Tiểu luận Tiền lương trong chủ nghĩa tư bản

Sức lao động là khả năng của lao động, lao động là sự vận dụng sức lao động trong quá trình lao động.

Theo Mác thì "Lao động không phải là hàng hoá chỉ sức lao động mới là hàng hoá" vì lao động xuất hiện trong quá trình sản xuất sau khi đã mua bán. Kết quả lao động thuộc về nhà tư bản. Nên người công nhân không thể bán cái mà họ không có, công nhân chỉ có sức lao động nên chỉ bán sức lao động vậy chỉ sức lao động mới là hàng hoá. Nếu lao động là hàng hoá thì lao động phải có giá trị. Thước đo giá trị là lao động. Vậy giá trị của lao động là lao động. Điều này vô nghĩa nên sức lao động là hàng hoá.

Theo quy luật giá trị mua bán phải ngang giá ( theo đúng giá trị). Theo quy luật giá trị thặng dư thì dù trả đúng giá trị nhà tư bản vẫn thu được giá trị thặng dư.

 

doc10 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7814 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Tiền lương trong chủ nghĩa tư bản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Lời mở đầu Con người với tư cách là một sinh vật cao cấp có ý thức,sự tồn tại và phát triển của con người đòi hỏi phải có những điều kiện nhất định. Và lao động là nhu cầu thiết yếu để con người tồn tại và phát triển được. Tiền lương là một bộ phận thu nhập chính của người lao động, có tác dụng kích thích vật chất rất mạnh. Tiền lương là một hình thức phản ánh chính xác XHTBCN. Từ đó nhìn bề ngoài dường như toàn bộ lao động mà công nhân đã hao phí đều được nhà tư bản trả công đầy đủ. Xã hội tư bản dường như là một xã hội công bằng, không ai bóc lột ai. Nhưng thực chất khi một nhà tư bản thuê công nhân, trả lương đầy đủ giá trị sức lao động thì người công nhân vẫn bị bóc lột. Đề tài này em rất tâm đắc và muốn trình bày ý kiến của mình một cách chân thực. Song bài viết này của em không thể tránh khỏi những thiếu sót em rất mong sự góp ý của thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! Tài liệu kinh tế chính trị sử dụng trong bài viết Quy luật giá trị Tiền lương Giá trị thặng dư B. Nội dung I. Nội dung của quy luật giá trị Quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Theo quy luật này, sản xuất và trao đổi hàng hoá được thực hiện theo hao phí lao động xã hội cần thiết. Những người sản xuất và trao đổi hàng hoá tuân theo mệnh lệnh của giá cả thị trường. Thông qua sự vận động của gia cả thị trường sẽ thấy được sự hoạt động của quy luật giá trị. Giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị hàng hoá và trở thành cơ chế tác động của quy luật giá trị. Cơ chế này phát sinh tác dụng trên thị trường thông qua cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền. Điều này cắt nghĩa vì sao khi trình bày quy luật kinh tế chi phối hoạt động của sản xuất và lưu thông hàng hoá người ta chỉ trình bày quy luật giá trị, một quy luật bao quát cơ bản của bản chất và các nhân tố cấu thành cơ chế tác động của nó. Do tầm quan trọng của cơ chế tác động và để tăng ý nghĩa thực tiễn của quy luật giá trị, những năm gần đây các nhà kinh tế học thấy cần phải nhấn mạnh các nhân tố cạnh tranh, lượng tiền cần thiết cho lưu thông và cung cầu đối với sự biến động của giá cả thị trường và trình bày chúng thành các quy luật cạnh tranh, cung cầu và lưu thông tiền tệ. Mặc dù được trình bày thành những quy luật kinh tế riêng, song về nhận thức lý luận, chúng ta cũng chỉ nên coi chúng là những quy luật kinh tế phát sinh từ quy luật giá trị, hiểu theo nghĩa đầy đủ của quy luật này. Như vậy, theo quy luật giá trị hàng hoá khi mua bán phải ngang giá. Vậy khi mua sức lao động nên sức lao động trở thành hàng hoá do đó cũng cần phải ngang giá. II. Bản chất tiền lương 1. Tiền lương che dấu thực chất bóc lột của chủ nghĩa Tư bản Tiền lương trong chủ nghĩa tư bản là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, nhưng lại biểu hiện như giá