Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU 5
CHƯƠNG 1 6
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CÔNG CỤ CỦA THƯƠNG MẠI TÍN DỤNG 6
I. KHÁI NIỆM: 6
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI 6
III. CÔNG CỤ LƯU THÔNG CỦA TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI 7
1. Đặc điểm của thương phiếu: 8
2. Một số điểm khác nhau giữa hối phiếu và lệnh phiếu: 10
3. Tính chất của thương phiếu: 11
4. Pháp luật về thương phiếu: 11
5. Ích lợi của thương phiếu: 12
6. Nhược điểm của thương phiếu 13
IV. VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 15
1. Tăng nguồn vốn kinh doanh 15
2. Tiết kiệm chi phí lưu thông tiền tệ 16
3. Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển hàng hóa, rút ngắn chu kỳ kinh doanh 16
4. Khuyến khích sản xuất kinh doanh 17
V. ƯU VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI 17
VI. HẠN CHẾ CỦA TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI 20
CHƯƠNG 2 21
THỰC TRẠNG TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY 21
I. THỰC TRẠNG: 21
1. Khó khăn 21
2. Thuận lợi 22
3. Các giải pháp khắc phục khó khăn 22
4. Hướng phát triển tín dụng thương mại ở Việt Nam 23
II. TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI TRONG NƯỚC 24
1. Tình hình 24
2. Những vấn đề của TDTM trong nước 25
3. Cách khắc phục 28
III. TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 30
1. Tình hình 30
2. TDTM quốc tế với những vấn đề cần tháo gỡ 32
3. Cách khắc phục 34
CHƯƠNG 3 36
TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI TRONG CÁC LUẬT ĐỊNH Ở VIỆT NAM 36
I. Sự cần thiết ban hành luật các công cụ chuyển nhượng 36
II. Nội dung cơ bản của luật các công cụ chuyển nhượng 39
1. Bố cục 39
2. Những nội dung cơ bản về hối phiếu 40
48 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 12049 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thực trạng tín dụng thương mại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hức tạp, lãi suất cao. Trong những giai đoạn lạm phát, chính sách thắt chặt tiền tệ làm cho nguồn vốn đến tay các doanh nghiệp khó khăn hơn thì tín dụng thương mại với cam kết đơn giản giữa các doanh nghiệp, cùng chi phí sử dụng vốn cực thấp lại là biện pháp vốn tối ưu cho các doanh nghiệp, giúp duy trì sản xuất kinh doanh. Tín dụng thương mại được xem là hình thức tài trợ rẻ tiền, rất linh hoạt trong kinh doanh. Bên cạnh đó, nó còn tạo điều kiện mở rộng mối quan hệ với đối tác lâu bền giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Như vậy, TDTM đặt chúng ta trước sự lựa chọn khó khăn. Nên chẳng hợp pháp hóa TDTM ở Việt Nam.
ƯU VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI
Trong nước
a. Ưu điểm
-Tín dụng thương mại góp phần đẩy nhanh quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa, làm cho chu kỳ sản xuất rút ngắn lại.
-Tín dụng thương mại tham gia vào quá trình điều tiết vốn giữa các doanh nghiệp một cách trực tiếp mà không thông qua bất kỳ cơ quan trung gian nào.
-Tín dụng thương mại được cấp giữa các doanh nghiệp quen biết, uy tín nên có lợi thế là thủ tục nhanh, gọn, đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn và góp phần đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp.
-Tín dụng thương mại góp phần làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, làm giảm chi phí lưu thông xã hội.
-Tạo điều kiện mở rộng hoạt động của tín dụng ngân hàng thông qua nghiệp vụ chiết khấu, bảo lãnh và thu hộ thương phiếu, sẽ giúp ngân hàng tăng thu nhập nhưng ít rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình.
-Trong trường hợp người đi vay vốn ngân hàng nhận nợ bằng lệnh phiếu, khi cần thiết, ngân hàng có thể bán khoản nợ này để thu nợ trước hạn bằng cách chuyển nhượng lệnh phiếu cho ngân hàng khác. Đây là một giải pháp chứng khoán hoá các khoản cho vay của ngân hàng.
