Tiểu luận Thương mại điện tử và thực trạng ứng dụng thương mại điện tử tại Việt Nam

Trong loại hình cơ bản nhất của giao dịch, khách hàng đến cửa hàng lựa chọn những sản phẩm mà họ muốn mua, trả cho người bán một khoản tiền và mang hàng về. Ngày nay trước sự bùng nổ về công nghệ thông tin - mạng máy tính và sự kết nối khắp toàn cầu - thương mại điện tử đã nổi lên như một phương thức kinh doanh quan trọng của thế kỷ .

Khi con người càng nhận thức rõ hơn, hiểu biết nhiều hơn về Internet thì thị trường điện tử cũng ngày càng trở nên quen thuộc với họ. Nếu khuynh hướng tăng trưởng số người nối mạng Internet như hiện nay được duy trì thì sẽ chẳng bao lâu nữa trong tương quan giữa hai loại thị trường, thị trường thực sẽ có xu hướng nhường chỗ dần cho thị trường ảo, thế giới của thông tin, hình ảnh. Các công ty cũng sẽ chuyển dần hoạt động kinh doanh truyền thống của mình sang kinh doanh điện tử để khai thác những lợi ích được tạo ra từ phương thức kinh doanh này.

 

doc30 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6404 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Thương mại điện tử và thực trạng ứng dụng thương mại điện tử tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiểu theo nghĩa rộng. Điều 2 của Luật mẫu định nghĩa về một số các thuật ngữ được sử dụng trong luật. Thông điệp dữ liệu "Data Message" được xác định: Đây là thông tin được hình thành, gửi, nhận hoặc lưu giữ bằng các phương tiện điện tử, quang học, và các phương tiện có ý nghĩa tương tự bao gồm, nhưng không giới hạn ở: Trao đổi dữ liệu (EDI), thư điện tử (email), điện tín (Telegram), điện báo (telex), hoặc sao chép từ xa (Telecopy). Như vậy mặc dù không có điều khoản nào định nghĩa về thương mại điện tử, song theo quan điểm này thì thương mại điện tử là được hiểu theo nghĩa rộng. Trong Chương II của Luật mẫu quy định về các vấn đề như chứng từ viết, sự thừa nhận về mặt pháp lý với các thông điệp dữ liệu, chữ ký điện tử. Từ Điều 5 đến Điều 10 trong Chương này đề cập đến vấn đề sửa đổi những cản trở pháp lý đối với các giao dịch điện tử trong hoạt động thương mại. Bằng những điều khoản này, các doanh nghiệp thực hiện thương mại điện tử hoàn toàn có thể yên tâm áp dụng thương mại điện tử mà vẫn đảm bảo được giá trị pháp lý và bảo vệ được lợi ích hợp pháp của mình. Các tài liệu điện tử được chính thức thừa nhận trong Điều 5 của Luật mẫu: "Không thể phủ nhận hiệu lực pháp lý, giá trị và khả năng thi hành, cưỡng chế đối với các thông tin chỉ dựa trên một cơ sở là nó có hình thức ở dạng thông điệp dữ liệu". Như vậy các thông tin, tài liệu dưới dạng thông điệp dữ liệu như định nghĩa ở Điều 2 có giá trị pháp lý, giá trị thi hành, hiệu lực như các thông tin ở dạng khác. Đồng thời, trong hoạt động thương mại điện tử, nếu các doanh nghiệp có quy định dẫn chiếu đến Luật mẫu này của Liên Hợp Quốc, thì cũng có thể tránh được trở ngại thông thường trước đây đối với pháp luật có các quy định về tài liệu gốc, xuất trình bản gốc, hay các quy định về việc thoả thuận bằng văn bản viết. Điều 6 "Nếu luật yêu cầu thông tin phải được làm bằng hình thức viết thì một thông điệp dữ liệu được xem là đã đáp ứng yêu cầu này, nếu các thông tin chứa đựng trong đó có thể truy cập để sử dụng". Điều 7 thừa nhận các tài liệu điện tử có thể xem như các tài liệu gốc, nếu có