hóa được sắp xếp và quản lý một cách chuyên nghiệp, mang lại cho người tiêu dùng Việt Nam sự hài lòng không chỉ về giá cả, phẩm chất của hàng hóa mà còn cả về chất lượng phục vụ và những lợi ích gia tăng mà các doanh nghiệp này mang lại. Hơn nữa do áp lực về cạnh tranh và đổi mới, các nhà cung cấp dịch vụ phân phối bán lẻ của Việt Nam cũng tìm cách để phát triển hệ thống của mình từ đó đã làm cho thị trường bán lẻ Việt Nam thay đổi đáng kể. Mặt khác là chính các nhà phân phối này có đủ khả năng để tạo thêm những nhu cầu mới cho người tiêu dùng ở Việt Nam. Các doanh nghiệp này có thể phân tích và dự đoán mong muốn tiềm tàng của người tiêu dùng để từ đó cung cấp những mặt hàng phù hợp với thị hiếu và xu hướng tiêu dùng đang thay đổi một cách nhanh chóng của người tiêu dùng Việt.
Thứ hai, đó là tác động làm tăng chất lượng của sự tăng trưởng do hoạt động cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt, những sản phẩm dịch vụ kém chất lượng sẽ từng bước bị loại bỏ khỏi thị trường. Những sản phẩm ấy sẽ nhường chỗ cho những hàng hóa có xuất xứ rõ ràng, có chứng nhận đảm bảo về chất lượng, an toàn cho sức khỏe. Từ đó những cơ sở bán lẻ còn yếu kém cũng sẽ bị đào thải dần dần và thay vào đó là những trung tâm mua sắm hiện đại. Tình trạng nhà sản xuất tự lo hệ thống phân phối bán lẻ sẽ dần mất đi, thay vào đó giữa nhà sản xuất và nhà phân phối bán lẻ sẽ có mối quan hệ mang tính hợp tác cộng sinh. Với sự tham gia của các doanh nghiệp FDI, hoạt động phân phối bán lẻ nước ta sẽ thực sự trở thành một ngành công nghiệp.
2.3.1.2 Việt Nam tiếp cận được những phương thức quản lý và trình dộ tổ chức kinh doanh hiện đại
Trình độ quản lý và tổ chức kinh doanh của nhóm các doanh nghiệp phân phối bán lẻ trong nước với nhóm các tập đoàn phân phối bán lẻ nước ngoài cũng vẫn còn một khoảng cách không nhỏ. Các tập đoàn phân phối lớn của nước ngoài có lợi thế hơn hẳn về kinh nghiệm kinh doanh cũng như đã tiếp cận được trình độ quản lý ở mức cao của thế giới. Điều này thể hiện khá rõ ở kết quả triển khai các hoạt động kinh doanh hết sức nhanh chóng và chuyên nghiệp của các tập đoàn phân phối nước ngoài ở Việt Nam trong thời gian qua. Chỉ không lâu sau khi có mặt tại Việt Nam, tập đoàn Metro đã thiết lập được mối liên kết chặt chẽ với khoảng hơn 1.000 nhà cung cấp hàng hoá và khoảng 15.000 hộ nông dân, 15 lò mổ gia súc ở Việt Nam. Công tác quản lý chất lượng và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm đã được Metro phối hợp với Sở Y tế và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn thực hiện ngay từ đầu thông qua quy trình công nghệ sạch với các nhà cung ứng sản phẩm theo tiêu chuẩn Metro dựa trên các quy định hiện hành của Việt Nam. Đối với Diamond Plaza, yếu tố dẫn đến thành công của Diamond Plaza là sự chia sẻ lợi ích giữa những người thuê mặt bằng bán hàng và chủ cho thuê. Khoảng 70% quầy hàng tại đây chia một phần doanh số thu được cho nhà quản lý Diamond Plaza. Đổi lại, họ sẽ được hưởng lợi từ những chương trình khuyến mãi, những sự kiện lôi kéo khách hàng, nghiên cứu thị hiếu người tiêu dùng, thay đổi cách bài trí cho hấp dẫn... từ nhà quản lý. Có lẽ chính vì lẽ đó mà doanh thu bán hàng của các nhà phân phối nước ngoài đang chiếm ưu thế trước các doanh nghiệp phân phối trong nước,doanh thu bình quân của các siêu thị trong hệ thống của Metro thường cao gấp 2 - 3 lần so với các siêu thị trong nước.
