MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
Phần thứ nhất: MÔ TẢ TÌNH HUỐNG 5
1)– Hoàn cảnh ra đời vào mục tiêu xử lý tình huống. 5
2) –Diễn biến tình huống. 6
Phần Thứ hai: PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN, HẬU QUẢ VÀ CÁC PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG 15
1. Nguyên nhân 15
a) Về phía doanh nghiệp. 15
b. Về phía Ngân hàng. 16
2/-Hậu quả của rủi ro tín dụng 21
3/- Các phương án và biện pháp giải quyết tình huống 22
a/Phương án thứ nhất. 22
b/ Phương án thứ hai: 23
c/Phương án thứ ba: 24
Phần thứ ba: KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 30
a/ Kiến nghị với Chính phủ và các ngành liên quan. 30
b/ Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước. 30
c/ Kiến nghị với Ngân hàng Công thương Việt Nam. 30
31 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3277 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Tình huống nâng cao năng lực quản trị và xử lý rủi ro tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực BĐ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t trong hoạt động của Tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết. Hiện nay, dịch vụ tín dụng cho vay của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam vẫn chiếm tỉ trọng lớn nhất (trên 60 %) trong danh mục tài sản có, do đó, song song với việc tăng trưởng tín dụng, nhiệm vụ đặt ra đối với hệ thống Ngân hàng là phải chú trọng hơn nữa đến việc áp dụng hoàn thiện các giải pháp nâng cao quản trị rủi ro tín dụng, như : xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, trong đó quy định chính sách tín dụng của Ngân hàng, chiến lược tăng trưởng tín dụng phân theo đối tượng khách hàng, khu vực, ngành và phát triển các chính sách khách hàng dựa vào việc đánh giá và phân loại khách hàng, quản trị lãi suất và thanh khoản nhằm đảm bảo tính hiệu quả và phát triển bền vững trong hoạt động tín dụng.
Trong những năm qua, hoạt động tín dụng Ngân hàng đã đạt được những thành tựu không nhỏ đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước. Các Ngân hàng Thương mại đã quan tâm hơn tới việc kiểm soát tỷ lệ tăng trưởng tín dụng, tập trung vào hiệu quả của các hoạt động tín dụng. Quy trình tín dụng được thực hiện gần hơn với chuẩn mực quốc tế. Danh mục cho vay theo nhóm khách hàng của các Ngân hàng Thương mại tiếp tục thay đổi tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng cho vay các doanh nghiệp Nhà nước, tăng dần tỷ trọng cho vay đối với thành phần kinh tế phi nhà nước ( tỷ trọng dư nợ tín dụng khu vực nhà nước chiếm khoảng 39 %/ tổng dư nợ vào 12/2002 và giảm xuống còn 34 % vào 12/2004 ). Điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của Việt Nam và thế giới vì khu vực kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế năng động, phát triển nhanh và ngày càng có chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng thu nhập quốc dân. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu trong tổng dư nợ của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam vẫn còn ở mức cao hơn so với nhiều Ngân hàng các nước trong khu vực và trên thế giới.
Công tác cung cấp, khai thác sử dụng thông tin tín dụng tại nhiều Ngân hàng Thương mại vẫn còn yếu, còn có tình trạng một khách hàng vay vốn tại nhiều Ngân hàng Thương mại nhưng không có sự kiểm tra, đánh giá về mức độ rủi ro. Việc phân tích, đánh giá rủi ro khách hàng còn có nhiều bất cập, chưa hỗ trợ hiệu quả cho việc diễn ra quyết định cho vay và thu hồi nợ. Nguyên nhân của tình trạng này là do công tác quản trị rủi ro tín dụng chưa được tiến hành một cách bài bản, nghiêm ngặt. Rủi ro tín dụng chưa được xác định, đo lường, đánh giá và kiểm soát một cách chặt chẽ, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế và yêu cầu hội nhập.