cả của lao động. 2. Bản chất tiền lương trong chủ nghĩa tư bản Sức lao động là khả năng của lao động, lao động là sự vận dụng sức lao động trong quá trình lao động. Theo Mác thì "Lao động không phải là hàng hoá chỉ sức lao động mới là hàng hoá" vì lao động xuất hiện trong quá trình sản xuất sau khi đã mua bán. Kết quả lao động thuộc về nhà tư bản. Nên người công nhân không thể bán cái mà họ không có, công nhân chỉ có sức lao động nên chỉ bán sức lao động vậy chỉ sức lao động mới là hàng hoá. Nếu lao động là hàng hoá thì lao động phải có giá trị. Thước đo giá trị là lao động. Vậy giá trị của lao động là lao động. Điều này vô nghĩa nên sức lao động là hàng hoá. Theo quy luật giá trị mua bán phải ngang giá ( theo đúng giá trị). Theo quy luật giá trị thặng dư thì dù trả đúng giá trị nhà tư bản vẫn thu được giá trị thặng dư. Như vậy dù công nhân được trả đúng giá trị sức lao động thì người công nhân vẫn bị bóc lột vì theo đúng quy luật mua bán khi mua sức lao động phải ngang giá vì giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động khi người công nhân lao động tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó. Giá trị bản thân chính là tiền lương. III. Hai hình thức tiền lương cơ bản 1. Lương theo thời gian: Theo thời gian làm việc, theo ngành chuyên môn của người lao động. Hình thức phản ánh mức độ nào đó về chất lượng lao động, điều kiện lao động và trình độ lao động của công nhân. Nhưng vẫn phân biệt tổng số tiền lương của một ngày, một tuần, một tháng với tiền công trả lương cho 1 giờ lao động. Nhà tư bản có thể kéo dài ngày lao động, để hạ thấp tiền lương theo thời gian của công nhân, nâng cao năng suất lao động cũng có nghĩa là như thế. Điều đó có lợi cho nhà tư bản: khi hàng hoá tiêu thụ rễ ràng thì nhà tư bản kéo dài thêm ngày lao động, lương của công nhân có thể được tăng, nhưng hàng hoá sản xuất được cũng nhiều hơn do đó giá trị thặng dư nhiều hơn. Ngược lại, nếu tình hình thị trường không tốt thì nhà tư bản rút ngắn ngày lao động lại và trả lương công nhân theo giờ, do đó công nhân không đủ việc làm, thất nghiệp và tiền lương thụt xuống. Tiền lương trả theo thời gian gồm hai chế độ. Chế độ trả lương theo thời gian đơn giản: Là chế độ mà tiền lương nhận được của mỗi người công nhân do mức lương cấp bậc và thời gian làm việc thực tế của mỗi người. Chế độ trả lương theo thời gian có thưởng: Thực chất của chế độ này là sự kết hợp giữa sự trả lương theo thời gian giản đơn với tiền lương khi đạt được những chỉ tiêu về số lượng và chất lượng quy định. 2. Lương theo sản phẩm Là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào số lượng, chất lượng và đơn giá sản phẩm do người công nhân làm ra hay công việc hoàn thành. Hình thức này chủ yếu được áp dụng cho công nhân sản xuất. Nơi mà có các định mức lao động khoa học cụ thể, có thể xác định được mức thời gian hao phí cho một sản phẩm và tính được đơn giá sản phẩm. Tuy nhiên để làm tốt công tác trả lương theo sản phẩm cần chú ý việc xây dựng các định mức lao động, tổ chức phục vụ nơi làm việc là có công tác nghiệm thu kiểm tra chất lượng sản phẩm. Tiền lương tính theo sản phẩm chỉ là một hình thức chuyển hoá của tiền lương theo thời gian, vì việc trả lương theo đơn giá cũng chính là trả công cho một thời gian cần thiết nhất định để tạo ra một đơn vị sản phẩm. Thực hiện hình thức tiền lương tính theo sản phẩm một mặt giúp cho nhà tư bản trong việc quản lý, giám sát quá trình lao động của công nhân rễ ràng hơn, mặt khác kích thích công nhân lao động tích cực, khẩn trương tạo ra nhiều sản phẩm để thu được tiền lương cao hơn. Tiền lương theo sản phẩm làm cho quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa ngày càng bị che dấu đi. Công nhân làm ra nhiều sản phẩm, lĩnh nhiều lương khiến người ta lầm tưởng rằng lao động đã được trả công đầy đủ, vẫn đem hết sức mình ra