2.3.1.3 Thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phải nâng cao năng lực cạnh tranh
Sau đổi mới, kinh tế nước ta đã dần được khôi phục và tăng trưởng, sản xuất phát triển, thu nhập của người dân tăng lên, nhu cầu về hàng hóa cũng tăng lên. Để kích thích thị trường bán lẻ của Việt Nam phát triển phục vụ người tiêu dùng, nhà nước ta đã cho phép những tập đoàn bán lẻ lớn được đầu tư vào nước ta. Mặc dù các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ phân phối trong nước sẽ phải chịu nhiều sức ép về cạnh tranh hơn trước rất nhiều do phải cạnh tranh với ngày càng nhiều tập đoàn phân phối lớn của nước ngoài, nhưng chính sức ép này cũng là áp lực và động lực để họ đổi mới phương thức kinh doanh, nâng cao chất lượng dịch vụ và năng lực cạnh tranh của mình trong môi trường cạnh tranh mới để phát triển một cách ổn định và bền vững hơn. Có thể một số doanh nghiệp phân phối nhỏ sẽ phải đóng cửa hoặc chuyển hướng kinh doanh nhưng nếu xét trên bình diện quốc gia, lợi ích và hiệu quả xã hội sẽ được nâng lên vì lúc này thị trường dịch vụ phân phối trong nước vẫn sẽ được bảo đảm đáp ứng bởi các doanh nghiệp mạnh hơn, kinh doanh hiệu quả hơn. Từ khi có sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã tự đổi mới hoạt động của chính mình. Một số doanh nghiệp phân phối lớn trong nước như Tổng công ty Thương mại Sài Gòn, Tổng công ty Thương mại Hà Nội, Công ty Xuất nhập khẩu Intimex..., đặc biệt là Liên hiệp Hợp tác xã thương mại Thành phố Hồ Chí Minh - Saigon Co.op, đã có nhiều chuyển biến tích cực trong việc đổi mới phương thức quản lý và tổ chức kinh doanh, tạo được mối liên kết chặt chẽ với các nhà sản xuất và cung cấp sản phẩm, áp dụng qui trình kiểm soát và quản lý chất lượng sản phẩm chặt chẽ, đầu tư xây dựng và triển khai ứng dụng hệ thống quản lý bằng công nghệ thông tin hiện đại... Các nhà đầu tư trong nước vừa tiếp tục đẩy mạnh đầu tư mở rộng mạng lưới phân phối của mình vừa tăng cường hợp tác đầu tư chiều sâu để tạo ra những mô hình hợp tác, liên doanh có quy mô lớn. Quá trình này sẽ có thể diễn ra với tốc độ rất nhanh do sức ép về cạnh tranh đã được nhận biết rộng rãi trong các doanh nghiệp phân phối trong nước. Hơn nữa, trước sức ép cạnh tranh, các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ đổi mới chính mình mà còn tìm cách liên kết đã tạo thành những doanh nghiệp lớn. Năm 2006, thị trường phân phối trong nước đã biết đến sự ra đời của Công ty CP Đầu tư và Phát triển hệ thống phân phối Việt Nam (quy mô vốn lên tới 6.000 tỉ đồng), từ sự liên kết của bốn DN phân phối hàng đầu nội địa là Hapro, Satra, Saigon Co.op và Tập đoàn Phú Thái. Tuy nhiên, sau gần ba năm thành lập, VDA vẫn... giậm chân tại chỗ.Một vị đại diện của liên doanh VDA cho rằng, các dự án của VDA bị chậm vì “khó khăn trong việc tìm kiếm mặt bằng”. Vậy nhưng, theo một số nguồn tin, vì các bên không muốn chia sẻ lợi ích, e ngại mất lợi nhuận và thị phần, thiếu niềm tin về nhau nên các dự án của VDA vẫn chưa tiến triển. Sự xuất hiện của Hiệp hội bán lẻ Việt Nam cũng đánh dấu một bước phát triển mới trong xu thế nâng cao năng lực cạnh tranh. Đó là nỗ lực của doanh nghiệp Việt Nam để củng cố hơn năng lực cạnh tranh của chính doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Sự thành lập hiệp hội sẽ hứa hẹn những bước phát triển mới cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam. Sau khi thành lập, Hiệp hội đã đề ra mục tiêu hoạt động là tập trung hỗ trợ và nâng cao năng lực cho các nhà bán lẻ Việt Nam, từng bước hình thành hệ thống bán lẻ Việt Nam với quy mô lớn và tính chuyên nghiệp cao.