Để đảm bảo tăng trưởng tín dụng an toàn ,hiệu quả và bền vững, góp phần tăng trưởng, phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu của Ủy ban Basel (Basel II) về quản trị rủi ro trong hoạt động Ngân hàng, gần đây Ngân hàng Nhà nước đã ban hành một số văn bản liên quan đến công tác quản trị rủi ro tín dụng nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro, như :
Chỉ thị số 02/2005/CT- NHNN ngày 20/4/2005 yêu cầu các Ngân hàng Thương mại tuân thủ đúng các quy định về cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính, chiết khấu, bao thanh toán và bảo đảm tiền vay, bảo đảm tăng trưởng tín dụng phù hợp với khả năng huy động vốn, đảm bảo chú trọng, đến công tác quản trị rủi ro, kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
Quyết định 783/2005/QĐ – NHNN ngày 31/5/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước sửa đổi bổ sung Quy chế cho vay của Ngân hàng Thương mại đối với khách hàng. Các nội dung được sửa đổi quy định theo hướng trao nhiều quyền phán quyết, hoặc tạo cơ sở Pháp lý cho Tổ chức tín dụng chủ động thực hiện theo đặc thù kinh doanh – Ví dụ : việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ là do Ngân hàng Thương mại tự xem xét, quyết định trên cơ sở khả năng tài chính của mình và kết quả đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng.
Trước tình hình đó những đảm bảo an toàn vốn và ngăn chặn rủi ro tín dụng có thể xảy ra mang tính hệ thống. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các văn bản điều hành và yêu cầu lãnh đạo các Ngân hàng Thương mại nâng cao năng lực quản lý rủi ro và xử lý rủi ro tín dụng tồn đọng cũng như rủi ro tiềm ẩn :
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22-04-2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành qui định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng mà công văn số 354/CV của NHNN ban hành ngày 10-07-2002.
Tuy nhiên quá trình thực hiện vẫn còn tồn tại dưới các hiện tượng dưới đây:
+ Những năm 2005-2006 nhiều Ngân hàng Thương mại tập trung vốn cho vay các Công ty chứng khoán và môi giới chứng khoán tổng số dư nợ cho vay kinh doanh bất động sản làm cho dư nợ tăng lên.
+ Về chất lượng tín dụng : Theo báo cáo của các Tổ chức tín dụng, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ giảm. Tuy nhiên, chất lượng tín dụng tại các Tổ chức tín dụng vẫn là vấn đề cần quan tâm vì : (i) Tỷ lệ nợ xấu các Tổ chức tín dụng được thanh tra cao hơn số liệu báo cáo; (ii) Sai phạm trong hoạt động tín dụng vẫn xảy ra phổ biến tại hầu hết các Tổ chức tín dụng được thanh tra; (iii) Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao tại nhiều Tổ chức tín dụng chưa tương xứng với năng lực quản trị điều hành, đặc biệt là quản trị rủi ro ; (iv) Một số Tổ chức tín dụng tập trung cho vay kinh doanh các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao như chứng khoán, bất động sản.
+ Một số Tổ chức tín dụng mở rộng mạng lưới nhưng thiếu cán bộ có năng lực, kinh nghiệm, nhất là ở những vị trí chủ chốt nên khả năng quản trị, điều hành Ngân hàng còn hạn chế, kinh doanh kém hiệu quả, tỷ lệ nợ xấu cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro.
+ Một số Tổ chức tín dụng chưa ban hành các quy định nội bộ theo quy định, hoặc chậm sửa đổi, thay thế các văn bản không còn phù hợp; có trường hợp văn bản quy định nội bộ của các Tổ chức tín dụng còn vi phạm các quy định của pháp luật. Bộ máy kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại một số Tổ chức tín dụng hoạt động kém hiệu quả, chậm phát hiện sai phạm của Tổ chức tín dụng. Có những lúc Tổ chức tín dụng còn chưa thành lập được bộ máy kiểm toán nội bộ chuyên trách theo qui định.