làm việc ngày đêm. Khi cường độ lao động tăng lên thì nhà tư bản lại hạ thấp đơn giá sản phẩm xuống. Kết quả là công nhân làm việc ngày càng nhiều thì lương càng ít. Đó là đặc điểm quan trọng của tiền lương theo sản phẩm dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Tiền lương theo sản phẩm có nhiều chế độ. Trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân: Đây là loại hình trả công áp dụng đối với công nhân trực tiếp sản xuất. Trong điều kiện lao động của họ công việc mang tính chất độc lập tương đối có thể kiểm tra, định mức nghiệm thu rõ ràng. Trả lương theo sản phẩm nhóm: Đây là hình thức trả lương cũng được áp dụng đối với những công việc cần một nhóm người phối hợp như: lắp ghép thiết bị, sản xuất trên dây truyền.... đơn giá tiền lương thường được tính dựa trên cơ sở định mức lao động khoa học và kinh nghiệm. Sau khi hoàn thành sản phẩm nhóm lao động sẽ có tổng tiền lương thực lĩnh dựa trên đơn giá sản phẩm và khối lượng sản phẩm hoàn thành. Tiền lương thực lĩnh được chia theo giờ quy đổi hoặc hệ số quy đổi. Trả lương theo sản phẩm gián tiếp: áp dụng cho công nhân phụ. Công việc của họ có ảnh hưởng đến kết quả lao động của công nhân chính hưởng lương theo sản phẩm. Tiền lương của công nhân phụ tính bằng cách lấy mức độ hoàn thành tiêu chuẩn sản phẩm của công nhân chính nhân với mức tiền lương công nhân phụ. Trả lương khoán: áp dụng đối với những công việc mang tính chất toàn bộ. Nếu giao từng bộ phận, từng chi tiết sẽ không có lợi. Toàn bộ những công việc này được giao cho nhóm, tổ, đội sản xuất trong một thời gian nhất định và được trả một số tiền nhất định. Số tiền thường được dựa trên cơ sở phức tạp và thời gian để hoàn thành công việc đó. Trong thực tế số tiền khoán này thường được dựa trên sự thoả thuận giữa người giao khoán và người thực hiện công việc. Loại hình trả lương này áp dụng rộng rãi trong xây dựng cơ bản, nông nghiệp và sửa chữa.... cũng giống như hình thức trả lương theo sản phẩm nhóm. Sau khi nhận được tiền công khoán, việc chia lương cho các thành viên trong nhóm thường được căn cứ vào hệ lương của từng thành viên và mức độ tham gia đóng góp của từng người đối với việc hoàn thành công việc chung của nhóm. Trả lương theo sản phẩm có thưởng: áp dụng trong các trường hợp doanh nghiệp cần hoàn thành gấp một số công việc trong một khoảng thời gian nhất định nhằm thực hiện mục đích kinh doanh. Thực chất đây là hình thức trả lương sản phẩm kết hợp với tiền thưởng theo một tỷ lệ nhất định đối với các sản phẩm thực hiện trên định mức. IV. Nhà tư bản bóc lột công nhân theo chế độ trả lương 1. Tiền lương danh nghĩa: Là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao động của mình cho nhà tư bản. Tiền lương được sử dụng để sản xuất và tái sản xuất sức lao động do đó tiền lương danh nghĩa phải được chuyển hoá thành tiền lương thực tế. 2. Tiền lương thực tế: Là tiền lương được biểu hiện bằng số lượng hàng hoá tư liệu tiêu dùng và dịch vụ mà người công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình. Tiền lương danh nghĩa là giá cả hàng hoá sức lao động nó có thể tăng lên hay giảm xuống tuỳ theo sự biến động trong quan hệ cung cầu về hàng hoá sức lao động trên thị trường. Trong một thời gian nào đó, nếu tiền công danh nghĩa vẫn giữ nguyên, nhưng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ tăng lên hay giảm xuống thì tiền công thực tế giảm xuống hay tăng lên. Mác đã chỉ rõ tính quy luật của sự vận động tiền lương trong chủ nghĩa tư bản như sau: Trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, tiền công danh nghĩa có xu hướng tăng lên nhưng mức tăng của nó nhiều khi không theo kịp với mức tăng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ, tuy đó tiền lương thực tế của giai cấp công nhân có xu hướng hạ thấp. VD: ở Liên Bang Caliphoocnia (Mỹ) tiền lương tối thiểu 3,35USD một