2.3.1.4 Phục vụ người tiêu dùng tốt hơn
2.3.1.4.1 Về giá cả
Trong bối cảnh giá cả thị trường ngày càng tăng, giá sẽ là yếu tố quyết định tạo nên doanh thu và sức mua cho siêu thị. Với tiềm lực tài chính dồi dào, các doanh nghiệp FDI có lợi thế trong việc giảm giá hàng hóa bằng những phương thức kinh doanh mua tận gốc, bán tận ngọn và những cách thức tổ chức, quy hoạch vùng chuyên canh thực phẩm và hàng hoá cho toàn bộ hệ thống đã giúp các tập đoàn này tiết kiệm được tầng chi phí trung gian và chủ động kiểm soát chất lượng hàng hoá.Trong những năm gần đây, hệ thống siêu thị Metro Cash & Carry đã thu hút khách hàng bằng chiến lược về giá. Các siêu thị của Metro thường xuyên cung cấp hàng hóa các loại với giá luôn rẻ hơn so với mức giá bình quân của các siêu thị khác trong nước khoảng 10 - 15%, chỉ bằng giá bán buôn ở các chợ đầu mối bán buôn lớn như Đồng Xuân (Hà Nội), Bến Thành (Thành phố Hồ Chí Minh). Vì thế nên dù ở vùng ngoại thành thì thứ 7 & Chủ nhật, những siêu thị này cũng đón nhận một lượng khách hàng rất lớn đổ về. Siêu thị Big C cũng thu hút khách hàng bằng chiến lược giá của mình bằng phương thức kinh doanh mua tận gốc, bán tận ngọn nhờ biết cách tổ chức, qui hoạch vùng chuyên canh thực phẩm và hàng hoá cho toàn bộ hệ thống đã giúp các tập đoàn này tiết kiệm được tầng chi phí trung gian và chủ động kiểm soát chất lượng hàng hoá. Nhờ vậy, Big C đã có một số lượng lớn các mặt hàng sản xuất độc quyền với thương hiệu “WOW giá hấp dẫn và sẽ tăng them chủng loại trong thời gian tới.
2.3.1.4.2. Về số lượng
Sự đa dạng, phong phú về diện hàng hoá cung cấp trong các siêu thị của các tập đoàn nước ngoài cũng là một ưu thế cạnh tranh rất đáng kể đối với nhiều doanh nghiệp phân phối trong nước. Tại Zen plaza, đã có tới hơn 240 nhãn hiệu thời trang trong và ngoài nước và nếu tính trung bình một siêu thị trong hệ thống của Metro thường xuyên cung cấp khoảng 15.000 mặt hàng các loại thì chắc chắn không có nhiều siêu thị của doanh nghiệp trong nước có khả năng đáp ứng được.
2.3.1.4.3 Về chất lượng
Các doanh nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào lĩnh vực phân phối bán lẻ không chỉ chú ý vào chiến lược giá mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh của mình bằng chiến lược về chất lượng sản phẩm. Từ tâm lý của người tiêu dùng Việt Nam không tin tưởng vào hàng hóa được doanh nghiệp Việt Nam cung cấp, các doanh nghiệp phân phối nước ngoài đã rất chú ý đến chất lượng sản phẩm được cung ứng trong hệ thống phân phối bán lẻ của mình. Như đã nói ở trên, hệ thống siêu thị Metro Cash & Carry đã liên kết với thiết lập được mối liên kết chặt chẽ với khoảng hơn 1.000 nhà cung cấp hàng hoá và khoảng 15.000 hộ nông dân, 15 lò mổ gia súc ở Việt Nam. Công tác quản lý chất lượng và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm đã được Metro phối hợp với Sở Y tế và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn thực hiện ngay từ đầu thông qua quy trình công nghệ sạch với các nhà cung ứng sản phẩm theo tiêu chuẩn Metro dựa trên các quy định hiện hành của Việt Nam. Những khách hàng đến đây không chỉ hài lòng về giá cả mà còn yên tâm về chất lượng sản phẩm. Không chỉ là đảm bảo chất lượng hàng hóa mà các doanh nghiệp FDI còn mang đến người tiêu dùng Việt Nam những thương hiệu hàng hóa nổi tiếng trên thế giới như CK (Anh); Mo&Co (Pháp)...
2.3.1.4.4 Về những dịch vụ chăm sóc khách hàng
Những tập đoàn bán lẻ đầu tư vào Việt Nam không chỉ chú ý tới giá cả và chất lượng sản phẩm mà những khách hàng đến mua sắm tại đây còn được hưởng những dịch vụ chăm sóc khách hàng khá chu đáo. Tại siêu thị Metro, dịch vụ hậu mãi rất được chú trọng. Metro phát hành phiếu trả hàng cho tất cả hàng hóa trả lại trong tình trạng còn tốt trong vòng 3 ngày và kèm theo hóa đơn, hệ thông siêu thị BigC thì triển khai dịch vụ xe buýt 2 chiều miễn .Bằng những dịch vụ chăm sóc khách hàng, các doanh nghiệp FDI đã khẳng định đẳng cấp của mình trên thị trường Việt Nam và luôn là những doanh nghiệp dẫn đầu về doanh thu bán lẻ.