sự đảm bảo đáng tin cậy về sự toàn vẹn của thông tin, cả về nội dung và hình thức từ thời điểm nó được tạo ra cho tới thời điểm cuối cùng được xem xét. Làm thế nào để xác định rằng mình đã thể hiện ý chí qua các tài liệu điện tử, đồng thời cũng xác định rằng đối tác là có trách nhiệm phải thực hiện những gì đã thể hiện và cam kết trong các tài liệu điện tử. Điều 7 (Signature) quy định vấn đề có liên quan đến chữ ký:" Nếu luật yêu cầu phải có chữ ký của cá nhân thì một thông điệp dữ liệu được xem là đã đáp ứng được yêu cầu này nếu: + Có một phương pháp nào đó để cá biệt hoá một cá nhân và thể hiện được sự xác nhận của cá nhân đó đối với những thông tin chứa đựng trong thông điệp dữ liệu + Phương pháp này là đáng tin cậy cũng như thích hợp đối với mục đích mà thông điệp dữ liệu này đã hình thành và được truyền đi" Hiện nay nhờ công nghệ mật mã, xác nhận người ta có được những biện pháp đảm bảo tính chính xác của người gửi đối với các dữ liệu điện tử đó là "Chữ ký điện tử" Chương III: Quy định về việc trao đổi các dữ liệu điện tử Chương này cung cấp cho doanh nghiệp một chỗ dựa vững chắc cho việc ký kết và thực hiện các hợp đồng điện tử, cũng như việc doanh nghiệp phải gắn trách nhiệm thực hiện của mình vào những thoả thuận trên các phương tiện điện tử. Rõ ràng vấn đề này mở ra một khả năng phát triển mới trong việc khuyến khích các chủ thể trong thương mại điện tử tăng cường giao thương bằng các phương tiện điện tử. Điều 11 nói rõ rằng: nếu không có thoả thuận khác của các bên thì chào hàng, chấp nhận chào hàng có thể được thực hiện dưới dạng dữ liệu điện tử. Điều 12 ràng buộc trách nhiệm pháp lý với các chủ thể với những gì mà họ thể hiện trên các tài liệu điện tử. Phần II của Luật mẫu đề cập đến thương mại điện tử trong một số lĩnh vực xác định. Trong phần này mới chỉ đề cập một chương nói về lĩnh vực vận tải hàng hoá, các chứng từ vận tải. Phần này còn cần bổ sung và hoàn thiện trong các lĩnh vực áp dụng khác. Như vậy, rõ ràng là Luật mẫu về thương mại điện tử của UNCITRAL bằng những quy định loại bỏ những cách hiểu cũ về chứng từ gốc, tài liệu phải được ký, văn bản viết...cho thấy rằng luật này đã tính đến giải quyết những vấn đề khó khăn phát sinh trong thương mại điện tử có thể gặp ở một số nước. Thực tiễn ở một số nước, luật pháp hiện tại về việc quản lý trao đổi thông tin, vẫn có những cách hiểu đã lỗi thời trong thời đại thương mại điện tử. Dựa vào các điều luật này trong các hoạt động thương mại điện tử, các doanh nghiệp có thể xem đây là một khuôn khổ, một nền tảng, chỗ dựa để thực hiện các hành vi thương mại của mình, được bảo vệ về mặt pháp lý. Đối với các quốc gia, đây là một hình mẫu để phát triển những khuôn khổ pháp luật của mình hợp với các thông lệ quốc tế. Để nhận được sự trợ giúp từ ban thư ký UNCITRAL: cung cấp các tư vấn cho các chính phủ, về soạn thảo dưa trên nền tảng Luật mẫu, các thông tin thêm có liên quan đến Luật mẫu có thể liên hệ ban thư ký theo địa chỉ sau: International Trade Law Branch Office of legal affairs United Nations, Viena - International Centre P.O Box 500 - A-1400, Vienna, Austria Telephone: (43-1) 26060 - 4060 - Telefax: (43-1) 26060 - 5813 Email: uncitral@unov.un.or.at Internet address: 2.2./ Quy trình thực hiện một hoạt động thương mại điện tử Một hoạt động thương mại điện tử