MỤC LỤC
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ THAY ĐỔI KHÁI QUÁT VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC, QUẢN TRỊ ĐIỀU HÀNH CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG TRONG LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG NĂM 2010 9
1. Một số thay đổi chung: 9
1.1. Quy định rõ ràng hơn về các tổ chức tín dụng: 9
1.2. Bảo vệ quyền lợi khách hàng: 11
2. Thành lập – đăng ký kinh doanh. 12
2.1. Quy định về hình thức pháp lý: 12
2.2. Cấp giấy phép hoạt động: 12
3. Cơ cấu tổ chức, quản trị điều hành: 13
3.1. Đơn giản hóa thủ tục hành chính: 13
3.2. Những quy định về nhân sự: 14
3.3. Kiểm tra kiểm sát nội bộ - kiểm toán độc lập: 16
3.4. Tỷ lệ sở hữu cổ phần: 18
CHƯƠNG 2
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG 20
1. Nhận định chung: 20
2. Những điểm khác biệt giữa luật các TCTD 1997 so với 2010: 20
2.1. Những thay đổi của luật mới so với luật hiện hành: 20
2.1.1. Ngân hàng nước ngoài lo ngại trước quy định mới của luật 2010: 20
2.1.2. Về huy động vốn: 22
2.1.3. Về vấn đề miễn giảm lãi suất, phí, gia hạn nợ: 22
2.1.4. Không được nhận tiền gửi của dân cư: 23
2.1.5. Về việc góp vốn mua cổ phần: 24
2.1.6. Về vấn đề cấp tín dụng: 26
2.1.7. Về vấn đề kinh doanh bất động sản: 26
2.2. Những điểm mới của luật TCTD 2010: 27
2.2.1. Cơ chế xác định phí, lãi suất của TCTD (Điều 91): 27
2.2.2. Về yêu cầu ban hành quy định nội bộ (Điều 93): 28
2.2.3. Về kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối, sản phẩm phái sinh của ngân hàng thương mại (Điều 107): 28
2.2.4. Về phạm vi hoạt động của công ty tài chính, cho thuê tài chính: 28
CHƯƠNG 3
QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TCTD, THANH TRA, KIỂM TOÁN 30
1. Về phần quản lý nhà nước: 30
2. Về phần thanh tra: 30
3. Về phần kiểm toán: 30
CHƯƠNG 4
TÀI CHÍNH, HẠCH TOÁN, BÁO CÁO 32
1. Tăng cường thông tin liên lạc với các tổ chức tín dụng: 32
2. Kiểm soát các báo cáo tài chính. 33
3. Việc quản lý với chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các tổ chức tín dụng có thành phần nước ngoài. 34
CHƯƠNG 5
KIỂM SOÁT ĐẶC BIỆT; TỔ CHỨC LẠI, PHÁ SẢN, GIẢI THỂ, THANH LÝ 36
1. Kiểm soát đặc biệt. 36
1.1. Các điều khoản đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng. 36
1.2. Vai trò, thẩm quyền của ban kiểm soát. 37
1.3. Thẩm quyền của ngân hàng nhà nước với các TCTD được kiểm soát đặc biệt. 38
2. Tổ chức lại, phá sản, giải thể, thanh lý: 40
LỜI KẾT 41
45 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4594 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu, phân tích những điểm mới của luật các tổ chức tín dụng năm 2010 so với năm 1997, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hai, nhưng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các sản phẩm bày sẽ được đa dạng hóa và phát triển rất nhanh. Vì vậy, cần có một cơ chế giám sát theo kịp với sự biến đổi của thị trường này, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ổn định của ngân hàng. Vì thế, mà NHNN đã bổ sung quy định Ban kiểm soát có bộ phận giúp việc, được thuê chuyên gia bên ngoài, sử dụng tư vấn độc lập…để có thể theo kịp với sự biến động nhanh chóng của thị trường,với việc tăng cường chi nhánh, sản phẩm, dịch vụ phức tạp, nếu không mở rộng giới hạn như vậy Ban kiểm soát khó có thể nắm bắt tốt được tín hiệu thị trường trong khi cơ chế quản lý và hệ thống thông tin giám sát ngân hàng còn yếu, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Theo đó, việc bổ sung quy định mới về kiểm toán độc lập cũng nhằm mục đích tăng cường tính minh bạch, chính xác của thông tin, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng khi hội nhập kinh tế quốc tế, giúp ngân hàng giữ vững thị trường hoạt động trong nước và mở rộng thị trường ra nước ngoài.
