Tiểu luận Tìm hiểu về di tích lịch sử văn hoá đền Đào Động

MỤC LỤC

Trang

lời mở đầu 1

Chương I- Tên gọi, vị trí địa lý và lịch sử di tích đền đào động. 2

I- Tên gọi di tích. 2

II- Vị trí địa lý đền đào động. 2

1. Một vài nét về lịch sử chiến lược của trang Đào Động thời cổ địa và cận đại. 2

2. Vị trí địa lý đền Đào Động. 6

III- Lịch sử di tích đền đào động. 6

1. Niên đại xây dựng đền. 6

2. Đền Đào Động thờ thuỷ thần Vĩnh Công Đại Vương. 7

3. Đền Đào Động thờ công đồng tứ phủ. 11

 

Chương II: Giá trị văn hoá nghệ thuật 13

đền đào động 13

I. Nghệ thuật kiến trúc Đền Đào Động 13

1. Thế đất Đền Đào Động 13

2. Tổng thể kiến trúc đền Đào Động. 14

3. Nghệ thuật kiến trúc cổng đến. 14

4. Nghệ thuật kiến trúc khu đền chính. 16

5. Tượng pháp và các ban thời chính 20

6. Các đồ thờ đẹp. 22

II- Lễ hội đề đào động. 22

1. Lễ hội tháng giêng (ngày 10 tháng giêng) 22

2. Lễ hội tháng tám. 23

 

Chương III- Công tác quản lý, khai thác và phát huy tác dụng di tích đền đào động. 26

 

Kết luận 29

Tài liệu tham khảo 30

 