diễn ra có thể được thực hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Có doanh nghiệp chỉ áp dụng thương mại điện tử như một phương thức để quảng cáo giới thiệu hàng hoá, có doanh nghiệp chỉ áp dụng thương mại điện tử như một công cụ để tiến hành các trao đổi giao dịch v.v...Tuy nhiên xét một cách tương đối đầy đủ thì hoạt động thương mại điện tử có thể diễn ra theo một trình tự như sau: 1- Doanh nghiệp xây dựng cho mình một cơ sở kinh doanh điện tử trên Internet. Đây được coi như là một trụ sở giao dịch, kinh doanh của doanh nghiệp. 2- Khách hàng tới cơ sở kinh doanh điện tử của doanh nghiệp, bằng cách truy cập vào địa chỉ trên Internet của cơ sở kinh doanh đó. 3- Khách hàng và doanh nghiệp tiến hành trao đổi các tài liệu, chứng từ điện tử. 4- Đặt hàng. Việc đặt hàng có thể dễ dàng thực hiện trên Internet, chỉ đơn thuần bằng việc gửi chào hàng, chấp nhận chào hàng hay gửi phiếu đặt hàng và chấp nhận cung cấp hàng. Tất cả quy trình này đều thực hiện trên Internet. 5- Giao hàng và thanh toán. Với một số dạng hàng hoá, người ta có thể thực hiện giao hàng ngay trên Internet, chẳng hạn: các sản phẩm phần mềm, tài liệu kỹ thuật hay bất cứ hàng hoá nào dưới dạng thông tin khác. Cùng với quá trình giao hàng, thì việc thanh toán cũng diễn ra. Đối với những nước có hệ thống ngân hàng hiện đại, thanh toán có thể diễn ra ngay trên Internet, nhờ hệ thống thanh toán điện tử và tiền điện tử. 2.3./ Cơ sở kinh doanh điện tử - Website. Internet, với các tính năng đặc biệt của nó, đã giúp cho xã hội hình thành nên một hình thức tổ chức mới đó là hình thức tổ chức ảo. Tức là: các tổ chức có thể thực hiện các hoạt động của mình thông qua mạng toàn cầu Internet. Trong hoạt động kinh doanh thì đó là các "Cơ sở kinh doanh ảo".“ Cơ sở kinh doanh trên Internet ” là một địa điểm trên Internet, từ đó doanh nghiệp có thể quảng cáo, tiếp thị, bán sản phẩm, tìm nhà cung cấp hay giao tiếp với khách hàng thông qua trao đổi điện tử với những người sử dụng Internet khác nhau trên toàn thế giới. Cơ sở kinh doanh này không giống như cơ sở kinh doanh thông thường. Nó có một địa chỉ nhưng lại ở khắp nơi trên hành tinh, tất cả các khách hàng có thể đến với nó bất cứ lúc nào với thời gian hoạt động liên tục 24/24 giờ khi có nhu cầu. Điều đặc biệt thuận lợi khi áp dụng trong kinh doanh quốc tế khi có sự chênh lệch thời gian, ngày đêm ở các nước khác nhau. Cơ sở kinh doanh này cũng mở ra một phương tiện quảng cáo mới, một phương thức giao tiếp qua lại trực tiếp với khách hàng mới, một công cụ nghiên cứu thị trưòng và thu thập thông tin mới, đảm bảo sự thuận tiện, hiệu quả hơn những giải pháp truyền thống vẫn thường được sử dụng trước đây. 2.4./ Địa chỉ trên Internet Nhờ địa chỉ này mà khách hàng mới đến được với doanh nghiệp để tiến hành các hoạt động thương mại điện tử. Cùng với việc thiết lập Web site thì doanh nghiệp phải tiến hành đăng ký địa chỉ tại các nhà cung cấp dịch vụ Internet hay các tổ chức chuyên cung cấp địa chỉ khác. Đăng ký địa chỉ là vấn đề được nhiều nhà doanh nghiệp quan tâm và yêu cầu làm sao cho địa chỉ của mình dễ nhớ, ngắn gọn, truy tìm nhanh. Có một số cách đăng ký địa chỉ phổ biến hiện nay như sau. Đăng ký địa chỉ ở nước ngoài: Doanh nghiệp có thể đăng ký cơ sở kinh doanh của mình với những nhà cung cấp dịch vụ Internet ở nước