Thứ tư, theo quyết định mới, ngân hàng được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, (trừ các trường hợp được quy định cụ thể tại điều 6 Luật 2010) nên hoạt động của Ban kiểm soát hết sức cần thiết và quan trọng đặc biệt với các cổ đông vì mục đích chính của BKS là bảo vệ quyền lợi của các cổ đông khi mà các ngân hàng mở rộng chi nhánh hoạt động.
Tỷ lệ sở hữu cổ phần:
Điều mới của luật 2010 là giới hạn về sở hữu vốn của ngân hàng đối với mỗi cổ đông bị giảm thấp hơn đáng kể so với luật hiện hành. Trước đây, tỉ lệ sở hữu vốn điều lệ của một ngân hàng lên đến 40%, một cá nhân lên đến 20%. Từ cuối năm 2009, tỉ lệ này lần lược giảm còn 20% và 10%. Luật mới tiếp tục giảm xuống các tỉ lệ tương ứng còn 15% và 5% Điều 55. Tỷ lệ sở hữu cổ phần:
1. Một cổ đông là cá nhân không được sở hữu vượt quá 5% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng.
2. Một cổ đông là tổ chức không được sở hữu vượt quá 15% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng, trừ các trường hợp sau đây…
. Việc này ngăn chặn tình trạng cổ phần hóa của một tổ chức, cá nhân nhất là khi nước ta mở cửa, có nhiều tổ chức, cá nhân nước ngoài với khả năng tài chính mạnh có thể dẫn đến thâu tóm ngân hàng bởi vì một công ty có nhiều cổ đông, các cổ đông đó do mối quan hệ thân quen lẫn nhau, hay có thể liên kết với nhau thâu tóm công ty đi lại ngược với mục tiêu chuẩn hóa quốc tế của NHNN là khẳng định chính sách đại chúng hóa các NHTM cổ phần theo đó định hướng là không có ngân hàng tư nhân.
Như vậy, tất cả các chính sách thay đổi của NHNN theo hướng chuẩn mực quốc tế, phù hợp với tín hiệu thị trường, tăng cường sự minh bạch, tính tự chủ cho hệ thống ngân hàng, giữ mục tiêu đảm bảo cho sự an toàn của hệ thống tài chính, giúp ngân hàng đứng vững trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Chương 2
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Nhận định chung:
Hoạt động của các tổ chức tín dụng có những tác động lớn đến sự ổn định xã hội, phát triển kinh tế của đất nước, vì với tư cách là các trung gian tài chính, tổ chức tín dụng là những doanh nghiệp có khả năng huy động và sử dụng nguồn vốn rất lớn trong xã hội. Việc quản lý thiếu chặt chẽ có thể dẫn đến đổ vỡ tổ chức tín dụng, gây ra sự mất lòng tin trong nhân dân và đe dọa sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng cũng như của cả nền kinh tế. Do vậy, Luật Các tổ chức tín dụng 2010 đã có nhiều quy định để nâng cao mức độ an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng trên cơ sở quán triệt quan điểm: tổ chức tín dụng là các doanh nghiệp đặc biệt, cần được quản lý một cách đặc biệt và tiếp cận sát với thông lệ quốc tế về các yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng. Luật các tổ chức tín dụng 2010 được ban hành từ ngày 16/6/2010 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2011 thay thế luật cùng tên ban hành năm 1997 đã thể hiện được những điểm mạnh, cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ hơn nhiều so với Luật hiện hành. Chương IV – Hoạt động của tổ chức tín dụng. Chương này có 34 điều (từ Điều 90 đến Điều 123), trong đó các quy định chung về hoạt động của tổ chức tín dụng và phạm vi hoạt động đặc thù của từng loại hình TCTD theo hình thức pháp lý (như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, hai thành viên trở lên, hợp tác xã…). Theo luật mới ban hành thì ta thấy luật 2010 đã quy định rõ ràng hơn cho từng đối tượng tài chính về phạm vi hoạt động.