-Tín dụng thương mại tạo ra thương phiếu bổ sung hàng hoá cho thị trường mở, tạo điều kiện cho ngân hàng trung ương thực hiện tốt công tác điều hoà khối tiền trong lưu thông.
-Tạo thuận lợi với doanh nghiệp có quan hệ thường xuyên với nhà cung cấp
b. Nhược điểm
Về quy mô: lượng giá trị cho vay bị hạn chế do tín dụng thương mại được cấp bằng hàng hoá nên doanh nghiệp cho vay chỉ có thể cung cấp được cho một số doanh nghiệp nhất định - những doanh nghiệp cần đúng thứ hàng hoá đó để phục vụ
Sản xuất hoặc bán ra. Hơn nữa, Tín dụng thương mại là do các nhà doanh nghiệp cung cấp và họ chỉ cung cấp với khả năng giới hạn của họ. Nếu người đi vay có nhu cầu cao hơn thì người cho vay không thể đáp ứng được.
Về phạm vi: Phạm vi hẹp, chỉ xảy ra giữa các doanh nghiệp, hơn nữa là chỉ thực hiện được giữa các doanh nghiệp quen biết, tín nhiệm lẫn nhau và chỉ đầu tư một chiều, không có quan hệ cho vay ngược lại.
Về thời gian: thời hạn tín dụng ngắn thường là dưới 1 năm, điều kiện kinh doanh và chu kỳ sản xuất của các doanh nghiệp có thể không phù hợp nhau, do vậy khi thời gian mà doanh nghiệp cho vay muốn cung cấp không phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp cần đi vay thì tín dụng thương mại không thể xảy ra.
-Là loại tín dụng không có đảm bảo nên rủi ro dễ phát sinh.
-Do tính trừu tượng của thương phiếu, sẽ dẫn đến tình trạng hai doanh nghiệp thông đồng nhau lập ra thương phiếu khống (thương phiếu không phát sinh từ quan hệ mua bán chịu) để mang đến ngân hàng xin chiết khấu hoặc cầm cố. Chính điều này đã làm cho cơ sở đảm bảo của thương phiếu là tín dụng hàng hoá không thể tồn tại, số tiền cho vay được ngân hàng phát ra không có cơ sở đảm bảo.
-Các chủ thể tham gia vào nghiệp vụ thương phiếu (Người bán chịu hàng hoá, người được chuyển nhượng thương phiếu, ngân hàng bảo lãnh…) chưa thật sự có lòng tin đối với thương phiếu và khả năng chuyển hoá ra
-Pháp lệnh thương phiếu vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng nên tính khả thi vẫn còn kém.
Quốc tế:
a. Ưu điểm:
-Đáp ứng được nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế - xã hội khi mà các nguồn vốn trong nước còn hạn chế.
-Thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế một cách nhanh chóng
-Mở rộng quan hệ quốc tế với các nước trên thế giới
b. Nhược điểm:
Tín dụng quốc tế có rủi ro do bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của tỷ giá hối đoái quốc tế.
HẠN CHẾ CỦA TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI
-Hạn chế về quy mô tín dụng: Tín dụng thương mại là do các nhà doanh nghiệp cung cấp và họ chỉ cung cấp với khả năng giới hạn của họ. Nếu người đi vay có nhu cầu cao hơn thì người cho vay không thể đáp ứng được.
- Hạn chế về thời hạn cho vay: Điều kiện kinh doanh và chu kỳ sản xuất của một doanh nghiệp có thể không phù hợp với nhau, vì vậy mà khi thời hạn mà người cho vay muốn cung cấp và người đi vay có nhu cầu không phù hợp nhau thì tín dụng này không thể xảy ra. Nhưng nhờ phương pháp cấp tín dụng của ngân hàng dưới hình thức chiết khấu đã giải quyết được một phần hạn chế này.
- Hạn chế về phương hướng: Tín dụng thương mại được cung cấp dưới hình thức hàng hoá, vì vậy mà doanh nghiệp chỉ cung cấp được tín dụng cho một số doanh nghiệp nhất định - những doanh nghiệp cần hàng hoá đó để sử dụng cho sản xuất hoặc dự trữ để bán ra.