ngoài như Yahoo, Altavista,... hoặc truy cập trực tiếp vào Internic – một tổ chức chuyên cung cấp địa chỉ cho người sử dụng. Địa chỉ trang Web của cơ sở này là Khách hàng có thể đăng ký bất kỳ tên địa chỉ nào miễn là tên đó không trùng với những tên đã đăng ký trước với internic. Địa chỉ này thường được cấp là Đăng ký địa chỉ ở Việt Nam: ở Việt Nam địa chỉ trang Web được cấp như sau: doanh nghiệp.com.vn (do tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam cấp). Khi đăng ký địa chỉ Website tại Việt Nam doanh nghiệp có thể liên hệ trực tiếp với nhà cung cấp dịch vụ Internet của mình. 2.5./ Chứng từ tài liệu điện tử Các chứng từ được giao dịch thông qua mạng các máy tính với nhau thì được gọi là chứng từ điện tử. Loại chứng từ này được đề cập ở đây là những chứng từ liên quan đến thương mại và được truyền qua mạng toàn cầu Internet. Điều quan trọng nhất của hoạt động trao đổi chứng từ điện tử là tính bảo mật. Tính bảo mật của thông tin được đảm bảo bằng khoa học, gọi là khoa học mật mã. Khi một bản thông tin đã được mã khoá và truyền qua mạng Internet mà nếu để cho một người thứ ba có thể lấy cắp và đọc được những thông tin trong đó tức là giải mã được thì người thứ ba này phải thực hiện một quá trình tính toán lớn đến mức không thể thực hiện được trong thực tế (dù có sự trợ giúp của các máy tính). Nếu chỉ đọc trộm được một bản mật mã (Chứng từ điện tử được mã khoá) chỉ vài dòng thì cũng phải mất hàng triệu năm. Khi hai người gửi và người nhận muốn truyền các chứng từ tin mật với nhau thì phải chuyển các chứng từ này thành mật mã theo những thuật toán được quy định. Các thông tin này thì chỉ có người nhận mới giải mã được. Chính sự ứng dụng của những công nghệ mã khoá này, khả năng bảo mật cho các chứng từ trao đổi được bảo đảm rõ ràng là một vấn đề rất quan trọng trong thương mại điện tử. Ngày nay, khi gửi các tài liệu trên Internet, để xác định trách nhiệm của người gửi với các tài liệu đó, người ta có thể đưa vào một kỹ thuật gọi là chữ ký điện tử. 2.6./ Tiền điện tử - thanh toán điện tử Ngay từ những năm 60 khi máy tính bắt đầu được sử dụng, việc tin học hoá được tiến hành đầu tiên trong các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, và kinh doanh. Đến những năm 80 các hình thức thanh toán điện tử đã được tiến hành trong nhiều nghiệp vụ ngân hàng và thương mại. Các loại thẻ thông minh, các máy ATM (máy rút tiền tự động - Automatic teller machine) - ta thấy một ví dụ điển hình đó là đã có máy rút tiền tự động ở trong trường từ hè 2004, điện tử hoá từng phần một số các chức năng của đồng tiền trong các giao dịch tài chính và thương mại được phát hành và sử dụng rộng rãi. Những điều đó đã dần dần góp phần ra đời khái niệm thanh toán điện tử mà Internet là trung tâm. Hiện nay có rất nhiều mô hình và giải pháp kỹ thuật cho hình thức thanh toán điện tử, tuy nhiên trong khuôn khổ hạn chế của đề án, không có điều kiện trình bày chi tiết. Dưới đây chỉ đề cập về những vấn đề có tính chất nguyên lý chung cho hoạt động thanh toán điện tử. Thanh toán điện tử chủ yếu dựa trên nền tảng của thẻ tín dụng. Thanh toán điện tử là một vấn đề cốt lõi của việc phát triển thương mại điện tử một cách toàn diện. Vấn đề này liên quan chủ yếu đến kỹ thuật của hệ thống ngân hàng. Tiền điện tử thực chất chỉ là những ký hiệu do người có tài khoản tại ngân hàng đưa ra nhằm trích ra từ tài khoản lưu ký của mình tại ngân hàng, việc này được thực hiện thông qua mạng công cộng Internet. Một hoạt động thanh toán điện tử diễn ra thông thường bao gồm bốn quy trình chính. 