giờ được quy định từ tháng 1/1987, sau hơn 7 năm vẫn không thay đổi trong khi đó số giá cả sinh hoạt đã tăng lên 30%. Tóm lại sau chiến tranh thế giới thứ 2, đặc biệt là sau những năm 1950 -1960 đến nay, trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật mới phát triển như vũ bão và mâu thuẫn của xã hội tư bản cũng gay gắt hơn, do phong trào đấu tranh rất mạnh của công nhân và lao động ở từng nước tư bản và trên phạm vi thế giới, do ảnh hưởng của Liên Xô (trước đây) và các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp tư sản đã dùng mọi biện pháp cải lương để hoà hoãn mâu thuẫn xã hội. So với trước chiến tranh, chế độ bóc lọt của chủ nghĩa tư bản đương đại đã xuất hiện một số hình thức mới. Đặc biệt là ở các mặt của quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, từ mối quan hệ quyền sở hữu tư bản đến các mắt xích của tái sản xuất, mối quan hệ giữa lao động làm thuê và tư bản đều có những biến dạng. Đặc điểm chủ yếu của nó là: về quyền sở hữu, tư bản đã dùng biện pháp phát hành rộng rãi cổ phiếu tiểu ngạch và nới rộng quyền cổ đông, thực hiện cái gọi là "tư bản dân chủ" về sản xuất và quản lý kinh doanh, dùng biện pháp người sản xuất trực tiếp tham gia quản lý và rút ngắn thời gian lao động của công nhân thực hiện cái gọi là "quản lý dân chủ hoá" và " lao động nhân tạo hoá" về phân phối dùng các " chế độ phúc lợi" xã hội xây dựng cái gọi là" nhà nước phúc lợi" hình thức hiện đại của chế dộ bóc lột tư bản chủ nghĩa một tấm áo mới dường như giai cấp công nhân ngày nay không còn bị bóc lột nữa và chủ nghĩa tư bản ngày nay dường như đã có sự thay đổi về chất. Thực ra tất cả những thủ đoạn đó không thể làm thay đổi bản chất của nền thống trị của tư bản độc quyền đương đại không thể thay đổi được địa vị của người công nhân làm thuê, không che dấu được việc nâng cao mức độ bóc lột của chủ nghiã tư bản trong giai đoạn hiện nay. V. Các biện pháp khắc phục 1. Các biện pháp Sớm cải cách căn bản chế độ tiền lương, phụ cấp theo lương để người lao động đủ nuôi sống bản thân và gia đình, toàn tâm toàn ý với công việc, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm Khắc phục tình trạng tiền lương thấp, thấp hơn thu nhập ngoài lương tức là điều chỉnh sao cho tiền lương danh nghĩa bằng tiền lương thực tế. Phát huy tối đa nguồn nhân lực mà con người với trí tuệ, bản lĩnh, văn hoá. Tính sáng tạo của người lao động cần được đãi ngộ thoả đáng. Tiền lương đảm bảo mức sống tương xứng với nhịp độ tăng thu nhập trong xã hội." Từng bước mở rộng vững chắc hệ thống bảo hiểm và an ninh xã hội, tiến tới áp dụng chế độ bảo hiểm cho tất cả mọi người dân lao động, mọi tầng lớp nhân dân "(văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ IX – NXB chính trị Quốc gia 2001 – trang 8) Bên cạnh áp dụng đầy đủ nhu cầu sinh hoạt cần có thời gian hợp lý hơn để công nhân có thời gian vui chới giải trí 2. Kích thích lao động bằng tiền lương Tiền lương bảo đảm tái sản xuất sức lao động nó không ngừng nâng cao đời sống vật chất văn hoá cho người lao động. Tiền lương đảm bảo những nhu cầu bức thiết, nhu cầu cơ bản của con người. Thông qua tiền lương có thể mua tư liệu sinh hoạt như: ăn, ở, mặc... chính vì vậy tiền lương là một loại hình kích thích vật chất rất mạnh đối với người lao động. Tiền lương là bộ phận thu nhập chính của người lao động. Vì vậy để nâng cao mức sống thì người lao động cần phải nâng cao mức thu nhập thông qua tiền lương. Trong quá trình thoả mãn này thì nhu cầu của con người không ngừng được sinh ra và tất yếu là muốn thoả mãn nhu cầu này thì con người cần phải làm việc Tiền lương là một trong những yếu tố nâng cao năng xuất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Trước hết tiền lương là một chi phí đầu vào của sản xuất, đó chính là chi phí về lao động. Và mục đích của doanh nghiệp chính là sử dụng tối đa nguồn nhân