Ngoài ra việc cấp tín dụng thương mại chỉ được thực hiện trên cơ sở tín nhiệm lẫn nhau
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
THỰC TRẠNG:
Khó khăn
- Các doanh nghiệp, các nhà sản xuất kinh doanh hiểu biết còn rất ít hoặc còn hiểu mơ hồ về công cụ chuyển nhượng
- Các chủ thể tham gia vào nghiệp vụ thương phiếu (Người bán chịu hàng hoá, người được chuyển nhượng thương phiếu, ngân hàng bảo lãnh…) chưa thật sự có lòng tin đối với thương phiếu và khả năng chuyển hoá ra tiền của thương phiếu khi đến hạn.
- Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa có những thông tư hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu, chưa ban hành mẫu biểu cụ thể cho thương phiếu để nó có thể trở thành một công cụ lưu thông tín dụng pháp định có thể thay thế cho tiền mặt trong lưu thông
- Pháp lệnh thương phiếu vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng nên tính khả thi vẫn còn kém. Chính vì những khó khăn trên mà trong thời gian qua, thương phiếu và các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu vẫn chưa đi vào đời sống kinh tế ở Việt Nam.
Thuận lợi
- Do đặc điểm tình hình kinh tế,số lượng doanh nghiệp ở Việt Nam tăng mở rộng qui mô
- Gia nhập ASIAN,AFTA,APEC,WTO…mở rộng quan hệ gia lưu thương mại
- Đòi hỏi doanh nghiệp tìm hiểu,sử dụng các phương thức,phương tiện thanh toan
phổ biến trong quan hệ thương mại quốc tế,tín dụng thương mại quốc tế như séc,hối phiếu đòi nơ…- Đảng Nhà nước quan tâm và có nhiều giải pháp để phát triển hoạt động TDTM
- Việc ban hành luật mới vế công cụ chuyển nhượng ở Việt Nam tạo cơ sở pháp lí cho hoạt động TDTM. Thúc đẩy giao lưu thương mại thông qua công cụ thanh toán,tín dụng mới cho nền kinh tế tăng khả năng lưu thông của các công cụ chuyển nhượng
Các giải pháp khắc phục khó khăn
- Nhanh chóng tạo dựng một hành lang pháp lý cho sự tồn tại và cho việc thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu được an toàn và thuận lợi. Mặc dù Quốc hội đãthông qua Pháp lệnh thương phiếu có hiệu lực thi hành từ ngày 1.7.2000 và Chính Phủ đã ban hành nghị định 32/2001/NĐ -CP ngày 5.7.2001 hướng dẫn thi hành pháp lệnh trên nhưng vẫn còn nhiều bất cập như chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế…
- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, thảo luận về thương phiếu và ích lợi của thương phiếu đến các doanh nghiệp, là những chủ thể chủ yếu trong quan hệ thương phiếu.
- Nâng cao hiệu lực hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) dể có thể cung cấp chính xác và kịp thời năng lực chi trả, uy tín của các doanh nghiệp có nghĩa vụ thanh toán thương phiếu, đảm bảo quyền lợi của người thụ hưởng.
- Trong thời gian đầu Nhà nước cần có những ưu đãi hợp lý cho các doanh nghiệp cũng như các Tổ chức tín dụng có tham gia vào quan hệ thương phiếu.
Và cuối cùng, Ngân hàng Nhà nước phải gấp rút ban hành các thông tư hướng dẫn để các ngân hàng có thể mạnh dạn thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu như bảo lãnh, chiết khấu và cầm cố thương phiếu. ngân hàng Nhà nước cũng phải nhanh chóng ban hành mẫu biểu cho thương phiếu, ban hành Luật về các công cụ chuyển
nhượng…
Hướng phát triển tín dụng thương mại ở Việt Nam
Hiện nay, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, tín dụng thương mại vì vậycũng phát triền rất mạnh mẽ. Như vậy, cần có một sự định hướng cho sự phát triển của tín dụng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
1) Cải cách triệt để và phát triển hệ thống các TCTD theo hướng đa năng, hiện đại, đa dạng về sở hữu và loại hình tổ chức, có quy mô lớn và hoạt động theo nguyên tắc thị trường với mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận, áp dụng các thông lệ và chuẩn mực quốc tế vào hoạt động kinh doanh ngân hàng.Cơ cấu lại hệ thống NHTM, tách bạch tín dụng chính sách và tín dụng thương mại, bảo đảm quyền kinh doanh của các tổ chức tài chính nước ngoài theo các cam kết song phương và đa phương đã ký kết với các nước và các tổ chức quốc tế, gắn cải cách ngân hàng với cải cách doanh nghiệp.