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5804 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tìm hiểu về di tích lịch sử văn hoá đền Đào Động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lạy, thưa rằng: "Con là kẻ tha hương, cha mẹ mất sớm, không nơi nương tựa. Nay gặp ông bà hiền đức xin động lòng thường, cho con được về hầu hạ" Phạm Công, Trần Thị ngoảnh nhìn thấy thiếu nữ hình dung yểu điệu, tư chất thông minh, nói năng phải đạo… liền nhận đưa về nhà nuôi, đặt tên là Quí Nương. Quí Nương càng lớn càng xinh đẹp, mặt hoa da phấn, mắt phượng mày ngài, tư chất thông minh, công dung ngôn hạnh đều đẹp. Một nhà hoà hiếu vui vầy. Một hôm Quí Nương ra bãi biển tắm gội, trời đang xanh trong, bỗng nhiên trở gió, mua bão ầm ầm, chớp giật sấm rền và có một thần Giảo Long thần dài 8 thước (3,2m) hiện hình cuộn lấy Quí Nương 3 vòng. Lát sau, trời quang mây tạnh, Quí Nương tỉnh dậy vội trở lại nhà, từ đó trong người chuyển động và tự mang thai, ở nghén 13 tháng. Đến kỳ mãn nguyệt khai hoa, thẹn nỗi không chồng có con, Quí Nương ra biển trở dạ sinh đẻ một mình, sinh ra một bọc máu đỏ, nang hoảng hốt đẩy bọc kia xuống biển. Hôm ấy là ngày 10 tháng giêng năm Đinh Tỵ (rắn có tài). Điềm trời xui khiến gặp lúc triều dâng đưa bọc thiêng vào sâu trong nội đồng. Thời bấy giờ ở trang Đào Động có một ông già nghèo khó, đức hạnh tên là Nguyễn Minh làm nghề đánh cá bên sông. Đêm ấy buông vó đã sang giờ Tý (nửa đêm) mà không bắt được con cá nào. Mãi quá nửa đêm kéo vó thấy nặng, cố kéo lên thì thấy một bọc đỏ như máu, ông già sợ quá dùng sào đẩy ra, lát sau cất lên lại gặp bào thiêng, ông già càng sợ, lại dùng sào đẩy bào ra xa. Đến lần thứ ba vẫn gặp bào thiêng, già Nguyễn Minh vái lạy rằng: Nếu là điềm trời báo ứng, thánh chỉ thần đưa…. xin linh bào tự phanh xuất cho con dân được tỏ. Tức thì một tiếng sấm động trời, hương thơm toả ngát, ánh sáng chói loà, bọc thiêng tự nứt đôi sinh 3 thần xà. Đệ Nhất Xà ở lại Đào Động, Đệ Nhị Xà xuôi sông Đào Động về Ngự tại trang Thanh Do (nay là xã Thuỵ Thanh, huyện Thái Thuỵ), Đệ Tam Xà về với mẫu thần ở Hoa Diêm. Biết điều kỳ là đêm qua, hương lão Đào Động sáng hôm sau đều đến thảo xá Nguyễn Minh, thấy long xà hùng dũng, tất cả bái lạy, tôn là linh xà, xin phép được nhận làm thần tử. Từ khi Đệ Nhất linh xà ngự cử Đào Động, dân chúng đánh lưới nhiều cá, cất vó nhiều tôm, công việc làm ăn thuận lợi. Ngày tháng thoi đưa kể đến vài năm, một hôm thần xà vái lạy dưỡng phụ (Nguyễn Minh) thưa rằng: "Ta vốn là hoàng tử Đức Long Vương ở biển Nam Hải vâng lệnh Ngọc Hoàng đại đế giáng vào cửa ngươi để thưởng công cho người hiền đức. Nay mai nước nhà có loạn lớn, vâng lệnh vua cha nay phải về thuỷ cung để luyện thuỷ quân dùng vào việc lớn về sau". Triều hùng trị vì nối tiếp 17 đời. Đến đời vua Hùng Duệ Vương, vua sinh hạ toàn con gái. Trưởng công chúa đã gả cho thần núi Tản viên, thứ công chúa Tiên Dung chỉ thích du sơn, du thuỷ, sau theo chồng là Chử Đồng Tử về trời, vua hội đình thần truyền ngôi cho Tản Viên sơn thánh. Bấy giờ có người cháu ngoại vua Hùng, họ Thục, tên Phán nghe tin vua định truyền ngôi cho phò mã, quên mình là cháu thì giận lắm liền chiêu mộ binh tướng, lại mượn quân nước láng giềng…. quân Thanh lững lẫy, chia thành 5 đạo từ các chấn hùng dũng tiến đánh Hùng Vương. Các tướng biên thuỳ chống cự không nổi đều dâng biểu xin cứu viện. Vua cho thêm tướng giỏi, quân đông đi cứu nguy, vẫn bị thua trận, nguy càng nguy gấp. Hùng Vương cho lập đàn cao tế cáo trời đất, bách linh bách thần, đến giờ Tý ngày thứ 3 mơ thấy sứ giả nhà trời cưỡi mây hạ đàn bảo rằng: "Vận hội nhà Hùng chưa hết, nếu triệu được