Những điểm khác biệt giữa luật các TCTD 1997 so với 2010:
Những thay đổi của luật mới so với luật hiện hành:
Ngân hàng nước ngoài lo ngại trước quy định mới của luật 2010:
Theo Điều 90, khoản 2, Luật TCTD 2010: “Tổ chức tín dụng không được tiến hành bất kỳ hoạt động kinh doanh nào ngoài các hoạt động ngân hàng, hoạt động kinh doanh khác ghi trong giấy phép được Ngân hàng Nhà nước cấp cho tổ chức tín dụng” Trích Điều 90, khoản 2, Luật TCTD 2010
có nghĩa rằng hoạt động của các TCTD bị hạn chế trong nhận tiền gửi, cấp tín dụng và dịch vụ thanh toán.
Như vậy, liên quan đến các hoạt động khác như ngoại hối, kinh doanh vàng, phát hành thẻ tín dụng, trao đổi ngoại tệ, TCTD phải thành lập công ty con để thực hiện các hoạt động trên. Đây là những hạn chế khác biệt với thông lệ quốc tế và hạn chế sự phát triển của các dịch vụ tài chính ở VN. Điều này sẽ hạn chế phạm vi hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài theo như đã quy định trong Thông tư 03/2007/TT-NHNN ngày 28/2/2007, Điều 37 và 61. Thông tư này quy định rõ chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài được phép thực hiện các hoạt động ngoài phạm vi các hoạt động ghi trong Giấy phép nếu được NHNN chấp thuận bằng văn bản hoặc đã có văn bản quy phạm pháp luật quy định về việc thực hiện các nghiệp vụ này, đồng thời trong đó quy định rõ chi nhánh ngân hàng nước ngoài là đối tượng áp dụng và được thực hiện các nghiệp vụ đó.
Theo các chuyên gia luật cần linh hoạt để NHNN có thể bổ sung thêm các dịch vụ và hoạt động cho các tổ chức tín dụng khi cần thiết.
Hạn mức tín dụng chưa hợp lý:
Bên cạnh đó, theo Điều 128 – luật mới, tổng mức tín dụng cấp cho một khách hàng không vượt quá 15% tổng vốn chủ sở hữu của một ngân hàng sáp nhập hoặc một chi nhánh ngân hàng nước ngoài Trích Điều 128, Luật TCTD 2010
sẽ tác động xấu đến chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở VN. Bởi tất cả các chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở VN hiện nay đều duy trì hạn mức cho vay đối với một khách hàng là 15% trên vốn chủ sở hữu của ngân hàng mẹ. Và vì thế, theo điều 128 của luật mới, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ vi phạm điều này hoặc vi phạm hợp đồng cho vay đang có hiệu lực và sẽ phải kết thúc hợp đồng sớm hơn dự kiến. Thêm vào đó, điều này sẽ cản trở các chi nhánh nước ngoài của các ngân hàng nhỏ trong việc kinh doanh tại thị trường VN. Và sẽ là trở ngại lớn đối với các thành viên mới gia nhập thị trường hoặc các hoạt động mở rộng đầu tư. Điều này sẽ ảnh hưởng đến cả việc thu hút đầu tư nước ngoài nói chung vào VN bởi các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có vai trò quan trọng trong việc cấp vốn tại chỗ cho các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, các dự án cơ sở hạ tầng và nhiều ngành công nghiệp chủ chốt ở VN.
Theo các chuyên gia, với nội dung của điều 128 như trong luật mới thì chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại VN buộc phải thay đổi cơ bản hoạt động tín dụng hiện nay. Trong trường hợp này, một số chi nhánh bắt buộc phải giảm mức cho vay bằng cách thu hồi nợ trước hạn hoặc chuyển khoản vay hiện có cho chi nhánh tại quốc gia khác. Mặt khác quy định mới này còn có khả năng làm tăng phần nợ đối với cán cân thanh toán của VN do việc chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ chuyển các khoản vay vượt hạn mức cho các chi nhánh khác ở nước ngoài. Các khoản vay nợ trong nước sẽ thành các khoản nợ nước ngoài.