2) Tăng cường năng lực tài chính, đảm bảo các doanh nghiệp có đủ nguồn vốn, tài sản đi đôi với nâng cao chất lượng và khả năng sinh lời, xử lý dứt điểm nợ tồn đọng.
3) Tuân thủ các quy định của các Hiệp định song phương với các nước và quy định của WTO về mở cửa thị trường dịch vụ tín dụng thương mại.
Phát triển hệ thống dịch vụ tín dụng thương mại đa dạng, đa tiện ích, được định hướng theo nhu cầu của nền kinh tế trên cơ sở tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả của các dịch vụ truyền thống, đồng thời nhanh chóng tiếp cận và phát triển các loại hình dịch vụ mới với hàm lượng công nghệ cao.
Trong những năm gần đây, cùng với việc gia nhập WTO, các doanh nghiệp nước ta ngày càng mở rộng quan hệ giap lưu thương mại đầu tư với các nước khu vực và thế giới.Trong quá trình hội nhập và giao lưu thương mại này, đòi hỏi các doanh nghiệp việt nam phải tìm hiểu và sử dụng các phuognw thức phương tiện thanh toán phổ biến trong quan hệ thương mại quốc tế, quan hệ tín dụng quốc tế như thư tín dụng, séc, hối phiếu đì nợ, hốiphiếu nhận nợ… Mặt khác,quá trình hội nhập cũng đòi hỏi nước ta phải thay đổi ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước phù hợp hơn với thể chế, chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI TRONG NƯỚC
Tình hình
Do đặc điểm tuần hoàn, lưu chuyển vốn khác nhau, trong những đơn vị sản xuất kinh doanh, nên xảy ra sự không ăn khớp giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đây là tình trạng phổ biến của các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất ở Việt Nam hiện nay. Tại một thời điểm, trong khi một số nhà sản xuất có hàng hóa muốn bán thì số khác lại muốn mua hàng hóa đó nhưng không có tiền. Từ đó phát sinh việc mua bán chịu giữa các đối tượng này ngày càng phổ biến hơn. Đây cũng chính là cơ sở của tín dụng thương mại. Và tín dụng thương mại đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Trong nền kinh tế thị trường hiện tượng thừa thiếu vốn ở các doanh nghiệp thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mại một mặt đáp ứng được nhu cầu vốn của các doanh nghiệp tạm thời thiếu đồng thời giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá của mình. Mặt khác sự tồn tại của hình thức tín dụng này giúp cho các doanh nghiệp khai thác được vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ngay từ khi xuất hiện thương phiếu được xem là một phương tiện thanh toán hữu hiệu, đáp ứng các nhu cầu thanh toán trong trường hợp có sự khác biệt về địa lý giữa nơi bán và nơi mua. Và hiện nay, thương phiếu vẫn giữ vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh vai trò là một phương tiện thanh toán, thương phiếu còn được xem là một công cụ tín dụng, sỡ dĩ có vai trò này bởi vì các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất thực hiện các hoạt động chiết khấu trên thương phiếu. Tín dụng chiết khấu thương phiếu được hiểu là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, mà thực chất của hình thức này là ngân hàng tiến hành mua lại các thương phiếu đang trong thời kỳ chưa đến hạn thanh toán và cung ứng một khoản vốn cho các thương nhân để họ có điều kiện tiếp tục tái sản xuất. Khi kết thúc thời hạn chiết khấu, ngân hàng sẽ đòi tiền ở người có nhiệm vụ trả tiền thương phiếu.
Những vấn đề của TDTM trong nước
2.1. TDTM chưa được thừa nhận chính thức, hoạt động bất hợp pháp, đầy rẫy rủi ro vì quyền lợi của người kinh doanh chưa được bảo đảm dẫn đến sự phá sản hàng loạt khi một khâu kinh doanh đổ bể. TDTM ở nước ta hiện nay chỉ dựa trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau giữa những người mua - người bán dẫn đến tình trạng quỵt nợ, nợ dây dưa giữa các doanh nghiệp. Chẳng phải ngẫu nhiên mà một số người cho rằng vụ cháy chợ Rồng ở Thanh Hóa và chợ Đồng Xuân ở Hà Nội là do có kẻ muốn thủ tiêu giấy tờ ghi nợ.