Để chấn chỉnh tình hình Thống đốc Ngân hàng Nhà nước văn bản và kiên quyết điều hành, đó là :
Chỉ thị số 03/2007/CT-NHNN về việc điều hành chỉ tiêu cho vay các Tổ chức chứng khoán xuống mức dư nợ khống chế là 3 %/ tổng dư nợ.
Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 15 tháng 4 năm 2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước về việc sửa đổi bổ xung một số điều của quy định về phân loại hỗ trợ, trích lập và sử dụng quỹ dự phòng về xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng ban hành theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN.
Trên cơ sở 2 văn bản trên Hội đồng quản trị Ngân hàng Công thương Việt Nam cũng ra văn bản hướng dẫn thực hiện các Quyết định của Ngân hàng Nhà nước.
* Quyết định số 234/QĐ-HĐQT-NHCT ngày 9-6 năm 2005, của HĐQT-NHCT-VN về việc ban hành quy chế về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng quỹ dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương.
Vào năm 2007 cũng có Quyết định tiếp theo đó là: Quyết định số 296/QĐ-HĐQT-NHCT ngày 1-8-2007 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng quỹ dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương.
3. Ngân hàng Công thương khu vực BĐ và nhiệm vụ xử lý rủi ro tín dụng theo Quyết định số 493 của Ngân hàng Công thương Việt Nam.
a) Khái quát về Chi nhánh Ngân hàng Công thương - Khu vực BĐ
- Tiền thân của Ngân hàng Công thương khu vực BĐ là Chi điếm Ngân hàng Nhà nước.
- Năm 1988 thực hiện Nghị định 53 của Hội đồng Bộ trưởng Chi điếm Ngân hàng BĐ được chuyển đổi thành một Chi nhánh Ngân hàng Thương mại quốc doanh với tên gọi là Chi nhánh Ngân hàng Công thương quận BĐ trực thuộc Ngân hàng Công thương thành phố Hà Nội.
- Trước những khó khăn vướng mắc về mô hình, vào ngày 1-4-1993-NHCT-VN thực hiện thí điểm mô hình tổ chức ngân hàng công thương hai cấp (TW- quận), xoá bỏ cấp trung gian là Ngân hàng công thương Hà Nội cùng với việc đổi mới và tăng cường công tác cán bộ, chi nhánh Ngân hàng Công thương quận BĐ một lần nữa được nâng cấp quản lý và chuyển đổi thành Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực BĐ theo quyết định số 67-QĐ-NH5 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
b) Đặc điểm hoạt động tín dụng của Ngân hàng Công thương - Khu vực Hà Nội
Ngân hàng Công thương khu vực BĐ là chi nhánh loại lớn được Ngân hàng Công thương - Việt Nam uỷ quyền theo dõi và cho vay nhiều Tổng Công ty, Tập đoàn kinh tế, và hoạt động tín dụng với kinh tế nhiều thành phần trên địa bàn, vì vậy trong cơ cấu bộ máy, có 3 Phòng Tín dụng là:
+ Phòng khách hàng doanh nghiệp lớn.
+ Phòng khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ.
+ Phòng khách hàng cá nhân.
Đáng lưu ý là từ khi có Quyết định số 493 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc phân loại nợ, trích lập và xử lý nợ rủi ro thì Ngân hàng Công thương - khu vực BĐ đã thành lập thêm Phòng Quản lý rủi ro và nợ có vấn đề.
Tình hình cho vay của Ngân hàng Công thương - Khu vực BĐ trước những năm chưa có văn bản xủ lý nợ, có số dư nợ khá lớn và tập trung vào các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty (thường chiếm trên 50% số dư nợ cho vay nền kinh tế của Ngân hàng Công thương - BĐ).
c) Số nợ xấu cần được giải quyết.
Chỉ tiêu
Nợ tồn đọng
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
- Tổng dư nợ
2.816.000
2.360.000
2.643.000
+ Nợ xấu tồn đọng trước năm 2001
3.120 tỷ
+ Nợ xấu quá hạn cần xử lý
77.361
68.337
80.446
+ Dư nợ quá hạn
19.600
4.554
19.308
Như vậy Ngân hàng Công thương BĐ có số nợ xấu tiềm ẩn rủi ro qua các năm cần phải xử lý theo từng năm 2005-2006-2007 với số tương ứng là 77 tỷ - 68 tỷ vào 80 tỷ.
Đáng quan tâm hơn cả là phải quản lý và xử lý số nợ tồn đọng từ những năm trước 2001 lên tới 3000 tỷ. Năm 2005 mới xử lý được 103 triệu đồng bằng 3,3%.
Phần Thứ hai
PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN, HẬU QUẢ
VÀ CÁC PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1. Nguyên nhân
Khi phân tích nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng chúng ta đã đưa ra hai loại nguyên nhân đó là nguyên nhân các khách hàng gây nên và loại nguyên nhân thuộc về phía Ngân hàng nhưng phần lớn nguyên nhân chủ yếu vẫn là các khách hàng vay vốn gây ra rủi ro.
a) Về phía doanh nghiệp.
+ Đó là một số doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn kinh tế, hoạt động kém hiệu quả, buông lỏng quản lý, lãng phí, kém sức cạnh tranh, dựa dẫm ỷ lại vào nhà nước và vô trách nhiệm của một số lãnh đạo các doanh nghiệp này dẫn đến thua lỗ, mất vốn không trả được nợ cho Ngân hàng.
+ Đó là các chủ dự án, các giám đốc doanh nghiệp ngoài quốc doanh do trình độ điều hành, trình độ nhận thức pháp luật còn rất hạn chế, không nắm vững chủ trương chính sách, hoạt động vi phạm pháp luật.
+ Đó là nhiều doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn trong hoạt động sản xuất kinh doanh có biểu hiện làm ăn chụp giật, lừa đảo, cạnh tranh không lành mạnh, tẩu tán tài sản dưới nhiều hình thức và vi phạm pháp luật.
+ Thiếu thông tin, hoặc không đủ trình độ để xử lý thông tin, không năng động trong điều hành để tìm hướng làm mới, thị trường không có vốn để nâng cao năng lực sản xuất và năng lực cạnh tranh.
+ Một số doanh nghiệp do trình độ, kinh nghiệm tổ chức sản xuất kinh doanh của chủ dự án yếu kém lỏng lẻo, lối sống buông thả dẫn tới nhiều doanh nghiệp có nguy cơ phá sản.
+ Một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức trong bộ máy công quyền của Nhà nước còn nhiều nhũng nhiễu, công quyền, cản trở sự phát triển của các doanh nghiệp.
b. Về phía Ngân hàng.
Nguyên nhân từ phía Ngân hàng đưa lại rủi ro thể hiện trên các mặt sau đây:
Một là: Việc cho vay không tuân thủ đầy đủ cơ chế tín dụng do ngân hàng nhà nước ban hành.
Hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng là do vận hành của nhiều cơ chế điều chỉnh trong đó cơ chế tín dụng ngân hàng là một trong những cơ chế chủ yếu trực tiếp chi phối đến hoạt động kinh doanh của tổ chức này.
Vì vậy, chúng ta có thể hiểu cơ chế tín dụng Ngân hàng là phương thức kinh doanh của các tổ chức tín dụng trong từng giai đoạn nhất định. Chính vì vậy nó có nhiều biện pháp thể chế khác nhau hình thành một hệ thống văn bản.
Từ năm 1990 thực hiện Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước, Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính và các văn bản quy phạm pháp luật khác, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các cơ chế tín dụng, thường xuyên chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với hệ thống pháp luật của Nhà nước và sự phát triển của thị trường tiền tệ, cụ thể như sau:
Năm 1997, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các Quyết định chỉnh sửa, bổ sung một số điều của thể lệ tín dụng ngắn hạn theo Quyết định số 199/QĐ-NH1 và sửa đổi một số điều của thể lệ tín dụng trung và dài hạn theo Quyết định số 200/QĐ-NH ngày 28/6/1997 và Chỉ thị số 09CT-NH ngày 27-8-1997 về một số điều kiện và thủ tục tín dụng.