Trong khi đó, theo Nghị định 22, một chi nhánh ngân hàng nước ngoài là chi nhánh trực thuộc của ngân hàng mẹ, vì vậy các khoản cho vay của chi nhánh phải dựa trên vốn chủ sở hữu của ngân hàng mẹ. Trích Nghị định 22/2006/NĐ-CP
Theo ông Brett Krause – Citi Bank :
“Quy định tổng mức tín dụng cấp cho một khách hàng không vượt quá 15% tổng vốn chủ sở hữu của một ngân hàng sáp nhập hoặc một chi nhánh ngân hàng nước ngoài đồng nghĩa với việc một công ty chỉ có thể vay được tối đa 4,5 triệu USD từ một ngân hàng nước ngoài tại VN nếu ngân hàng đó có hai chi nhánh, và 2,25 triệu nếu chỉ có một chi nhánh. Điều này dẫn đến việc các DN VN sẽ ít có cơ hội tiếp cận nguồn vốn nước ngoài. Và tác động tiêu cực không chỉ đến các DN đầu tư trực tiếp nước ngoài mà còn tác động xấu đến cả các công ty VN và các dự án cơ sở hạ tầng đang tìm kiếm nguồn vốn nước ngoài bởi các dự án loại này đòi hỏi một số vốn rất lớn”. Trích từ Website
Theo ông Ashok Sud – NH Standar Chartered Bank :
“Ở VN một công ty thường chỉ có quan hệ tín dụng với một số ít ngân hàng nhất định (một hoặc hai ngân hàng), nên DN ít có lựa chọn tiếp cận tín dụng. Và trong bối cảnh kinh tế hiện nay việc tiếp cận các nguồn tài chính quốc tế của các NH VN càng hạn hẹp. Chính vì vậy NHNN cần nghiên cứu tác động của quy luật này lên hệ thống ngân hàng VN và toàn bộ nền kinh tế. Theo ông nên có lộ trình khoảng 4 – 5 năm để áp dụng quy định về giới hạn cấp tín dụng này thay vì 18 tháng như dự kiến”. Trích từ Website
Về huy động vốn:
Điều 46 luật 1997 quy định: khi được thống đốc ngân hàng nhà nước chấp thuận tổ chức tín dụng được phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài Trích Điều 46 Luật TCTD 1997
còn ở khoản 1 điều 92 luật 2010 thì tổ chức tín dụng được phát hành chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu để huy động vốn theo quy định của luật này và quy định của ngân hàng nhà nước Trích Điều 92 Luật TCTD 2010
. Điều này thể hiện tính độc lập và quyền tự quyết hơn của NHNN.
Về vấn đề miễn giảm lãi suất, phí, gia hạn nợ:
Nếu như Điều 54 khoản 4 luật 97 qui định rằng: Tổ chức tín dụng được miễn, giảm lãi suất, phí; gia hạn nợ; mua bán nợ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Việc đảo nợ được thực hiện theo quy định của Chính phủ Trích Điều 97, khoản 4, luật TCTD 1997
. Thì luật 2010, điều 95 qui định theo luật nội bộ của TCTD.
Điều này chứng tỏ quyền hạn của TCTD và việc chuyên môn hóa trong việc kinh doanh của TCTD được nâng cao. TCTD phải có kế hoạch trong vấn đề lãi suất, mua bán nợ và phải tự chịu trách nhiệm với hoạt động của mình.
Mặt khác với việc qui định miễn, giảm lãi suất theo luật nội bộ của TCTD tạo cơ hội cạnh tranh hơn và khách hàng sẽ được lựa chọn TCTD tốt nhất phù hợp với yêu cầu của mình. Điều này cũng phù hợp với nền kinh tế thị trường linh hoạt như hiện nay.
Không được nhận tiền gửi của dân cư:
Theo quy định của Luật TCTD 2010, kể từ 1/1/2011, các công ty tài chính (CTTC) chỉ được nhận tiền gửi của tổ chức mà không được nhận tiền gửi của cá nhân, khác với luật năm 97, điều 45, khoản 2 qui định rằng các TCTD phi ngân hàng được nhận tiền gửi của cá nhân, tổ chức nhưng với kì hạn 1 năm trở lên Trích Điều 45, khoản 2, luật TCTD 1997
. Song, Luật Các TCTD 2010 lại nới lỏng hơn về hạn mức cấp tín dụng của CTTC so với các NHTM. Điều này sẽ đặt các CTTC về đúng vị trí của mình trên thị trường tài chính tiền tệ.