Phải nhìn nhận rằng việc bán chịu hàng ở chợ gần như thành luật lệ của giới buôn bán. Thường thường, các cơ sở sản xuất phải giao hàng đợt sau mới lấy được tiền hàng đợt trước. Nơi bán buôn ở các chợ đầu mối cũng phải cũng phải giao hàng trả chậm cho các mối bán lẻ và cả các mối ở địa phương khác. Khối TDTM lên đến hàng ngàn tỷ đồng như vậy lại không có gì bảo đảm gây thiệt thòi lớn cho các chủ nợ.
Như ta đã biết, TDTM di chuyển rất nhanh. Ở một số tỉnh khối lượng TDTM lớn đã làm lệch cân đối tín dụng của các ngân hàng địa phương. Ví dụ khi giá cao sự tăng thu hút khách hàng đổ xô vào ứng tiền cho các công ty cao su. Số dư nợ khổng lồ đối với khối ngân hàng địa phương của công ty này đã giảm sút lớn dẫn đến đầu vào các các ngân hàng lớn hơn đầu ra.
Theo như thống kê, TDTM chiếm đến 40% tổng số vốn lưu động của các doanh nghiệp. Con số này còn lớn hơn nhiều với những doanh nghiệp ít vốn hơn. Họ thường xuyên sử dụng hình thức này để giải quyết vấn đề tiền vốn kinh doanh hạn hẹp. Những người thường xuyên mua chịu là những người buôn bán ở chợ, bán lẻ... Các mặt hàng cho mua bán chịu cũng thật là đa dạng: quần áo, vải vóc, đồ lưu niệm, thiết bị trường học... nó tùy thuộc vào tiềm năng về vốn của người bán cũng như quy luật chung của thị trường đó. Nhiều khi người bán phải chấp nhận bán chịu như một hình thức khuyến mại, khuyến khích mua hàng của họ. Sau đây là một vài số liệu về mặt hàng vải ở chợ Đổ (Hải Phòng).
Theo điều tra sơ bộ, tất cả các hiệu vải ở đây đều sử dụng hình thức TDTM dưới hình thức này hay hình thức khác. Lý do cơ bản là vì nguồn vốn kinh doanh có hạn, người bán buôn phải chấp nhận một thời hạn nào đó để người bán giải phóng hàng, gom tiền trả nợ. Người kinh doanh cho biết, đây là giải pháp hữu hiệu để duy trì hoạt động kinh doanh liên tục, đồng thời họ cũng than phiền là nhiều khi không đòi được tiền, bị quỵt nợ mà không biết kêu ai.
Ngày nay, với xu hướng nới lỏng hơn với TDTM, nó phát triển mạnh mẽ với khối lượng tín dụng tiến dần tới khối lượng hàng hóa. Cùng với khối lượng sản xuất kinh doanh, khối lượng vốn tăng lên theo đà phát triển kinh tế, khối lượng TDTM cũng đang ngày càng tăng mạnh. Trong trường hợp hàng hóa đặc biệt và hạn chế về số lượng, các hộ kinh doanh còn ứng trước tiền để đặt hàng. Thời hạn tín dụng ở đây thường từ 15 ngày đến 1 tháng.
Cùng với sự tăng lên của khối lượng TDTM, rủi ro nó mang đến cũng tăng lên đáng kể. Lẽ dĩ nhiên, buôn bán phát triển, lợi nhuận hấp dẫn, người ta quan tâm đến điều đó chứ không phải những giao ước bằng lời.
Như vậy TDTM là một mảng không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh, nhất là trong hoàn cảnh thiếu vốn của ta hiện nay.
2.2. Chưa có những quy định cụ thể cho TDTM
Trước đây, dù nhà nước có cấm ngặt TDTM thì nó vẫn ngấm ngầm tồn tại. Cho đến nay vẫn chưa có luật lệ cụ thể nào về thương phiếu, nghiệp vụ chiết khấu bị bỏ ngỏ, lại chưa có thị trường cổ phiếu... gây nhiều cản trở cho TDTM phát huy tác dụng.