Như vậy, hơn 86 triệu người tiêu dùng VN được hưởng lợi nhiều hơn từ việc mở cửa thị trường theo cam kết WTO với ý nghĩa là họ sẽ được tiêu dùng nhiều hơn, chất lượng sản phẩm tốt hơn, mẫu mã đẹp hơn, giá rẻ hơn; được hưởng các dịch vụ với tiện ích tốt hơn, tính chuyên nghiệp cao hơn …Những lợi ích đó sẽ không chỉ các doanh nghiệp FDI mà các doanh nghiệp trong nước cũng sẽ mang lại cho người tiêu dùng bởi vì tất cả: trong nước cũng như nước ngoài muốn tồn tại được đều phải thông qua quá trình cạnh tranh. Cạnh tranh là động lực của sự phát triển. Cạnh tranh mang đến lợi ích cho người tiêu dùng.
2.3.1.5 Hỗ trợ nông dân và các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa
Đối với các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ phân phối bán lẻ, sự hài lòng của khách hàng là chìa khóa cho những thành công của doanh nghiệp. Mà để làm hài lòng khách hàng thì cách tốt nhất là cung ứng những hàng hóa tốt nhất, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng. Nhưng các doanh nghiệp phân phối bán lẻ lại không trực tiếp sản xuất, vì thế để nâng cao chất lượng cho hàng hóa của mình, các doanh nghiệp FDI đã nỗ lực trong việc hỗ trợ về vốn, kỹ thuật, con giống hoặc nguyên vật liệu cho nông dân và những doanh nghiệp sản xuất. Người nông dân khi liên kết với những doanh nghiệp này cũng có thể chú tâm vào việc canh tác mà không phải bận tâm về việc phân phối sản phẩm của mình. Từ khi có sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài vào lĩnh vực phân phối sản xuất của nhà nông cũng trở nên sôi động. Sản phẩm nông nghiệp được đưa đến tay người tiêu dùng thông qua các nhà phân phối bán lẻ. Tại Daklak, Metro Cash & Carry cùng với Saigon Co.op hợp tác cùng với ngành trồng bơ Daklak sản xuất trái bơ và giới thiệu trái bơ tới người tiêu dùng.
Hơn nữa, do những tập đoàn bán lẻ có hệ thống cửa hàng, siêu thị của mình trên khắp thế giới, từ đó các tập đoàn này đã tạo điều kiện cho nhà sản xuất Việt Nam được xuất khẩu hàng hóa . Trong năm 2006, 730 container hàng Việt Nam vào bán ở các siêu thị nước ngoài thông qua hệ thống siêu thị Big C và dự kiến sẽ bán 3.000 container cà phê, thuỷ hải sản, hàng may mặc, hạt điều… và nhiều sản phẩm khác vào năm 2010.
Như vậy các nhà sản xuất trong nước, đặc biệt là nông dân đã có cơ hội để phát triển và ổn định sản xuất cũng như nâng cao trình độ sản xuất thông qua mối liên kết ngày càng chặt chẽ với những nhà phân phối hiện đại, có quy mô lớn và hoạt động một cách chuyên nghiệp. Từ đó, họ sẽ có thể tạo ra được thu nhập cao hơn từ việc cung cấp cho các nhà phân phối này những sản phẩm có chất lượng tốt hơn.
2.3.2 Tác động tiêu cực
2.3.2.1 Biến đổi trong tình trạng việc làm
Sự biến đổi trong tình trạng việc làm có thể được coi là một trong những mặt tác động đáng quan tâm nhất đối với Việt Nam khi mở cửa thị trường dịch vụ của mình theo các cam kết trong WTO. Với đặc điểm của một thị trường còn mang nặng tính truyền thống, hoạt động phân phối được thực hiện qua hệ thống các chợ truyền thống và cửa hàng nhỏ lẻ của tư nhân vẫn chiếm đa số... thì mối quan tâm này là hoàn toàn có cơ sở. Như đã trình bày ở các phần trên, sự cạnh tranh giữa khu vực các nhà phân phối chuyên nghiệp với các hộ kinh doanh cá thể là không cân sức. Trong khi các nhà phân phối chuyên nghiệp có khả năng để thay đổi phương thức kinh doanh cũng như mở rộng quy mô phân phối để đáp ứng nhu cầu của thị trường một cách nhanh chóng thì khu vực các hộ kinh doanh nhỏ lẻ không có điều kiện để làm đư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực phân phối bán lẻ của Việt Nam 2005-2009.doc