Hoạt động của CTTC được quy định tại Mục 3 từ Điều 108 đến Điều 111, Chương III, Luật Các TCTD 2010. Theo đó, CTTC là một trong những loại hình TCTD phi ngân hàng, được thực hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng, như: nhận tiền gửi của tổ chức; phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn của tổ chức; vay vốn của TCTD, tổ chức tài chính trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật... Tuy nhiên, các CTTC không được phép nhận tiền gửi của dân cư (khách hàng cá nhân) và không được cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng.
“Quy định này phù hợp hơn với thông lệ áp dụng tại hầu hết các nước và một mặt giảm bớt được rủi ro cho hệ thống ngân hàng, mặt khác cho phép các tổ chức tín dụng phi ngân hàng được mở rộng phạm vi cung ứng các dịch vụ ngân hàng do các quy định về an toàn sẽ được áp dụng ở mức độ thấp hơn” Trích từ Website
. (Theo Thống đốc NHNN VN Nguyễn Văn Giàu)
Những quy định trên đã tạo thành ranh giới phân biệt rõ ràng hơn hoạt động của ngân hàng và các TCTD phi ngân hàng; đồng thời tạo ra sân chơi khác nhau cho NHTM và CTTC, hạn chế sự chồng lấn, để CTTC có điều kiện phát triển tốt hơn.
Thực tiễn thị trường tiền tệ ở Việt Nam cũng cho thấy, việc giới hạn hoạt động nhận tiền gửi cá nhân của CTTC theo kỳ hạn (không được huy động vốn kỳ hạn dưới 12 tháng) như hiện nay là không phù hợp. Bởi thực tế, các CTTC vẫn tiếp tục nhận tiền gửi dưới một năm của cá nhân nhưng dưới các hình thức khác nhau, như: nhận tiền gửi trên một năm nhưng cho rút tiền trước hạn; hay nhận ủy thác đầu tư kỳ hạn dưới một năm với lãi suất cố định... Hơn nữa, khi không may xảy ra sự cố, kỳ hạn gửi tiền không có hiệu quả để ngăn cản các cá nhân đến rút tiền tại các TCTC. Bởi vậy, khi Luật không cho phép CTTC được nhận tiền gửi cá nhân, mức độ rủi ro đối với CTTC và cả hệ thống sẽ giảm đi.
Hiện phần vốn huy động từ cá nhân của các TCTD chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ, thậm chí có CTTC không đặt ra nghiệp vụ này nên việc thay đổi trong luật không ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của các TCTD. Một ví dụ cụ thể như trường hợp của Tổng CTTC Cổ phần Dầu khí (PVFC) - đơn vị được đánh giá có hoạt động mạnh nhất trong loại hình TCTD phi ngân hàng tại Việt Nam hiện nay, thì nguồn vốn huy động trong dân cư cũng chỉ chiếm từ 1% đến 1,5% tổng nguồn vốn huy động của công ty.
Ông Hoàng Văn Ninh - Tổng Giám đốc CTTC Cổ phần Điện Lực (EVNFC) cũng cho biết, ngay từ khi thành lập, EVNFC đã không thiết lập bộ máy để thực hiện việc huy động vốn từ cá nhân, nên việc quy định "CTTC không được nhận tiền gửi từ cá nhân" hầu như không ảnh hưởng đến hoạt động của EVNFC. Trích từ Website
Về việc góp vốn mua cổ phần:
Luật TCTD 1997, điều 69: “Tổ chức tín dụng được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng khác theo quy định của pháp luật” Trích Điều 69, Luật TCTD 1997
. Luật này có qui định chưa rõ ràng với từng loại hình TCTD, đồng thời chưa phù hợp với điều kiện phát triển hiện nay. Khắc phục hạn chế đó Luật 2010 nêu rõ những trường hợp được góp vốn, mua cổ phần đối với từng loại hình TCTD, qui định về việc góp vốn, mua cổ phần chi tiết hơn qua đó tạo ra một sân chơi lành mạnh, cạnh tranh hơn cho các tổ chức tín dụng, giảm trừ những trường hợp một số cá nhân hay tổ chức làm lũng đoạn hệ thống ngân hàng.