2.3. Rủi ro đầy rẫy trong TDTM ở Việt Nam do chưa được thừa nhận và bảo đảm bởi pháp luật.
- Hiện tượng di chuyển mạnh mẽ của loại hình tín dụng này làm lệch cân đối. Tín dụng của ngân hàng địa phương. Nó làm di chuyển nguồn vốn vay ngân hàng vì ngân hàng cho doanh nghiệp vay, doanh nghiệp lại bán chịu cho nơi khác nên vốn ngân hàng cho vay gồm luôn phần TDTM của doanh nghiệp và di chuyển luôn sang nơi mua chịu hàng hóa của doanh nghiệp. Hiện tượng này còn có thể làm lệch cung cầu vốn trong từng khu vực hay từng ngành, ảnh hưởng mạnh mẽ tới lãi suất thị trường.
- TDTM gây rủi ro cho TDNH
Ngay cả khi cấm TDTM, nó vẫn tồn tại dưới hình thức chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp, không trả lãi và không có kỳ phiếu nhận nợ. Điều này dẫn đến tình trạng công nợ dây dưa khó đòi mà trong giai đoạn I năm 1995 đã lên tới 10.000 tỷ đồng lớn hơn tổng số dư nợ vay toàn bộ hệ thống ngân hàng thời kỳ đó. Nhiều khi ngân hàng bị mất trắng do chủ nợ chặn hàng siết nợ hoặc đẩy ngân hàng đến chỗ cho vay không có vật tư bảo đảm. Mặt khác, nhiều khoản vay ngân hàng bị sử dụng sai mục đích vì phải trang trải cho các món nợ TDTM đã vay vì TDTM mang tính bắt buộc, người mua buộc phải trả tiền vô điều kiện khi đến hạn. Nếu không có khả năng thanh toán, để khỏi vỡ nợ, các doanh nghiệp bù đắp TDTM bằng các khoản vay khác.
- Hiện tượng quỵt nợ, công nợ dây dưa, chiếm dụng vốn lẫn nhau là phổ biến vì không có thương phiếu bảo đảm. Do đó trong vụ vỡ nợ Soái Kình Lâm, thiệt hại lên tới 100 tỷ đồng.
Cách khắc phục
3.1. Hợp pháp hóa TDTM nên làm dần từng bước cùng với sự hoàn thiện hệ thống luật. Cụ thể:
- Sớm ban hành pháp luật về thương phiếu, hướng dẫn cụ thể cho doanh nghiệp cùng các thương nhân biết rõ tính chất của từng loại thương phiếu hay nhận diện được thương phiếu, đưa TDTM vào quỹ đạo thanh toán sòng phẳng.
- Ban hành pháp lệnh điều chỉnh nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu từ điều 21 đến 24 quyết định 198 quy định chứng từ có giá còn chung, việc hướng dẫn thủ tục nghiệp vụ, hạch toán kế toán, chiết khấu chưa đầy đủ. Để thi hành điều luật 57 luật các tổ chức tín dụng, NHNN nên tách ra xác lập riêng thể lệ chiết khấu, cầm cố thương phiếu.
- Chống thất thu thuế. Việc giao dịch trong TDTM không thể hiện rõ trên thương phiếu, dẫn đến nhà nước không thu được thuế: nên tiến hành thu thuế trên giá trị thương phiếu.
- Thực hiện kiểm toán nội bộ giúp điều hành thanh tra, giám sát hoạt động hối phiếu của các ngân hàng thành viên.
3.2. Hiện đại hóa hệ thống ngân hàng
- Nâng cao nghiệp vụ của ngân hàng nhất là nghiệp vụ chiết khấu, đảm bảo cho TDTM thuận lợi, đồng thời phải có cơ chế để các doanh nghiệp không thể chiếm dụng vốn lẫn nhau.
- Sử dụng nhiều loại cho vay để kiểm soát chặt chẽ ảnh hưởng của TDTM. Có nhiều loại cho vay với TDTM như cho vay chiết khấu thương phiếu cho vay theo chứng từ gửi hàng theo tàu, cho vay động sản hóa các khỏan TDTM, cho vay bao thu nợ, cho vay nhà thầu về các khoản phải đòi ngân sách trong thời gian chờ kinh phí, cho vay thương phiếu ghi băng từ...