1 - Lập tài khoản 2 - Rút tiền điện tử 3 - Trả tiền cho người bán 4 - Người bán ký gửi tiền lại cho ngân hàng vào tài khoản của mình Để hoạt động thanh toán điện tử diễn ra được thì khách hàng phải rút được tiền điện tử của mình ra khỏi tài khoản của mình được lưu ký tại ngân hàng. Để rút tiền, khách hàng A tạo ngẫu nhiên một con số đóng vai trò như số xê-ri của đồng bạc giấy, là số hiệu của của đồng điền điện tử mà mình muốn rút, ký vào số hiệu đó (bằng chữ ký điện tử) và gửi đến ngân hàng. Ngân hàng kiểm tra chữ ký điện tử đó của A. Nếu đúng, ngân hàng ký lại chữ ký của mình vào số hiệu đó và gửi lại A, đồng thời trừ bớt khoản tiền đó ở tài khoản của A. Khi A muốn dùng đồng tiền đó để mua hàng của nhà cung cấp B, A chuyển cho B số hiệu nói trên có chữ ký của ngân hàng. B kiểm tra chữ ký của ngân hàng (việc này thực hiện dựa trên một kỹ thuật gọi là mã hoá). Nếu đúng thì chấp nhận khoản tiền đó đồng thời chuyển luôn vào tài khoản của mình tại ngân hàng. Toàn bộ quy trình này được thực hiện một cách tự động và hết sức nhanh chóng. Hiện nay ở những nước phát triển và có hệ thống ngân hàng hiện đại, tiền điện tử đã được đưa vào ứng dụng và đem lại rất nhiều thuận lợi cho cả người phải chi trả và người được chi trả. Đặc điểm tiêu biểu của hệ thống thanh toán điện tử và tiền điện tử là các bên sử dụng hình thức này có thể giảm được đáng kể các khoản chi phí dành cho việc thanh toán, và thực hiện được một cách tức thời ngay khi các nghiệp vụ chi trả phát sinh. 2.7./ Chữ ký điện tử Khi thực hiện các giao dịch giấy tờ, để xác minh rằng một chứng từ văn bản có sự nhất trí của chủ thể, gắn trách nhiệm của chủ thể vào văn bản, thông thường người ta phải ký vào văn bản đó. Ngày nay với thương mại điện tử, yêu cầu về việc xác nhận tính pháp lý của văn bản do một người tạo ra, gắn trách nhiệm của anh ta vào đó là một vấn đề quan trọng. Chữ ký điện tử "Electronic Signature" thực chất cũng chỉ là một mã gắn liền với những văn bản được chuyển bằng phương pháp điện tử. Đây chính là sự xác nhận tính duy nhất của người gửi. Cùng với chữ ký tay, chữ ký điện tử đảm bảo rằng người gửi văn bản sẽ bị ràng buộc nghĩa vụ vào văn bản đó. Nguyên tắc hoạt động của chữ ký điện tử dựa trên khoa học mật mã. Đây là một vấn đề kỹ thuật thuần tuý do vậy đề án sẽ không đi sâu mà phần này chỉ trình bày về: Cơ sở thừa nhận chữ ký điện tử; hiệu lực pháp lý; khái niệm về chữ ký điện tử. Chữ ký điện tử là cơ sở để thừa nhận các hợp đồng điện tử. Chữ ký điện tử thoả mãn 3 mục đích sau: Xác nhận tính trung thực của người gửi văn bản, của chứng từ điện tử đảm bảo không có sự giả mạo. Đảm bảo sự nguyên vẹn của văn bản, thông tin, dữ kiện không bị thay đổi. Đưa ra một bằng chứng xác nhận chủ thể trong các bên giao dịch. Vì thế một người không thể từ chối việc đã ký vào văn bản, kể cả người đã nhận văn bản cũng không thể từ chối mình đã nhận văn bản. Nó có tính bắt buộc như chữ ký tay. Chữ ký điện tử hoạt động trên nguyên lý mã hoá và giải mã. Về lý thuyết mật mã, một chữ ký điện tử bao gồm một thuật toán và một thủ tục kiểm tra chữ ký. Các