Một điểm quan trọng không thể không nói đến đó là việc NHTM có được mua, nắm giữ cổ phiếu của các TCTD khác hay không? Trước đây NHTM không được mua, nắm giữ cổ phiếu của các tổ chức tín dụng khác, trừ trường hợp nắm giữ cổ phiếu do xử lý nợ hoặc theo chỉ định của Ngân hàng Nhà nước để xử lý tổ chức tín dụng gặp khó khăn có nguy cơ đổ vỡ, điều này cũng dễ hiểu vì trước bối cảnh mà những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu trong thời gian gần đây đã và đang ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam thì hoạt động NHTM đã được thắt chặt hơn nhất là hoạt động đầu tư chứng khoán và kinh doanh bất động sản. Thế nhưng trong luật mới 2010 đã có qui định khác, NHTM vẫn được mua, nắm giữ cổ phiếu của TCTD khác nhưng trong giới hạn quy đinh của ngân hàng nhà nước Trích Điều 103, khoản 6, Luật TCTD 2010
(Khoản 6 Điều 103).
Nguyên nhân NHNN không cấm NHTM mua, nắm giữ cổ phiếu vì:
Hiện nay, một số ngân hàng nhỏ rất cần thu hút kinh nghiệm quản lý, điều hành và công nghệ của các ngân hàng lớn bằng việc bán cổ phần cho các ngân hàng lớn.
Hệ thống các tổ chức tín dụng của nước ta còn đang trong giai đoạn đầu của sự phát triển nên cần thiết có mua bán cổ phiếu giữa các TCTD làm tiền đề cho việc sáp nhập nhằm nâng cao năng lực tài chính của các TCTD, lành mạnh hóa hệ thống.
Việc cấm NHTM Việt Nam nắm giữ cổ phần của các TCTD là sự bất bình đẳng giữa NHTM trong nước với các ngân hàng nước ngoài vì quy định của pháp luật hiện hành cho phép các ngân hàng nước ngoài nắm giữ cổ phần của các TCTD Việt Nam để trở thành cổ đông chiến lược. Việc này tạo cơ hội cho NHTM cạnh tranh công bằng hơn với các NH nước ngoài có chi nhánh tại VN đồng thời vẫn đặt hoạt động kinh doanh của các NHTM dưới sự kiểm soát của NHNN.
NHTM được mua và nắm giữ cổ phần giới hạn trong quy định của NHNN vì:
Việc sở hữu vốn đan chéo lẫn nhau trong khu vực ngân hàng làm tăng nguy cơ rủi ro hệ thống, đặc biệt trong những trường hợp có sự cố rút tiền hàng loạt hoặc khi một NHTM gặp khó khăn về tài chính.
Vốn của các ngân hàng Việt Nam hiện tại còn nhỏ, việc cho phép các NHTM sử dụng vốn để đầu tư vào các NHTM/TCTD khác có cùng tính chất rủi ro là đi ngược lại xu hướng nâng cao vốn nhằm đảm bảo an toàn hoạt động của NHTM.
Năng lực trình độ quản trị và công nghệ của các NH Việt Nam còn thấp hơn nhiều so với khu vực và quốc tế, do đó sự tham gia vốn của các ngân hàng Việt Nam với nhau trên thực tế không giúp nhiều cho việc nâng cao trình độ, kinh nghiệm quản lý, điều hành và công nghệ.
Nếu NHTM được mua và nắm giữ cổ phần không giới hạn sẽ dễ xảy ra tình trạng các NHTM với vốn lớn và kinh nghiệm kinh doanh dễ dàng thao túng các NH, TCTD non trẻ qua việc tung vốn để nắm giữ cổ phần và điều khiển hoạt động kinh doanh dưới chiêu bài “phân tán rủi ro” khi dàn trải vốn. Từ đó sẽ làm lũng đoạn nền kinh tế thị trường. Đó cũng là quy định mới, chặt chẽ hơn của luật 2010 về việc nắm giữ cổ phần của TCTD dưới sự điều khiển của NHNN.
Về vấn đề cấp tín dụng:
Nếu Luật hiện hành năm 97 và sửa đổi bổ sung 2004 chỉ quy định trong điều 77 khoản 1, điều 78 rằng: “TCTD không được cấp tín dụng đối với thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc) và các chức danh tương đương của TCTD, các cổ đông lớn của TCTD” Trích Điều 78, luật TCTD 1997, SĐ-BS 2004
thì nay, Luật Các TCTD 2010 đã bổ sung thêm các đối tượng khác, gồm: “pháp nhân là cổ đông có người đại diện phần vốn góp là thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát của TCTD là công ty cổ phần, pháp nhân là thành viên góp vốn, chủ sở hữu của TCTD là công ty trách nhiệm hữu hạn” Trích khoản 1, Điều 126 Luật TCTD 2010
(điểm a, khoản 1, Điều 126 Luật TCTD 2010).