Thực chất, khoản nợ phải đòi người mua là khoản có tính rủi ro cao. Nó nằm trong phạm vi vốn lưu động của doanh nghiệp. Cho vay bằng nhiều loại vào khoản này tạo điều kiện cho ngân hàng kiểm soát sâu các khoản TDTM để sàng lọc những gì cho vay được và biết mục đích sử dụng vốn.
- Đơn giản hóa thủ tục hành chính. Ở nước ta, thủ tục hành chính rất rườm rà, làm cho chất lượng tín dụng không bảo đảm, hơn nữa nhiều khi chúng chồng chéo lên nhau tạo những kẽ hở đáng lo ngại. Vì vậy, phải tiến hành cải cách hành chính sao cho việc giao dịch với khách hàng chiết khấu đơn giản mà vẫn đảm bảo tính nguyên tắc, an toàn.
- Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ ngân hàng. Hiện nay đa số cán bộ ngân hàng không có trình độ và năng lực cần thiết. Mặt khác, chúng ta thiếu trầm trọng những chuyên viên am hiểu về hoạt động ngân hàng. Vì vậy cần có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ mới, đủ năng lực đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của ngành ngân hàng.
- Trong sạch hóa đội ngũ cán bộ ngân hàng. Đây là đòi hỏi bức thiết vì hàng loạt những vị tham nhũng, vay ngân hàng không có thế chấp hoặc không có khả năng trả nợ đều do cán bộ ngân hàng làm sai nguyên tắc, ăn hối lộ như vụ Minh Phụng, Epco...
3.3. Xây dựng thị trường cổ phiếu
Việc này làm tăng khả năng lưu thông và hoán chuyển của thương phiếu giảm rủi ro cho người bán chịu. Trong trường hợp người bán cần vốn, họ dễ dàng đem bán quyền sở hữu thương phiếu để lấy tiền trước thời hạn. Thông qua thị trường với sự cạnh tranh, thương phiếu được bán với giá cao nhất có thể nên nó khuyến khích được người kinh doanh.
3.4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp và báo cáo lại
Nhờ hoạt động này, thông tin về doanh nghiệp tương đối đầy đủ và cập nhật, giúp khách hàng tránh rủi ro, góp phần ổn định kinh tế, xã hội.
TÍN DỤNG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Tình hình
Trong các quan hệ quốc tế, quan hệ về tài chính - tín dụng - ngân hàng là quan hệ phổ biến giữa các nước trên thế giới hiện nay; mối quan hệ này được đặc biệt quan tâm ở các nước đã và đang phát triển đối với các nước kém phát triển.
Đảng, Nhà nước ta đã xác định đường lối phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH là tăng trưởng nhanh và bền vững cả trước mắt cũng như lâu dài phải dựa trên hai yếu tố: Nội lực và ngoại lực, trong đó nội lực là yếu tố quyết định và bên ngoài là yếu tố quan trọng. Chính vì vậy, hơn 10 năm qua nước ta đã sử dụng vốn vay nước ngoài chủ yếu là vay vốn ODA, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn viện trợ cùng với nguồn lực tài chính trong nước là yếu tố quyết định để xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội và đã đạt nhiều kết quả đáng khích lệ; Mức tăng trưởng kinh tế mấy năm qua xấp xỉ 8%, nước ta đã dần dần khẳng định vị thế trên thế giới và các nước trong khu vực; Đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân được nâng lên một bước khả quan.
Một trong những yếu tố tạo nên thắng lợi về phát triển kinh tế thời gian qua là nguồn vốn vay nước ngoài mà chủ yếu là vay vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của nhiều nước.
15%
85%
Biểu đồ: Nợ vay nước ngoài và tín dụng thương mại quốc tế năm 2010
Tính đến thời điểm này, nước ta đang có số nợ vay khoảng 14 tỷ USD, trong đó vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) chiếm khoảng 85%, còn lại trên là 15% vay tín dụng thương mại. Hàng năm ngân sách nhà nước bố trí chi khoảng 1/3 tổng số tiền chi trả nợ để trả nợ nước ngoài, chủ yếu là vốn ODA của các nước phương Tây.