văn bản khi gửi sử dụng chữ ký điện tử thì lý thuyết mật mã là tiêu chuẩn để xác nhận chữ ký của người gửi trên văn bản. Nếu như người gửi cố tình chối bỏ chữ ký của mình, thì lý thuyết mật mã sẽ buộc anh ta phải công nhận trách nhiệm với chữ ký. Về khía cạnh pháp lý: Hiện nay luật về thương mại điện tử ở nhiều nước, người ta đều đưa ra định nghĩa về chữ ký điện tử. Theo luật về giao dịch điện tử của Singapore (Singapore Electronic Transaction Act), định nghĩa về chữ ký điện tử như sau: "Chữ ký điện tử là bất kỳ chữ nào, ký tự nào, các con số, hay các biểu tượng khác dưới dạng số hoá, được gắn vào hay liên quan một cách logic vào các tài liệu điện tử được thực hiện với ý định xác nhận, đồng ý về tài liệu điện tử đó". "Electronic Signature: any letters, characters, numbers, or other symbols in digital form attached to or logically associated with an electronic record and executed or adopted with the intention of authenticity or approving the electronic record". Sự thừa nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử, là một vấn đề hết sức quan trọng trong thương mại điện tử. Nó thừa nhận tính hợp pháp của các tài liệu giao dịch của các chủ thể thông qua mạng Internet, thừa nhận các hợp đồng điện tử. Phải nói rằng các quan hệ thương mại của các bên trong thương mại điện tử phải được thể hiện trên các nhất trí, các thoả thuận được xác nhận. Vì vậy, nếu không thừa nhận chữ ký điện tử thì cũng có nghĩa rằng chưa thừa nhận tính hợp pháp của thương mại điện tử. Chính vì vậy ở hầu hết các nước có luật về thương mại điện tử thì cũng có luật về chữ kỹ điện tử riêng biệt, hay được đưa kèm ngay vào luật về thương mại điện tử. 3./ Lợi ích của việc ứng dụng thương mại điện tử Trong loại hình cơ bản nhất của giao dịch, khách hàng đến cửa hàng lựa chọn những sản phẩm mà họ muốn mua, trả cho người bán một khoản tiền và mang hàng về. Ngày nay trước sự bùng nổ về công nghệ thông tin - mạng máy tính và sự kết nối khắp toàn cầu - thương mại điện tử đã nổi lên như một phương thức kinh doanh quan trọng của thế kỷ . Khi con người càng nhận thức rõ hơn, hiểu biết nhiều hơn về Internet thì thị trường điện tử cũng ngày càng trở nên quen thuộc với họ. Nếu khuynh hướng tăng trưởng số người nối mạng Internet như hiện nay được duy trì thì sẽ chẳng bao lâu nữa trong tương quan giữa hai loại thị trường, thị trường thực sẽ có xu hướng nhường chỗ dần cho thị trường ảo, thế giới của thông tin, hình ảnh. Các công ty cũng sẽ chuyển dần hoạt động kinh doanh truyền thống của mình sang kinh doanh điện tử để khai thác những lợi ích được tạo ra từ phương thức kinh doanh này. Đối với các doanh nghiệp nước ta, có lẽ bước đầu tiên để có thể khuyến khích họ phát triển kế hoạch áp dụng thương mại điện tử đó là việc làm thế nào để họ có thể nhận thức được những ích lợi mà thương mại điện tử có thể mang lại. Làm rõ vấn đề này sẽ là động lực, và phương hướng chủ đạo cho các nhà doanh nghiệp mạnh dạn áp dụng công nghệ mới. 3.1./ Tính kịp thời, tính cập nhật của thông tin thương mại Internet là một thư viện khổng lồ nhất được cập nhật một cách liên tục. Ngày nay, nhận, gửi, khai thác thông tin trên Internet là nhu cầu của toàn thế giới. Thông tin chính xác đầy đủ, nhanh chóng là một đòi hỏi ngày càng cao trong hoạt động kinh doanh. Trong thương mại điện tử hiện nay