- Các cơ chế tín dụng đã thể chế hoá chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; về cơ bản cơ chế tín dụng phù hợp với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, cá nhân và Tổ chức tín dụng; cơ chế tín dụng được ban hành kịp thời cho đầu tư tín dụng theo mục tiêu, kế hoạch phát triển kinh tế nhà nước.
Sau khi hai đạo luật về Ngân hàng ra đời đã trở thành lịch sử đầu tiên ở nước ta hoạt động Ngân hàng có cơ sở pháp lý cao nhất đầy đủ từ trước đến nay. Ngân hàng Nhà nước đã nhanh chóng tổ chức học hỏi nước ngoài và tập trung các cán bộ chuyên môn đầu ngành soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật. Các Ngân hàng Thương mại,các Tổ chức tín dụng cũng tiến hành cụ thể hóa các văn bản của Ngân hàng Nhà nước để thực hiện phối hợp với từng bộ phận trực thuộc cụ thể là :
* Không tuân thủ quy chế cho vay
Ngày 30/09/1988, Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước ban hành Quy chế cho vay Tổ chức tín dụng đối với khách hàng theo Quyết định số 324/1998/QĐ-NHNN1 quy chế này đã thực hiện đã khắc phục được những hạn chế tồn tại do các quy chế trước đây chưa giải quyết được. Tuy nhiên, do thực tiễn của hoạt động kinh tế nước ta cũng như công cuộc Việt Nam chuẩn bị hội nhập đòi hỏi sự chuyển động nhiều hơn, nhanh hơn của các doanh nghiệp và hoạt động Ngân hàng do vậy việc thực hiện quy chế chưa được bao lâu những hạn chế tồn tại vẫn phát sinh và gây nhiều vướng mắc trong giải quyết. Vì vậy, Thống đốc NHNN lại tiếp tục ban hành quy chế 15/8/2000. Quy chế cho vay này thay thế cho Quy chế 324/1998/QĐ-NHNN1 nhằm nâng thêm một bước phù hợp với các văn bản pháp luật có liên quan mới được thi hành của nền kinh tế như Luật doanh nghiệp sửa đổi, Luật Nhà đất, Luật phá sản v.v..
Bối cảnh ra đời của hai Quy chế cho vay đối với khách hàng trên đây (số 324/1998 và số 284/2000) sau thời gian trong khu vực xảy ra khủng hoảng tài chính ở Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ đó là chất lượng tín dụng giảm sút vào những năm 1997-1998 nợ tín dụng xấu ở một số Ngân hàng Thương mại tăng cao nhiều doanh nghiệp thua lỗ dẫn đến phá sản kéo theo rủi ro tín dụng của các Ngân hàng Thương mại lên hàng ngàn tỉ đồng như Tamexco, Efco Minh Phụng. Quy chế cho vay số 284/2000/QĐ-NHNN bộc lộ nhiều thiếu sót.
Vì vậy, ngày 31/12/2001, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ra Quyết định số 1267/2001/QĐ-NHNN về việc ban hành Quy chế cho vay cho Tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
Luật Ngân hàng ra đời vào thời điểm Việt Nam bước vào thời kỳ tăng tốc xây dựng và hoàn thiện nhiều bộ luật của đất nước như: Luật kinh tế, một biến đổi và là động lực khác đó là việc Việt Nam cũng tăng tốc việc hội nhập khu vực và thế giới thể hiện đầy đủ nhất là một quá trình diễn ra việc đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) mà đầu năm 2006 đã thành công, Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức này. Với sự kiện quan trọng này, pháp luật Việt Nam cũng cần được sửa đổi điều chỉnh từng bước vừa bảo đảm tạo điều kiện cho kinh tế trong nước phát triển vừa phù hợp cho thông lệ quốc tế. Chính vì lẽ đó, quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng theo Quyết định số 627/2001/QĐ/NHNN cũng được nhiều lần tiếp tục sửa đổi và bổ sung những nội dung mới như:
- Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/2/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi bổ sung một số điểm của quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
- Quyết định số 783/2005/QĐ-NHNN ngày 31/05/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung khoản 6 điều 1 của Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN, ngày 03/05/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
* Không thực hiện tốt quy chế bảo đảm tiền vay.