thần núi Tản Viên, thuỷ thần làng Đào Động hợp sức mà đánh thì quá 1 tuần là yên". Đức vua tỉnh dậy, một mặt sai sứ đi triệu Tản Viếnơn thành, một mặt cử sứ xuống vùng biển về Đào Động trang để vời đức thuỷ thần. Sứ giả vừa tới đầu trang ấp (chỗ Tam Kỳ gặp sông Đào Đông - bến cửa Vĩnh) thì thấy gió mưa thét gào, đầy trời sấm chớp, nước cửa Vĩnh gầm lên, nước sông Tam Kỳ cuộn sóng và một thuỷ thần cưỡi sóng giữ nói lớn: "Ta là thuỷ thần sông Vĩnh, tự là Vĩnh Công chờ sứ giả ở đây" sứ giả vui mừng khôn xiết rước thần về kinh đô. Vĩnh Công triệu vương lão, trai tráng Đào Động chọn lấy 9 chàng trai khoẻ nhất sung làm gia thần thủ túc, lại cùng sứ giả xuống xuống Thanh Do, Mai Diêm đón đệ nhị linh xà, đệ tam linh xà về kinh bái yết vua. Vua Duệ thấy 3 ông, thân người đầu cá, dáng vóc như rồng, tiếng nói như sấm, lực địch vạn người, bàn mưu tính kế như thần thì cả mừng; phong thần Tản Viên là tướng tiên phong lo đánh các đạo sơn lâm. Vĩnh Công và nhị vị linh xã làm trung quân lo việc lấy quân vùng biển Sơn Nam và ái Châu để đánh vùng ven biển và hải đảo, lại cử thêm 1.000 tướng lĩnh, 12 vạn hùng binh theo 2 ông đánh giặc. Thần Vĩnh Công làng Đào Động và nhị vị long xà đi đến đâu, các loài ba ba, thuồng luồng và muôn trùng thuỷ tộc đều theo sóng cồn cùng kéo ra đảo, chỉ đánh vài trận quân Thục phải qui hàng. Phía vùng rừng núi, thần Tản Viên đưa cả hùm, beo, gấu ra trận, giặc khiếp đảm mà chết. Hai ông làm biểu tiếp báo về kinh, vua cho quân hai đạo được ca khúc khải hoàn. Trong lễ mừng công, Vua Duệ Vương phong đức Vĩnh Công là thượng đẳng công thần, Vĩnh Công và các em vái tạ ơn vua không nhận chức tước, chỉ xin xá hết tô, binh, tạp dịch cho dân trang Đào Động để trả nghĩa tình mảnh đất và con người đã gắn bó với ông. Vua Hùng chuẩn tấu. Thần Vĩnh Công về Đào Động, tổ chức yến tiệc linh đình khen thưởng nam phụ, lão ấu. Thưởng công cho 9 gia thần thủ túc làng Đào theo mình xông pha trận mạc. Từ đó ông và dân Đào Động tình như cha con. Thần dạy dân cấy lúa trồng dâu, chăn tằm dệt lưới, dân làng Đào Động ngày càng no dư, xóm dưới làng trên luôn tiếng hát hò. Lưu tại Đào trong vài tháng Vĩnh Công trở về phụng dưỡng song thân. ít lâu sau song thân qua đời, Vĩnh Công lo việc tang lễ chu đáo, phúng lễ 3 năm. Sau ngày đoạn tang, thần lại về Đào Động trang ở với dưỡng phụ, thọ trên 100 tuổi. Một hôm, Vĩnh Công vời hương lão đến nhà dặn rằng: "Ta cùng các vị là dân lân dân ấp, ăn ở với nhau tình như ruột thịt, nghĩa như cha con. Nay ta vâng mệnh phải về hầu vua cha Long Vương, may ngày có nhớ đến ta thì lấy nhà ta đây là miếu sở, ngày ta ra đi làm ngày giỗ". Hương lão tất cả nức nở, bùi ngùi không nỡ chia tay, bỗng trời đất tối sầm, sấm chớp dữ dội, lát sau trời quang mây tạnh, chỉ còn lại áo xiêm của thần. Hôm ấy là ngày 25/8/Mậu Thìn. Dân lòng dâng biểu về kinh Vua Hùng Duệ Vương thương sót ban phong mỹ tự; chấn Tam Kỳ giang linh ứng, Vĩnh Công đại vương, Bát Hải Động Đình, lại cấp cho dân Đào Động 400 quan tiền, lo việc tang lễ, tu sửa lều tranh của thần Vĩnh Công thành miếu điện; hạ sắc miễn thuế cho dân, lấy lộc ấy thờ thần. Điểm lệ ấy truyền qua các đời, vì thế mà điện thần ngàn năm hương lửa không bao giờ tắt. 3. Đền Đào Động thờ công đồng tứ phủ. Trên bảng văn trước đền Đào Động đề 4 chữ lớn: "Bát Hải Động Đình" - đình làng thờ Bát Hải, cũng có thể hiểu là nơi ngự của vua cha Bát Hải. Theo quan niệm của một số tín đồ ảnh hưởng đạo giáo cho rằng: Cõi trời là nơi ngự trị của vua cha Ngọc Hoàng. Cõi âm phủ do vua cha Diêm Vương trị vì, cõi sông biển do vua cha Bát Hải. Mẫu Thoải là công chúa, con vua cha Bát Hải, các hương lão làng Đào Động