lực của mình để phục vu cho sản xuất kinh doanh. Để thực hiện được điều này doanh nghiệp phải trả lương một cách hợp lý để thúc đẩy người lao động làm việc, nâng cao năng xuất lao động. Cách trả lương hợp lý là đòi hỏi tiền lương phải gắn liền với số lượng, chất lượng hiệu quả lao động, làm cho tiền lương thể hiện được quyền lợi sát sườn của người lao động và gắn với kết quả lao động. Hiện nay có một số quan điểm cho rằng tiền lương là một khoản đầu tư về con người, đảm bảo cho con người lao động học tập, nâng cao trình độ lành nghề. Do vậy nâng cao năng suất lao động và đạt hiệu quả kinh doanh. Tiền lương, tiền thưởng là một yếu tố có tác dụng phân phối lại sức lao động giữa các nghành, các vùng và kích thích lao động giỏi. Một nền kinh tế luôn có nhiều nghành, nhiều lĩnh vực và vai trò của mỗi nghành, mỗi lĩnh vực rất khác nhau. Do vậy nhà nước cần có sự ưu tiên phát triển một số ngành nhất định thông qua các chính sách tiền lương, tiền thưởng. Kích thích tinh thần người lao động: Xây dựng được một hệ thống đồng cảm trong tập thể bằng cách xây dựng một tập thể vững mạnh đoàn kết. Tôn trọng giá trị doanh nghiệp và lấy giá trị lao động làm cơ sở. Tạo ra bầu không khí lao động lành mạnh, nâng cao năng suất lao động. Kích thích vai trò, vị trí và giá trị người lao động: Vai trò vị trí người lao động thông qua các thành tích của họ đạt được trong thực tế. Vai trò nó thể hiện sự uy tín, sự tôn trọng của người khác đối với mình, nó khẳng định danh dự của mỗi người . Kích thích nghề nghiệp: Biện pháp ưu tiên một số nghành nghề, lĩnh vực hay một bộ phận nhất định để tạo điều kiện phát triển chúng bằng các hình thức như là: bàn tay vàng, thợ giỏi hay bằng sáng tạo... khuyến khích người lao động trong toàn doanh nghiệp bằng các danh hiệu thi đua: Lao động tiên tiến, lao động giỏi Để tạo động cơ lao động không chỉ quan tâm đến đời sống vật chất mà phải quan tâm đến khía cạnh tinh thần đặc biệt là phải hiểu được người lao động làm việc vì cái gì? động cơ gì? và các nhu cầu của họ. Thực tế nhiều sinh viên ra trường với tấm bằng loại giỏi lại thích làm việc ở những công ty nước ngoài hay công ty TNHH đơn giản chỉ vì lương cao. Lương trong các Công ty liên doanh cao mà người công nhân vẫn bị bóc lột do năng suất lao động cao. Lương trong các xí nghiệp quốc doanh thấp nhưng công nhân không bị bóc lột do năng xuất lao động thấp. Kết luận Tiền lương là một khâu độc lập trong cơ chế quản lý kinh tế, thông quá tiền lương những tác động tích cực trong quá trình lao động, trong quá trình tái sản xuất sức lao động được thể hiện. Khả năng sử dụng tiền lương như là đòn bẩy kinh tế hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ thoả mãn nhu cầu vật chất cơ bản đối với người lao động của chính tiền lương. Chế độ tư bản luôn có sự bóc lột. Tiền lương trong chủ nghĩa tư bản thể hiện bản chất đích thực của nó khi tận dụng để bóc lột sức lao động của giai cấp vô sản một cách tinh vi nhất. Theo Mac " Xu hướng cơ bản của chủ nghĩa tư bản trong quá trình tích luỹ của nó là dẫn tới sự bần cùng hoá tương đối và tuyệt đối của giai cấp vô sản" Hồ Chủ Tịch đã nói" Công nhân trong nhà máy, lao động trí óc và chân tay đều có lương bổng. Lương bổng theo sức lao động của mình, tuỳ theo mức sản suất, chất lượng sản suất. Làm tốt, làm nhiều, làm xấu, làm ít: Hưởng ít có khi phải bồi thường lại cho nhà nước. Chính phủ không phát lương cho người ngồi ăn không" ( Toàn tập 7 NXB sự thật Hà nội 1987, trang 607 – 608) Tiền lương gắn chặt với qui luật nâng cao năng suất lao động và tiết kiệm thời gian lao động. Bởi vì tăng năng suất lao động là cơ sở để tăng tiền lương, đồng thời phần tiết kiệm được do nâng cao năng suất lao động và dùng để tăng lương lại là động lực thúc đẩy chất lượng sản phẩm.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc78100.DOC
Tài liệu liên quan