Vậy khi đã có Luật Ngân hàng cần phải có văn bản pháp quy dưới Luật tạo lập tính đồng bộ trong hoạt động cho vay vốn, vốn cho vay của Ngân hàng Thương mại là vốn đi vay vốn huy động của đơn vị và của các tổ chức kinh tế khác tạm thời nhàn rỗi, nhằm đảm bảo an toàn vốn giảm bớt rủi ro thì khi Ngân hàng cho vay phải đưa những điều kiện cần thiết mà người vay vốn phải có đó chính là quy chế bảo đảm tiền vay.
Thực hiện đúng đắn quy chế bảo đảm quy chế tiền vay trước hết nó đưa lại sự an toàn vốn cho Ngân hàng mặt khác nó có tác dụng đòi hỏi người vay có trách nhiệm cao nhất đối với vốn vay, tạo tính năng sử dụng vốn tốt nhất tiết kiệm nhất.
Việc hình thành và triển khai quy chế đảm bảo tiền vay cũng có những giai đoạn được thực hiện theo những quy chế khác nhau và tuỳ thuộc vào năng lực sử dụng có hiệu quả vốn vay của người vay mà điều kiện đảm bảo an toàn vốn được đặt ra cho phù hợp. Điều đó được thể hiện như sau:
- Sau khi có pháp luật Ngân hàng trong điều kiện trong khu vực mới trải qua một giai đoạn suy thoái tài chính tiền tệ, trong khi đó hoạt động tín dụng ở nước ta cũng có những vấp váp, rủi ro khá lớn, chất lượng tín dụng yếu kém. Vì vậy quy chế bảo đảm tiền vay rất chặt chẽ cụ thể là:
+ Chính phủ ban hành Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày về bảo đảm tiền vay các Tổ chức tín dụng.
Trên cơ sở Nghị định trên của Chính phủ ngày 23/04/2001 giữa NHNN, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính và Tổng cục địa chính có Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT-BTP-BCA-BTC-TCĐC hướng dẫn việc xử lý tài sản đảm bảo tiền vay để thu hồi nợ cho các Tổ chức tín dụng.
Có thể nói 2 văn bản pháp quy trên đây gây ra nhiều khó khăn cho các cơ quan thi hành cũng như thiếu tính chặt chẽ:
+ Hầu như các khoản vay Ngân hàng đều phải có tài sản thế chấp.
+ Việc đánh giá tài sản thế chấp thường thấp hơn so với thị trường.
+ Mức cho vay so với tài sản thế chấp (không quá lớn) có tình trạng trên bởi lẽ:
- Sau những đổ vỡ (rủi ro tín dụng) trong những năm 1985-1987 thì các cơ quan bảo vệ pháp luật vận dụng và áp dụng. Bộ luật hình sự vì vậy cán bộ tín dụng luôn phải đối phó, giữ độ an toàn tuyệt đối khi có bất trắc xảy ra.
- Ngân hàng thương mại chưa được tính quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp…
Tình hình trên đây còn gặp những cản trở bởi nạn rườm rà về thủ tục hành chính của các cơ quan công quyền về công chứng về chính quyền xác nhận về đòi hỏi giấy tờ… đã gây khó khăn ách tắc cho các đơn vị và cá nhân người vay vốn đến với Ngân hàng.
Trước tình trạng đó các văn bản chế tài dưới đây được ban hành:
- Nghị định số 85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2005 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của Tổ chưc tín dụng.
- Nghị định số 1380/2002/QĐ-NHNN ngày 16/12/2002 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc huỷ bỏ định mức cho vay không bảo đảm bằng tài sản của Tổ chức tín dụng.