còn nhớ một câu chuyện truyền kỳ : mẫu là người chuẩn mực của sự hoàn mỹ : mặt hoa da phấn, mắt phượng mày ngài, đức đủ công dung ngôn hạnh, có tài cầm kỳ thi hoạ được phụ vương cho thị nữ Tiểu Mai theo hầu. Thấy cảnh trần gian tươi đẹp, bà nhiều lần hoá thành nữ khách đi du lang các nơi danh lam Đại Việt. Một lần gặp được trang nam tử khôi ngô tuấn tú, đó là tiến sỹ Trương Kính Xuyên. Hai người đọc thơ, ngâm vịnh, tâm đầu ý hợp liền kết nghĩa tào khang; vợ chồng từng một thuở hạnh phúc. Thế rồi Tiểu Mai điêu ngoa đơm đặt nói xấu long cung công chúa, kính xuyên tin lời đầy đoạ nàng nơi sơn cùng thuỷ tận, sống với vườn trúc, rừng mai và chim muông cầm thú, phải ăn quả rừng, uống nước suối … May gặp tú tài Liễu Nghị tận tình đưa thư về thủ phủ. Vua cha sai Thái tử đem kiệu đón công chúa về, sai Xích Lân bắt Kính Xuyên, Thảo Mai trị tội, lại gả công chúa cho Liễu Nghị và phong cho công chúa chức Mẫu Nghi Thoải phủ, lưu cạnh bên điện vua cha. Sự tích ấy mấy ngàn năm không ai biết tới, mãi đến khi bà Lê Thị Liễu Hạnh là cung nga hầu cận Ngọc Hoàng vì đánh vỡ chén quỳnh bị vua cha Ngọc Hoàng giáng vào cửa họ Lê làng Vân Cát, huyện Vụ Bản, phủ Thiên Trường kể lại, dân Đào Động mới hay chuyện cũ, tích xưa, liền tả bị thần vị, lập cung thờ. Rước thánh mẫu Thoải thờ bên cạnh đức vua cha. Khi mà Mẫu Thoải được hội nhập vào đền Đào Động thì tam toà thánh mẫu: Thiên Phủ, mẫu thượng ngàn cũng có mặt trong thần điện vua cha Bát Hải. Khoảng từ niên hiệu Vĩnh Tộ, Đức Long, Dương Hoà… Thịnh Đức, triều Lê Thần tôn (1619 - 1662) chùa chiền mọc thiêm như nấm. Tại trang Đào Động ngoài chùa Đào, dân bản xã lập thêm chùa Đồng Ông , chùa Đoài, có đủ tam bảo, chùa ông Hộ, ban phủ Mẫu Liễu. Đây cũng là thời kỳ Đào Động hồi sức sau nội chiến Nam Bắc triều, có điều kiện tu bổ mở rộng đền, lập thêm cung thờ từ vị Chầu Bà, Ngũ vị tôn ông, Tứ phủ quan hoàng, lập ban cô, ban cậu. Thế là đền làng Đào Động chính thức được tôn vinh là vua cha Bát Hải (phụ vương Mẫu Thoải). Từ đây Đào Động có danh nghĩa: Một trong những nôi sinh của đạo Mẫu. Đền Đào Động là chính từ của Mẫu Thoải. Chương II: Giá trị văn hoá nghệ thuật đền đào động I. Nghệ thuật kiến trúc Đền Đào Động 1. Thế đất Đền Đào Động Trước tiên ta tìm hiểu về thế đất làng Đào Động. Làng Đào Động là tâm điểm khu vực 9 sông khu vực hạ lưu sông Thái Bình phía Bắc có sông luộc, sông vĩnh, phía Đông có sông Hoá, sông vĩnh Bảo phía Nam có sông Diêm sông Lô, phía Tây có sông Đại lẫm Sông Tiên Hưng, trực tiếp vây bọc bởi sông vĩnh, sông Lẫm, sông Cô. Các thầy phòng thuỷ gọi là đất: Cửu Long quần thực, trên thực tế là vũng đất trũng, một vùng như trường “ Ba đào thuỷ động” được coi là nơi tụ hội linh khí của trời đất từ thời trần. Đền Đào Động mở hướng Tây Nam, toạ lạc trên một triền đất cao rộng 20.520m2 (5 mẫu 5 sào Bắc Bộ) tự lưng vào sông vĩnh và 3 gò lớn: gò Đồng Hưng, gò Voi Phục, gò Ông He (cá he) trước mặt là sông Lẫm, xa hơn là Đầm Bà. Bên tả có trại Cúi, bên hữu có trại Cầu: gò đống lô xô chính giữa đền có giếng thiêng mnạh ngầm chẩy ra tận sông Đào Động. Tương truyền ai có lòng thành kinh được vào cung kêu cầu, thả lòng xuống giếng thiêng, nửa canh giờ sau bưởi chui qua lòng trôi trước cửa đền. Đố là miệng rồng. Thầy địa lý phán đây là mạch đất “ Cửu long quần thực, tiền tụ thuỷ, hậu tam sơn, tả Cúi, hữu Cầu, địa linh nhân kiệt, nhanh đăng bất tuyệt, phúc mãn thiên niên”. Theo cụ già làng Đinh Văn Thiếp (sinh năm 1901) những kiểu đất trên là do cụ Tả Ao khi đi qua đền nói cho dân biết. Chuyện đó chưa tường hư thực. Xét các gò Đồng Ông Đống Hưng đều có mộ Hán, không rõ xưa vẫn là cồn, người Tầu lợi dụng đất ấy đặt