Tình hình kinh tế nước ta đang trên đà tăng trưởng, nguồn đầu tư trực tiếp bằng vốn nước ngoài (FDI) và nguồn vốn của các nhà đầu tư trong nước tăng lên thì lượng vốn vay ODA nên giảm dần và có thể vay vốn tín dụng thương mại thông thường ở các tổ chức OCR, vay của ADB, vay của IBRRD, hoặc của WB … khi cần thiết.
Chúng ta cũng không nên dựa vào ngưỡng an toàn cho nợ nước ngoài theo tập quán quốc tế là 50% GDP. Thực tế ở nước ta thì năm 2000 tỷ trọng nợ gần 40% trong GDP; Dự kiến năm 2006 là gần 37% GDP; Bình quân 2001-2005 là gần 36% GDP; Ước năm 2009-2010 tỷ trọng khoảng 37% GDP. Vì mỗi thời kỳ, mỗi nước có những đặc điểm về kinh tế và xã hội khác nhau, không vì theo tập quán quốc tế ấy để dẫn đến tình trạng “tốt vay dày nợ”…
Trong giai đoạn 2006-2010 và tiếp theo đến 2015, nước ta dần dần đi vào thế ổn định khi gia nhập WTO, sẽ được hưởng những thuận lợi nhất định. Xu hướng đẩy mạnh huy động nguồn vốn của các nhà đầu tư trong nước, nhà nước và nhân dân đều có lợi và tạo ra khả năng phát triển bền vững. Đồng thời tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp đầu tư 100% vốn (FDI) để giảm dần số dư nợ vay hiện nay xuống đến mức hợp lý; Từ đó số chi trả nợ từ ngân sách nhà nước hàng năm chỉ còn 1/4 đến 1/5 số tiền chi để trả nợ cho nước ngoài; Trường hợp cần thiết phải vay ODA hoặc vay tín dụng thương mại thông thường của các nước phải đặt hiệu quả là chỉ tiêu hàng đầu cho mỗi lần vay, cho mỗi dự án.
Nhà nước và từng doanh nghiệp cần cân nhắc kỹ lưỡng về hiệu quả cho mỗi lần vay, có cơ chế kiểm soát chặt chẽ việc giải ngân vốn vay bao gồm cả vay ưu đãi (ODA) và vay thương mại thông thường. Cần quy định trách nhiệm kinh tế và hành chính của người đi vay thì chắc chắn việc sử dụng và quản lý vốn vay nước ngoài sẽ là động lực quan trọng góp phần tích chực đưa nước ta tiến nhanh, tiến vững chắc sớm ra khỏi danh sách các nước chậm phát triển trên thế giới.
TDTM quốc tế với những vấn đề cần tháo gỡ
Sự bùng nổ hình thức TDTM quốc tế trong mấy năm gần đây đặt nước ta vào tình trạng hết sức khó khăn vì một mặt, TDTM quốc tế là công cụ thuận lợi cho kinh doanh quốc tế, nó làm tăng đáng kể khối lượng xuất nhập khẩu, khuyến khích sản xuất hàng hóa xuất khẩu cũng như các ngành sản xuất có đầu vào là nguyên liệu ngoại nhập, mặt khác nó cũng gây những hậu quả cho nền kinh tế với hiện trạng.
2.1. Quản lý TDTM quốc tế đang bị thả lỏng
- Do thiếu hiểu biết, người ta ngộ nhận rằng nguồn vốn thu hút từ việc mở L/c trả chậm là nguồn vốn rẻ tiền và có thể dùng thoải mái tới mức họ quên đi những rủi ro đáng lo ngại và hậu quả xấu cho đất nước và các ngân hàng lao vào nghiệp vụ này một cách phiêu lưu. Nguyên nhân chính ở đây là việc quản lý hình thức tín dụng này hầu như bị thả nổi. Quỹ tiền tệ quốc tế khuyên ta nên hạn chế doanh nghiệp vay nước ngoài cho phù hợp với khả năng trả nợ nhưng con số vẫn không ngừng gia tăng.
Người ta cảnh báo rằng, nguy cơ đáng lo ngại là có những công ty TNHH với số vốn trong TNHH chỉ có 3 tỷ đồng như
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng tín dụng thương mại trong nước và quốc tế của việt nam hiện nay.doc