người ta có thể dễ dang thu thập và tìm kiếm thông tin ở khắp các nơi trên thế giới. Dựa vào đó doanh nghiệp có thể theo sát sự biến động của thị trường nước ngoài, nắm bắt liên tục và thường xuyên các thông tin liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do khả năng thu thập được các thông tin cập nhật và truyền tin nhanh chóng, doanh nghiệp có thể thực hiện nghiên cứu, tìm hiểu thị trường và ra các quyết định kinh doanh của mình ở các thời điểm và địa điểm khác nhau. Nói về tính kịp thời của thông tin thương mại trên Internet, nhiều người đặt câu hỏi sử dụng điện thoại, fax... với khả năng truyền tin nhanh thì vẫn đảm bảo tính kịp thời, vậy ưu thế nổi trội của Internet so với các phương tiện này là gì? Điện thoại là một phương tiện phổ thông dễ sử dụng và thường mở đầu cho các cuộc giao dịch thương mại. Tuy nhiên trên quan điểm kinh doanh công cụ điện thoại có mặt hạn chế là chỉ truyền tải được âm thanh. Mọi cuộc giao dịch cuối cùng vẫn phải kết thúc bằng giấy tờ, hay các tài liệu có thể lưu trữ (Hiện nay thương mại điện tử trên thế giới, người ta thừa nhận giá trị pháp lý của các tài liệu truyền qua Internet, vì vậy các tài liệu này có thể thay cho giấy tờ truyền thống). Ngoài ra nếu tính yếu tố chi phí thì có lẽ giao dịch điện thọai nhất là giao dịch đường dài, điện thoại cao gấp nhiều lần so với các giao dịch thông qua mạng Internet. Với máy fax, có thể thay thế được dịch vụ đưa thư và gửi công văn truyền thống. Nhưng Fax lại có hạn chế là: không thể tải được âm thanh, hình ảnh phức tạp, đồng thời giá máy và chi phí còn rất cao. Hơn nữa qua thương mại điện tử bằng Internet người ta vẫn có thể gửi và nhận Fax nếu cần. 3.2./ Giảm được chi phí bán hàng và tiếp thị Nhờ thương mại điện tử thông qua Internet, công ty có thể thiết lập trực tiếp mối quan hệ với khách hàng hay rút ngắn được quá trình phân phối sản phẩm. Doanh nghiệp có thể hạ được giá thành vẫn đảm bảo được lợi nhuận. Thương mại điện tử giúp giảm thấp chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị. Bằng phương tiện Internet/Web, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với rất nhiều khách hàng, ca-ta- lô điện tử (eletronic catalogue) trên trang Web phong phú hơn nhiều và thường xuyên cập nhật so với ca-ta-lô in ấn (có khuôn khổ giới hạn và luôn luôn lỗi thời). Theo số liệu thống kê của hãng máy bay Boeing của Mỹ, có tới 50% khách hàng đặt mua 9% phụ tùng thông qua Internet và còn nhiều hơn nữa các đơn hàng về dịch vụ kỹ thuật, sửa chữa và mỗi ngày giảm được 600 cú điện thoại. Thông thường đối với một nhà sản xuất rất khó có thể thiết lập được một mạng lưới tiêu thụ rộng lớn để trực tiếp cung cấp và liên hệ với những người bán lẻ hay các khách hàng. Song hiện nay nhờ thương mại điện tử mà doanh nghiệp hoàn toàn có thể làm được điều đó. Khi thiết lập một cơ sở kinh doanh trên Internet, doanh nghiệp đã cùng một lúc thiết lập một đại lý phân phối ở nhiều nơi khác nhau, hoàn toàn loại bỏ được kênh phân phối nhiều cấp. Điều này là có lợi cho cả doanh nghiệp và khách hàng. 3.3./ Kinh doanh sử dụng cửa hàng ảo - Có thể kinh doanh tại nhà Với một cơ sở kinh doanh ảo, lợi dụng công nghệ truyền tin Internet, nhận và xử lý thông tin ở bất cứ nơi nào, cho phép các nhà quản lý kinh doanh chỉ ngồi tại nhà nhưng lại có thể kinh doanh ở bất kỳ đâu. Chẳng hạn khi doanh nghiệp thiết lập một Website - khác với cơ sở kinh doanh thực, nó hiện hữu trên các máy tính nối mạng Internet. Khi đó các khách hàng thông qua việc truy cập địa chỉ Internet của công ty, sẽ thực hiện mọi giao dịch cần thiết. Cả khách hàng và doanh nghiệp đều có thể tiến hành các giao dịch thương mại tại nhà, hay bất cứ nơi đâu. Nhờ đặc tính này mà ngay cả các hộ gia đình cũng dễ dàng tham gia kinh doanh trên mạng Internet và cạnh tranh một cách bình đẳng với những doanh nghiệp lớn. Hiện nay đặc điểm này còn được thực hiện một cách dễ dàng hơn nhờ những thiết bị mới như: Điện thoại di động nối mạng Internet. 3.4./ Nâng cao khả năng phục vụ và duy trì mối quan hệ thường xuyên với khách hàng Nhờ bộ nhớ máy tính và phần mềm được lập trình sẵn, thương mại điện tử có khả năng tự động phân tích, tổng hợp dữ liệu trên cơ sở kinh doanh ảo của người bán. Khi người mua có nhu cầu mua hàng và gửi những thông tin về mình cho doanh nghiệp thì toàn bộ thông tin này sẽ được lưu vào máy tính và tất cả các giao dịch giữa người bán và người mua sẽ được giữ lại như một cơ sở dữ liệu. Đây sẽ là những thông tin hữu ích cho người bán khi nhận biết các khách hàng quen thuộc. Với cơ sở dữ liệu đó, doanh nghiệp có thể nắm được đặc điểm của từng khách hàng, nhóm khách hàng.Từ đó, phân đoạn thị trường, hướng những chính sách phù hợp riêng biệt cho từng khách hàng. Kể từ lần mua hàng thứ hai trở đi doanh nghiệp không cần khách hàng phải cung cấp chi tiết các thông tin về mình nữa mà có thể xác định một cách nhanh chóng và cực kỳ chính xác khách hàng đó là ai. Cung cấp sản phẩm hay dịch vụ đúng với đòi hỏi của từng khách hàng sẽ là một ưu thế lớn trong việc duy trì các khách hàng quen thuộc. Tuy nhiên, để có thể tận dụng được ưu thế này thì cấu trúc hoạt động của doanh nghiệp cần phải có những điều chỉnh thích hợp. Phải đặc biệt chú trọng mối liên hệ giữa bộ phận lưu trữ, xử lý dữ liệu với các bộ phận khác, nhằm mục đích thoả mãn ngay cả một nhóm nhu cầu hay thậm chí là nhu cầu riêng biệt của từng khách hàng. Đây là lợi ích lớn cho doanh nghiệp áp dụng thương mại điện tử. Tuy nhiên sẽ là nguy cơ cho các doanh nghiệp chậm trễ trong việc triển khai một chiến lược trong thương mại điện tử, vì nếu chậm chân sẽ có nguy cơ bị mất thị trường bởi những đối thủ đi trước, do khách hàng không muốn thay đổi nhà cung cấp của mình. 3.5./ Dễ dàng đa dạng hoá mặt hàng Với Internet doanh nghiệp có thể kinh doanh hỗn hợp các loại mặt hàng khác nhau.Với kiểu bán hàng truyền thống, rất khó để có thể trang bị được một cửa hàng hỗn hợp tất cả các loại mặt hàng vì điều này đòi hỏi phải trang bị đầu tư rất lớn cho các khu để hàng, trưng bày, lưu kho hàng hoá khác nhau. Nhưng khi mở cửa hàng trên Internet không quan trọng là hàng hoá thực tế được đặt như thế nào để ở đâu. Bởi hàng hoá trưng bày chỉ là hình ảnh được sao chụp hoặc được mô tả trên cửa hàng Internet. Điều quan tâm của nhà kinh doanh là làm thế nào chuyển hàng đó tới khách hàng theo phương thức phù hợp hoặc theo phương thức mà khách hàng yêu cầu. Do đó, kể cả khi hàng hoá được để hỗn hợp trong kho thì vẫn có thể được bán bất cứ lúc nào. 3.6./ Giảm chi phí sản suất Tiết kiệm chi phí là một trong những đặc điểm quan

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docthuongmai DT-30.DOC