mộ hay do con người sau khi đặt mộ trở đất đắp cao. Song dù sao cảnh đền quả có đẹp, phía trước mặt cạnh vườn là sông Đại Lẫm như dòng xà giang chảy qua, phía Bắc, phía Đông là sông Vĩnh uốn lượn như dải lụa nối vào sông cô Lạo thành 9 khúc, chia 2 ngả đổ vào sông Hoá và sông Diêm, xuôi ra cửa Trần và cửa Thái Bình. Phía nam đều là Cầu Vật và quốc lộ số 10 nối với thị xã Thái Bình, thành phố Nam Định, tỉnh lỵ kiến an , thành phố Hải Phòng. Giao thông thuỷ bộ đều tiện lợi. 2. Tổng thể kiến trúc đền Đào Động. Đền Đào Động gồm 16 toà nhà lớn, cộng 82 gian. Nếu kể cả khu vực nhà bếp và công trình phụ thì tới 18 toà 100 gian xây dựng trên diện tích 2.000m2. Trừ cung điện nhà Vua và một vài chùa lớn như Ninh Phúc Tự (Bút Tháp, Hà Bắc) Thần Quang Tự (keo Thái Bình) có số toà, số gian trên dưới 100 gian... còn cả nước không có đền phủ nào to rộng, sánh với ngôi đền này. Quần thể kiến trúc đền chia thành 4 tiểu khu, phía trước là 3 toà Đại Tiền Môn, tả hữu gồm 6 toà. Nhà lính (dành cho lính về gác trong hội đền) hành lang tả hữu, phía sau là 2 toà của thủ tự và nhân viên trị sự. 3 khu vực trên bao quanh 7 cung thờ thánh như khuôn viên chữ quốc lấy tim toà Trung Môn và Cấm Điện làm trục thần đạo, đền xây dựng đối xứng từng vì, từng toà. Khu vực trung tâm cao đẹp, khu vực ngoại biên và hành lang khiêm nhường liên kết thành một tổ hợp kiến trúc chặt chẽ, nổi bật điểm sáng mới Thờ Tự, dẫn dắt khách lễ qua đúng cửa từ thấp đến cao, từ cửa trình cô, trình cậu rồi vào cửa Công Đồng, qua tứ phủ Quan Hoàng rồi lên cửa chầu Bà, Tôn Ông. Nơi thân nghiêm nhất là cửa Mẫu và điện Vua Cha. Khách tham quan có thể vào cửa tả ra cửa hữu, vào cổng, Đông ra cổng Tây thuận đường cửa đông đi tiếp các đền đài từ quan lớn Đệ nhất đến quan Lớn đệ Bát... Nhà đến có 40 gian hành lang cho khách sắp lễ, tề chỉnh khăn áo (khi đến tế lễ, dự hội đền), rồi từ hành lang theo các mạnh vào 6 phủ dâng lễ. Lại có 3 gian nhà lính án cửa tả cạnh đền giám sát khách ra vào, có nhà thường trực trên trục sấn hành lang tả tiện việc giao dịch. Tổng thể kiến trúc đều vừa đẹp vừa khoa học, tôn được sự thiêng liêng thần điện. 3. Nghệ thuật kiến trúc cổng đến. Từ trục thần đạo vào đến Đào Động có thể theo 3 công đó là Đại Tiền Môn (3 toà cổng chính), Đông Mô và Tây Môn. Đại Tiền Môn là cổng dẫn vào chính tâm cửa đền. Đông Môn dẫn khách vào hành lang Tả, Tây Môn dẫn vào hành lang bên hữu. Theo duy tâm ( và cũng vì thuận đường từ quốc lộ 10 vào). Vào cổng Đông ra cổng Tây là thuận đạo, phải phép, được lộc ( và cũng là lối ra đi lễ các đền khác như Đình Sinh, đền quan lớn Đệ Tam, Đệ Ngũ, Đệ Thất, chùa Tây..). Hai cổng Đông Môn và Tây Môn Đi từ dốc cầu vật, men theo 300m đường láng nhựa theo sông Đại Lẫm tới một sân lớn, giữa đào hồ tròn đường kính 16m chung quanh xây gạch, giữa hố đắp núi ngũ nhạc. Bốn mặt trồng cây cảnh và hoa bốn mùa. Phía Đông là đường lớn rẽ vào cổng Đông, phía Tây là đường lớn rẽ vào cổng Tây, gặp sân cổng rộng gần 2 sào Bắc Bộ, rẽ vào trung tâm là tới Đại Tiền Môn. Kiến trúc hai toà cổng này khá đơn giảm. Đó là hai cột trụ rộng, trên đắp trụ đấu vuông 2 tầng. Cánh gà một bên ăn vào tường sân đền, một bên bắt vào hồ hành lang, phía trong phát triển cửa cuốn tò vò, trên trán xây một biển văn, đỉnh đắp văn hiệu, thành trên bên dưới soi chỉ mớ thành một bẳng văn. Trụ cột công soi chỉ kép, dưới đắp tảng vuông, 2 mặt sau cẩn cầu đối chữ Hán, Bảng văn cổng phía Đông đề 2 chữ lớn “Tả Môn” cổng Tây đề 2 chữ “ Hữu Môn”. Cả hai cửa đều lắp 2 cánh gỗ kiểu thượng sơn hạ mặt dưới bưng kín, sơn son, trên chạy song con bài. Cổng chính: Đại Tiền Môn Đại Tiền Môn gồm 3 ngôi lầu lớn trải dài 