- Quyết định số 138/2002/QĐ-NHNN ngày 16/12/2002 của Ngân hàng Nhà nước, hướng dẫn cho vay không có bảo đảm bằng tài sản.
Những nội dung của các văn bản pháp quy trên đây được chính thức hóa bằng quan điểm của Đảng và Nhà nước đó là :
- Nghị quyết số 02/2003/NQ-CP ngày 17/01/2003 của Chính phủ về cho vay không phải bảo đảm bằng tài sản.
- Thông tư số 03/2003/TT-NHNN ngày 24/02/2003 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn cho vay không phải bảo đảm bằng tài sản theo Nghị quyết số 02/2003/NQ-CP ngày 17/01/2003 của Chính phủ về cho vay không phải đảm bảo bằng tài sản.
Tuy nhiên việc quy định mới và nội dung trong các văn bản trên chỉ là vận dụng việc cho vay không có đảm bảo bằng tài sản ở một số đối tượng vay vốn như các doanh nghiệp nhà nước các hộ nông dân nghèo cho vay sinh viên…trong thực tế vận dụng của các bộ tín dụng ngân hàng có nợ vẫn giữ vững sự chặt chẽ quá mức ,có nơi lại quá dễ dãi,bỏ qua hết các quy định cần thiết như bảo lãnh thế chấp…,dễ xảy ra rủi ro.Vì vậy NHNN phải tiếp tục điều chỉnh bằng các văn bản bổ sung và các Chỉ thị chỉ đạo và uốn nắn trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng Thương mại.
Hai là: Nhiều Ngân hàng thương mại chưa tạo được đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi,nhất là năng lực điều động dự án còn hạn chế, dẫn đến phải giải quyết cho vay kém chất lượng.
Ba là: Cũng không lại trừ do sức ép của địa phương, tính cục bộ cho vay vốn và cho vay theo phong trào:các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp và dự án trọng điểm mà xa rời quy chế cho vay.
Cuối cùng là do phẩm chất đạo đức của cán bộ mà bất chấp quy chế,luồn lách quy chế … để cho vay vụ lợi.
2/-Hậu quả của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động của Ngân hàng thương mại,nó phản ánh tình huống bất bình thường xảy ra gây tổn thất cho ngân hàng.Khi tổn thất xảy ra trước hết thu nhập của Ngân hàng giảm sút dẫn đến lợi tức và trị giá cổ phiếu của ngân hàng giảm.Việc cổ phiếu ngân hàng giảm giá, nếu không được kịp thời chấn chỉnh sẽ có thể kéo theo việc bán hàng loạt cổ phiếu trên thị trường, là điểm mở đầu của quá trình mua lại, sáp nhập hoặc thay thế quản lý Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản với việc hàng loạt người gửi tiết kiệm rút tiền ra khỏi Ngân hàng, buộc ngân hàng phải đóng cửa và tuyên bố phá sản.
Tổn thất (ở mức thấp ) làm giảm quỹ dự phòng, giảm vốn và quỹ của Ngân hàng.
Để đối phó với tình huống trên, Ngân hàng có thể phải giảm tiền lương (hoặc chi phí khác), giảm lao động …dẫn đến các ảnh hưởng không tốt về nhân sự, về thị trường hoặc nguồn công nghệ…
3/- Các phương án và biện pháp giải quyết tình huống
a/Phương án thứ nhất.
Trên cơ sở số liệu trên báo cáo thống kê và theo dải nợ xấu tồn đọng đến nay, giám đốc Ngân hàng công thương khu vực BĐ quyết định như sau:
- Tập trung lực lượng cán bộ tín dụng vào việc thu nợ tồn đọng
- Kiên quyết không cho vay tiếp theo đối với các đơn vị vay vốn có nợ xấu.
- Giảm dư nợ cho vay mới đến mức thấp nhất để bảo đảm an toàn vốn. Việc cho vay không phân biệt đối tượng khách hàng đều phải có tài sản thế chấp mức cho vay không quá 70% giá trị thế chấp. Hoặc phải có người đủ tư cách bảo lãnh mới cho vay.