Tuy nhiên bên cạnh việc quy định chặt chẽ hơn về đối tượng không được cấp tín dụng, Luật Các TCTD 2010 lại nới lỏng hơn về hạn mức cấp tín dụng của CTTC so với các NHTM. Nếu như luật 97, điều 79 chỉ đơn giản qui định tỉ lệ là 15%, nếu muốn vay trên 15% vốn tự có, nếu muốn vay nhiều hơn thì phải theo quyết định của Thủ tướng Chính Phủ thì trong luật 2010, khoản 1, điều 128 quy định: “tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô; tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và người có liên quan không được vượt quá 25% vốn tự có của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô” Trích Điều 128, luật TCTD 2010
. Nhưng đối với các CTTC, các tỷ lệ trên được nâng lên mức 25% và 50%.
Theo NHNN, việc nới lỏng giới hạn cấp tín dụng sẽ giúp các CTTC có điều kiện phát triển hơn và phù hợp hơn với thực tế hiện nay. Quy định này cũng nhằm hướng đến mục tiêu xây dựng các CTTC thành định chế tài chính mạnh hơn, với vai trò chủ yếu là môi giới tiền tệ, làm đầu mối để thu xếp các khoản cấp tín dụng lớn cho các tập đoàn, tổng công ty. (Nguồn: thời báo Ngân Hàng). Trích từ Website
Về vấn đề kinh doanh bất động sản:
Luật tổ chức tín dụng1997 quy định TCTD không được trực tiếp kinh doanh bất động sản (Điều 73) mà ở đây luật lại không quy định thế nào là “trực tiếp kinh doanh bất động sản”, mức độ tổ chức tín dụng được kinh doanh gián tiếp bất động sản và quy định này có chi phối việc mua bán tài sản bảo đảm là bất động sản hay không. Luật 2010 thì quy định rõ ràng hơn (điều 132) tổ chức tín dụng không được kinh doanh bất động sản trừ một số trường sau đây:
Mua và đầu tư bất động sản sử dụng làm trụ sở kinh doanh, địa điểm làm việc hoăc cơ sở kho tàng phục vụ trực tiếp các hoạt động nghiệp vụ của tổ chức tín dụng.
Cho thuê một phần trụ sở kinh doanh không sử dụng hết, thuộc sở hữu của tổ chức tín dụng.
Nắm giữ bất động sản do việc xử lý nợ vay thì trong thời hạn 03 năm kể từ ngày quyết định xử lý tài sản bảo đảm là bất động sản, TCTD phải bán, chuyển nhượng hoặc mua lại bất động sản này để đảm bảo thực hiện đúng tỷ lệ đầu tư vào tài sản cố định và mục đích sử dụng tài sản cố định. Trích Điều 132 Luật TCTD 2010
Những quy định của luật TCTD năm 2010 rõ ràng hơn chặt chẽ hơn so với luật đang hiện hành giải quyết được hạn chế của luật ngân hàng năm 1997.
Tuy nhiên vẫn có một số thắc mắc, hoặc một số cái không được nhắc đến ở luật 2010 như sau:
Việc “đảo nợ” theo Luật các TCTD hiện hành sẽ bị cấm hay được làm có điều kiện, vì không hề được nhắc đến ở luật mới.
Không biết “Người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng” bị cấm vay vốn là ai (điều 127 về Hạn chế cấp tín dụng) vì trên thực tế đang bị hiểu theo quá nhiều cách khác nhau: “Người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng” đối với chính khoản tín dụng đó, hay là người thuộc phòng nghiệp vụ cấp tín dụng hay là người thuộc chi nhánh của TCTD hay là người trong TCTD hay là người đảm nhiệm công việc này trong tất cả các TCTD.