24m, lòng rộng 2m trung môn cao 8m (sấp sỉ nhà 3 tầng ), tả môn cao 6m. Riêng 2 cột đồng trụ góc cánh gà cao tới 5,6 m, gương tảng thứt cổ bông cao 1,08m mỗi mặt rộng 1,2m phần quả găng cao 2,4m, bền mặt mỗi chiều rộng 1m tạo dáng đứng vững chãi, bề thế không đâu có bằng. Toà Trung Môn hùng dũng như cổng toà thành lớn, tầng thượng xây kiểu Mon đình, 3 toà, 10 mái, cao 3m, dài 3m, lòng rộng 1,2m. Mái tầng thượng đắp ngạc long ngậm đại bờ, góc bờ cánh đắp nghé hý cầu, đạo hay chỉ kép. Cả 3 toà đều bổ trụ đấu, cửa cuốn vòn. Bảng văn tầng thượng đắp 2 chữ lớn Thuân Thiên” bảng văn tầng cửa dưới đắp 4 chữ lớn “ Bát Hải Động Đình” Phần thân cổng xây 4 trụ lớn: cao 5m bản rộng 0,6m trên chạy bao hơn hoa, dưới cuốn vòn trổ cổng rộng 2,4m cao 3m, đủ tầm cao khi rước kiệu không cần phải xuống đòn. * Hai toà tả môn, hữu môn cách trung môn 1,35m (ngăn bằng hai tượng phù điệu Võ Sỹ Kim Cương) xây theo kiểu cổng thành luỹ, trên có lầu canh, dưới có tường vây bọc. Bốn góc, xây cột trụ bản rộng 0,8m cửa cuốn vòn, đóng cánh then bài thượng sở hạ mật. Hai bức cánh gà nối từ tả hữu môn ra trụ biểu cũng uy nghi bề thế như bức tường thành cao tới 2,8m, nửa trên chia thành 5 ô vuông, trổ 5 ô tròn, phía dưới trát vữa da, quét vôi màu ghi. Đây là toàn cổng lớn nhất trong các công trình nghệ thuật kiến trúc cổ trên đất Thái Bình và cũng là một trong những toà cổng hoành tráng hiếm có trong các đền, miếu Việt Nam. 4. Nghệ thuật kiến trúc khu đền chính. Khu điện thờ đền Đào Động gồm 7 công trình kiến trúc lớn bố cục liên hoàn. Ngoài cùng là cung thời công đồng, trức cửa có hai bệ thờ lộ thiên thờ quan ngũ hổ, tiếp đến cung tứ phủ Quan hoàng rồi vào cung tứ phủ chầu Bà, sâu sau cùng là cung thờ Vua Cha Bát hải và cung cấm đặt tượng vua cha. Bên phải có điện thờ Tam Toá Thánh Mẫu, bên trái có điện thờ Ngũ Vị tôn Ông bố trí thành 5 lớp. Kiến trúc đăng đối theo tim gian giữa cung cộng đồng và hồi toà cung cấp. Chỉ có toà Bái Đình (cung thờ Cộng đồng) và cung cuốn là có hệ thống cửa ra vào đóng mở, các cung khác chỉ có lối cửa mạch phía lối đi xuống sân hành lang, các toà mở thông nhau thành một không gian lớn, rộng gần 500m. Việc phân cung là căn cứ vào cấu trúc bộ mái, còn trên mặt nền là một mặt phẳng, tiện lợi cho việc đi lại lễ bái thông giữa các toà, điều nỳa giúp cho người ta đứng ở một điểm có thể bao quát được 6 phủ, 18 toà cửa võng rực rỡ vàng son, chiêm ngưỡng cả gần 100 câu đối khảm trai, sơn thiếp, cuốn thư đại tự thiếp vàng... tầng tầng lớp lớp ngai rộng, thuỷ đình, long đình, chấp kính, tán tía, lọng vàng. Đây là một trong những di tích có phong cách phô diễn khéo giúp cho khách tham quan cảm thụ được toàn vẹn giá trị nghệ thuật khi đến thăm đền và cũng là hình thức thờ tứ phủ đồng đường. Cung công đồng là nơi khấn vái 4 cung đều nghe, một lễ có thể tới được cả tam toà, tứ phủ. * Toà Bái Đình Toà Bái Đình đền Đào Động rộng 5 gian, dài 19m, lòng rộng 7,2 m hiên rộng 1,2m. Kiến trúc đạo tầu chéo góc. Đại bờ đắp nổi hoa chanh, hồi nóc xây trụ đấu, đắp ngặc long, bở cánh soi 2 tầng chỉ mớ, góc hồi, đạo cất 3 tầng gồm long phục, rồng chầu, phượng mướn. Hiên trước, bẩy trạ, long vấn, tứ quí hoá rồng 7 cột hiên tiền thửa toàn bằng đá phiến (cao 2,6m) đấu thượng soi 2 tầng, tảng trạm mặt hổ phù, liền khối đá thân cột. Toàn bộ nền thềm tam cấp được lát bằng 45 tấm đá xẻ bản rộng 0,4 x 1,2m dầy 0,02m ghép sít mạnh. Ngưỡng thượng, bao ngạch cửa liền tảng đá dài kín mỗi gian, cao 0,5m, bản dầy 0,2m, soi gọt đúng như ngưỡng ngạch gỗ, soi vỏ măng, chỉ mớ, trạm hoa cúc, hoa sen.... Mội thất đều cấu trúc kiểu lòng thuyền tứ trụ thượng quang đèn, hạ chồng cốn. Giường