Phương án này:
-Ưu điểm : Tích cực thu nợ tồn đọng nhằm giảm thiểu rủi ro cho Ngân hàng BĐ
- Nhược điểm: Phương án này còn nhưng tồn tại như sau:
+ Chưa thể hiện về chất của hoạt động ngân hàng thương mại vì lợi nhuận đã buông lỏng quản lí, cho vay không đảm bảo quy chế, chạy theo số dư nợ, thiếu kiểm tra, thẩm định không đầy đủ… Lúc gặp rủi ro lại chặt chẽ cực đoan, thiếu tin tưởng đội ngũ cán bộ tín dụng và đối phó với khách hàng không có phân biệt đối xử đúng sai…
+ Là một Ngân hàng giảm dư nợ đến cực đoan là Ngân hàng không vì nền kinh tế - gây khó khăn cho nền kinh tế, gây hoang mang tâm lí người gửi tiền và gây tâm lí bất ổn trong đội ngũ cán bộ trong đơn vị Ngân hàng .
+ Tác hại trước nhất là đối với Ngân hàng BĐ: thu nhập kém , đời sống khó khăn, dễ dẫn đến thua lỗ cũng dẫn đến rủi ro toàn diện hoạt động.
+ Cuối cùng là những đơn vị đang có nợ hiện hành ,sợ ngân hàng giảm thiểu cho vay nên sẽ đối phó bằng không tích cực trả nợ.
Chính hiện tượng này mà cấp uỷ chính quyền địa phương phải can thiệp nhằm đảm bảo ổn định và phát triển kinh tế trên địa bàn 1 cách bình thường, không xáo trộn dẫn đến khó khăn.
Ngân hàng cấp trên phải kịp thời uốn nắn chỉ đạo hoạt động bảo đảm chính sách chung nhất là uốn nắn quan điểm và nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo ngân hàng này.
b/ Phương án thứ hai:
Cũng trên cơ sở số liệu báo cáo thống kê và theo dõi nợ xấu tồn đọng, giám đốc Ngân hàng khu vực BĐ quyết định như sau:
- Tiếp tục xúc tiến việc tăng cường thu hồi nợ tồn đọng
- Đổi 100% cán bộ tín dụng từ chuyên cho vay đơn vị này sang cho vay đơn vị khác. Đồng thời,tiếp tục xiết chặt điều kiện chi vay một cách chặt chẽ
Phương án này:
-Ưu điểm là:
+ Phát huy tích cực trong thu nợ để giảm thiểu rủi ro
+ Việc chuyển đổi cán bộ tín dụng có ưu điểm là tránh được việc cán bộ thân quen với người vay, tạo hiện tượng nể nang thậm chí dễ thoả hiệp tiêu cực.
Tuy nhiên, phương pháp này bộc lộ những nhược điểm sau đây:
+ Một là: vẫn thể hiện sự đối phó cực đoan,chưa phải biện pháp tích cực của hoạt động ngân hàng hiện đại. Không có tính thuyết phục, thiếu tác dụng cho việc tháo gỡ khó khăn của Ngân hàng.
+ Hai là: thể hiện sự quan tâm đến nền kinh tế chưa đúng đắn, phương châm phải là mở rộng tín dụng an toàn,phát triển tín dụng vững chắc.
+ Ba là: Việc chuyển đổi cán bộ tuy có mặt ưu điểm nhưng vẫn đây vẫn là thực trạng đối phó không chuẩn mực.Việc cán bộ tín dụng chuyên quản đơn vị vay vốn là rất cần thiết và là điều kiện quan trọng để nắm vững kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.Từ đó, cũng có điều kiện thẩm định những dự án vay vốn kinh doanh đúng nhất.Việc cán bộ chuyên quản doanh nghiệp cũng tạo điều kiện kịp thời nắm bắt và xử lý những khoản nợ tồn đọng phát sinh h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tình huống nâng cao năng lực quản trị và xử lý rủi ro tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực BĐ.docx