Những điểm mới của luật TCTD 2010:
Cơ chế xác định phí, lãi suất của TCTD (Điều 91):
Dựa vào nội dung khoản 2 và 3 của Điều 91: “TCTD và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp cần thiết để đảm bảo an toàn của hệ thống TCTD, ngân hàng nhà nước có quyền quy định cơ chế xác định phí, lãi suất trong hoạt động kinh doanh của TCTD” Trích Điều 91 Luật TCTD 2010
. Tuy nhiên, tại Điều 476 của Bộ luật dân sự có quy định về lãi suất trong hợp đồng vay, quy định lãi suất cho vay là do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định. Nếu áp dụng quy định này, thì liệu quy định của Bộ luật dân sự còn thực hiện được không, hay nếu có quy định này thì theo nguyên tắc luật quy định sau sẽ có hiệu lực với tầm luật là như nhau. Như vậy, nếu có quy định này thì Điều 476 đương nhiên không thực hiện nữa. Vậy, nếu chúng ta quy định bỏ trần lãi suất và tự do hoá lãi suất, thì mặt được và chưa được của tự do hoá lãi suất là gì, dư luận có đồng thuận hay không?!
Về yêu cầu ban hành quy định nội bộ (Điều 93):
Luật các TCTD 2010 quy định TCTD phải xây dựng và ban hành các quy định nội bộ đối với mọi hoạt động nghiệp vụ của tổ chức tín dụng (bao gồm: quy định về cấp tín dụng, quản lý tiền vay, quy định về phân loại tài sản có, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro, Quy định về đánh giá chất lượng tài sản có và tuân thủ tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu; Quy định về quản lý thanh khoản; Quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ và cơ chế kiểm toán nội bộ; Quy định về hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ; Quy định về quản trị rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng; Quy định về quy trình, thủ tục để ngăn ngừa hành vi rửa tiền, tài trợ khủng bố và tội phạm khác; Quy định về phương án xử lý các trường hợp khẩn cấp) nhằm bảo đảm TCTD hoạt động an toàn, liên tục. Các quy định nội bộ của TCTD sau khi ban hành phải được gửi cho NHNN. Trích Điều 93 Luật TCTD 2010
Về kinh doanh, cung ứng dịch vụ ngoại hối, sản phẩm phái sinh của ngân hàng thương mại (Điều 107):
Sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận, NHTM được kinh doanh, cung ứng dịch vụ cho khách hàng ở trong nước và nước ngoài các sản phẩm ngoại hối; phái sinh về tỷ giá, lãi suất, ngoại hối, tiền tệ và tài sản tài chính khác theo quy định của pháp luật về ngoại hối. NHNN quy định cụ thể về phạm vi kinh doanh, điều kiện, trình tự, thủ tục chấp thuận cho NHTM thực hiện cung ứng các dịch vụ này. Ngoài ra, các NHTM được trực tiếp thực hiện một số hoạt động kinh doanh khác (Điều 107) như quản lý tiền mặt, tư vấn tài chính, quản lý, bảo quản tài sản, cho thuê tủ, két an toàn, tư vấn tài chính doanh nghiệp, tư vấn mua, bán, hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp, tư vấn đầu tư, mua, bán trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp, môi giới tiền tệ. Đối với các nghiệp vụ như lưu ký chứng khoán, kinh doanh vàng và các hoạt động kinh doanh khác liên quan đến hoạt động ngân hàng, NHTM sẽ được thực hiện sau khi được NHNN cho phép. Trích Điều 107 Luật TCTD 2010
Về phạm vi hoạt động của công ty tài chính, cho thuê tài chính:
Theo quy định của luật các TCTD 2010, công ty tài chính có thể thực hiện một (công ty tài chính chuyên doanh) hoặc một số các hoạt động ngân hàng (công ty tài chính tổng hợp) (Điều 108) tùy theo nhu cầu hoạt động của mình. Luật giao quyền cho Chính phủ quy định cụ thể về điều kiện (vốn, địa bàn hoạt động...) để công ty tài chính thực hiện các hoạt động ngân hàng theo quy định (một hoạt động - công ty tài chính chuyên doanh hoặc một số hoạt động - công ty tài chính tổng hợp). Công ty tài chính cũng được thực hiện một số hoạt động kinh doanh khác (Điều 111) và được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp, quỹ đầu tư. Côn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tìm hiểu những diểm mới của luận các tổ chức tín dụng 2010 so với 1997.doc