chạm văn mây , lá lật, đầu trạm hoa sen, 12 đầu dư chạm rồng, 12 cột hiên tiều hậu bằng đá được trạm long phi, long giáng hoặc trang tứ bình: mai điển, trúc tước tùng lộc, cúc diệp hoặc cẩn khắc câu đối. Dọc hàng cột quận hậu lắp 3 toàn võng lớn. Gian trung tâm cửa dài 3m chiều cao 1,4m chia thành hai phần: trán cửa, diềm võng. Cả 3 toà cửa võng đều sơn son thiếp vàng, trảm khảm lưỡng long triều nguyệt, lưỡng phượng chầu đỉnh, tùng, cúc, trúc mai... Toàn bộ cột cái quân đều treo câu đối khảm trai, cân đối, thiếp vàng. Trên hàng xã trung gian trang trí 3 bước cuốn thư văn gấm to và đẹp. * Cung thờ Quan Hoàng. Cung dài 5 gian, cùng chung khẩu độ gian như toà bái đình 3 gian giữa làm theo kiểu lòng thuyền nhị trụ, thượng cốm hạ bẩy, 2 gian hồi gác mái bằng. Cốm gỗ trổ cuốn hình khánh, trạm hổ phù, long phụng hoặc trạm long vân, long giáng, hoặc cẩn câu đối. Hai tường hồi Đông và Tây bị ép giữa hệ đạo hai toà tiền tế và cung đệ tạm nên được xây bao lớn thấp chạy con song tiện; dưới chậy chỉ. Mỗi hồi trở một cửa mạch đóng cánh cửa khay thượng sơ hạ mật, xây bậc tam cấp. Cửa võng gian trung tâm trán trạm mai long triều nguyệt, chìm phượng, hoa mài, thành riềm trạm lão mai, dưới cánh riềm nghê ghần cõng cửa - Hai bên cửa võng gian bên trạm đề tài hoa cúc, chim phượng, hoa cúc nở mãn khai thành mặt trời, gốc cúc thành mỏ, mặt đầu, bờm chim phượng, lá kết thành cánh, , cành kết thành đuôi, phong cách thể hiện thoáng nhã. Tất cả đều được sơn son thiếp vàng, trên xà ngang treo 3 bức đại tự lớn khung hoặc trạm nẹp giả lão trúc hoặc soi vỏ năng, trổ hoa lá, lòng hoa văn gấm quy bôi hoặc gấm toán tử. Trên 12 cốt đá gồm 24 mảng hoặc trạm tranh tứ bình các đề tài mai điểu, trúc tước, tùng lộc, cúc điệp và các câu đối khắc trên khung đá. * Cung chầu Bà Phong cách kiến trúc gần giống toà tài chính, xây kiểu chéo đan đầu góc. Đại bờ xây đầy đặn, chạy 2 tầng chỉ mớ. Hồi đắp trụ đấu có ngạc long ngậm đại bờ, chân trước ôm nóc, chân sau đạp bờ cánh, đuôi cuộn tròn thành vòng tròn âm dương. Góc bờ cánh đắp long mã, đao đắp song loan. Hai hồi trở hai cửa sổ cao 1,8m, rộng 1 m (lấy ánh sáng cho cung quan Hoàng và cung Đệ tứ). Nội thất làm kiểu lòng thuyền tứ trụ, thượng giá chiêng, hạ chồng giường, đấu trạm hoa sen, giường trạm hoa lá, đầu dự trạm rồng. Cung tứ phủ Chầu Bà được trang trí 2 tầng cửa võng đề tài trạm khắc phong phú, đủ long chầu, phượng múa, nghê hý cầu, phượng hàm thư. Bên cạnh các gốc đào thụ, lão long cổ thụ có lâu đài, động tiên. Trên hàng xá trung, xà hạ treo 6 bức cuốn thư đẹp nhất trong quần thể di tích. Đặc biệt là hai bức cuốn thư hình chim phượng, và cá hoá rồng là những tác phẩm độc nhất vô nhị trong các thần điện tỉnh Thái Bình. Dưới 4 hàng cột treo 12 câu đối đều sơn son thiếp vàng. Đây là cung đẹp nhất trong quần thể di tích đền Đào Động. * Cung lễ nghi thờ Vua cha Bát Hải. Cung lễ nghi nhỏ, 3 gian dài 7m, lòng rộng 4,4m, xây kiểu hồi văn cách bảng. Nội thất keté cấu thượng giường hạ kẻ hiên trước không lắp cửa, có thể nhìn thông ra toà Bái Đình. Các thanh giường, đấu sen, xà, kẻ, bẩy, đều được sơn son thiếp vàng, vẽ văn mây bằng kim nhũ vàng tạo sự tôn kính đặc biệt với vua cha, vị thần chủ thể của đền. Cả 3 gian đều lắp cửa võng, các cột treo câu đối thiếp vàng. Vì cửa các bạo ngạch cột xà cũng đều được sơn son, kẻ chỉ nhũ hoặc vẽ long phọng thếp bạc phủ hoàng kim. * Toà cung cấm: Đây là nơi tôn nghiêm nhất trong toàn thể di tích Cung nối mái nóc và hoành qua hệ thống xà gối góc với toà Đệ Tứ Thành chữ Đinh gồm hai gian. Toà quanh năm cửa đóng then cài, chỉ dịp 10 tháng giêng dân mới vào làm lễ mộc dục, tuần rằm ông tứ mới vào quét dọn và thắp hương, ngày chỉ một lần vào cơi bấc, cấm khách lễ vào. Toà này ít trạm khắc chỉ có vài cửa ra vào được sơn son, vẽ rồng vàng, còn bên trong làm sơ sài kiểu lòng thuyền nhị trụ, thượng quang hạ kẻ, bào trơn đóng bén. Dưới thềm cung có giếng thiêng. Tương truyền đó là long khẩu (miệng rồng); phải là quan chức thần thế hoặc tín chủ có công lớn, lễ hậu mới được vào hầu sát long ngai, long thể. Giếng thiêng có mạch ngầm ăn thông ra cửa đền. Nếu là người chân tâm, phúc đức thả xuống giếng quả bưởi, nửa giờ sau quả bưởi trôi ngoài cửa sông, đó là điềm lành sẽ được “vua cha đoái thương phù trợ”. * Điện tam toà thánh mẫu và Ngũ vị tôn ông. Hai toà điện phủ quan trọng này chạy song song với toà cấm, mỗi toà 3 gian, kiến trúc kiểu thượng quang hạ kẻ, cột vuông. Lấy tường cung cấm và hồi cung đệ tứ làm tường hậu, tường hậu gian hồi cung đệ tam làm hồi phía Nam, trở hiên quay ra sân hành lang, trước hiên bổ các trụ vuông, đấu soi, tảng đơn, trên mi lan can thượng trang trí cuốn thư, con song và các ô hoa chanh, hoa sen, hoa cúc. *Các toà hành lang Chạy song song với đường trục cổng Đông Môn và Tây Môn là 2 dẫy hành lang nhà đền, mỗi bên đều xây thêm hai toà hành lang, 2 dẫy nhà chè. Phía đông gồm 3 gian nhà lính, 14 gian hành lang, 4 gian nhà chè. Phía tây xây 17 gian lang, 5 gian nhà chè. Sau đền còn xây 2 nhà của ban khách tiết, toà lớn rộng 5 gian, toà nhỏ dài 8 gian là nơi ăn ở làm việc của những người giúp việc. Các khu nha trên đều bị quân pháp tháo rỡ năm 1950 - 1951 về xông bốt cầu Vật hiện vẫn còn nền móng và mỗi bên còn sót lại 5 gian toà nhà này được xây theo kiểu hồi văn, kèo cầu quá giang vượ, cột gỗ xẻ mong, xà kèo bào trơn đóng bén. 5. Tượng pháp và các ban thời chính Đền Đào Động có 9 ban thờ tính từ toà cấm ra các toà ngoài gồm ban thời đức Vưa Cha, các ban tam toà thánh Mẫu, ngũ vị tôn ông, tứ phủ Chầu Bà tứ phủ quan Hoàng, mẫu nghi thiên hạ, cộng đồng tứ phủ, lệ thờ thánh co thánh cậu và ban thờ ngũ hổ. Xin được đề cập một số ban thờ và tượng pháp đặc sắc Bàn thờ vua Cha Bát Hải Vì vua Cha Bát Hải là thần chủ chính của đền, lại là phục vương mẫu thoải nên được dành trọn vẹn cung để tứ và cung cấm. Ngoài toà đệ tứ, trước cửa toàn cấm sơn son thiếp vàng được bầy một cổ long đình lớn đặt trên một án thờ lớn, cao 2,4cm. Đỉnh long đình trạm khắc rộng chầu phượng mớm, long án, 4 góc mặt bệ ghép xích đông trạm rộng. Hai tầng cửa võng ngoài trạm rộng trong trạm phượng, các cửa 3 mặt đềulắp cách cửa ô thượng hạ mật, tất cả sơn son thiếp vàng. Trước cổ long đình xây một bệ thờ, ngoài bệ đặt ban thờ gỗ trên, ban thờ bầy một đỉnh đồng, 2 hạc đồng, 2 cây đèn đồng và một bát hương đồng lớn. Chầu bên thánh tượng (cạnh long đình) che 2 tàn lớn màu vàng thêu rồng bằng chỉ kim tuyến, bầy hai tượng quan hầu cao 1m dáng thanh tú, đầu đội mũ hoa, vận áo thụng sơn màu xanh, nâu, xiêm trắng, chân đia hia, chắp tay đứng hầu. Trong toà cấm điện: xây một bệ thờ tam cấp dài 2,4m, rộng 2,6m theo cấp độ từ 1,2m đến 1,6m, 2,2m. Tầng trên cùng đặt 4 bức bài vị. Tầng ban 2 đặt cỗ khám bình thiên rộng 2,6m sâu 1,4m, chạm khắc rồng chầu mặt nguyệt, long cuốn, tứ linh, hoa dây, tứ quí... Trong khám đặt một cỗ ngai, trên đặt tượng vua cha Bát Hải, tượng cao 1,6m (tính cả đế ngai tượng), đầu đội mũ bình thiên, mắt sáng, môi đỏ. Mình mặc áo long cổn, một tay cầm hốt, một tay phủ gối có tư thế của vua cha thuỷ phủ. Trên ban bầy bộ tam sự bằng đồng, một bát hương đồng, một mâm bồng gỗ cỡ lớn và hai choé sứ Trung Quốc. Dưới thềm gạch, gầm bệ thờ có một lỗ nhỏ, đường kính 0,2m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35146.doc
Tài liệu liên quan