Tầm quan trọng của ngân hàng và tiền tệ trong sự phát triển kinh tế là không thể phủ nhận. Vị trí của đồng tiền và vai trò của ngân hàng càng trở nên quan trọng đối với việc ổn định và phát triển kinh tế trong điều kiện cơ chế thị trường. Trong nền kinh tế tiền tệ , mọi hoạt động kinh tế đều liên quan đến hoạt động tài chính, tín dụng, giám sát và điều tiết thông qua hệ thống ngân hàng ;ngân hàng được coi là một bộ phận của kết cấu hạ tầng. Do đó ngân hàng được tổ chức thành một hệ thống nhất, điều tiết lưu thông hàng hoá và dịch vụ trên phạm vi toàn quốc nhằm thực hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối và tín dụng trên phạm vi toàn xã hội. Để thực hiện dược vai trò đó ,thì NHTW với tư cách là ngân hàng phát hành ,ngân hàng của các ngân hàng ,ngân hàng của chính phủ phải thực hiện được tốt vai trò thực thi chính sách tiền tệ.
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8203 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vai trò của ngân hàng trung ương trong nền kinh tế thị trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i lượng tiền tệ cân đối với mức tăng tôngr sản phẩm quốc dân danh nghĩa, cân đối giữa tổng cung và tổng cầu về tiền. Một chính sách tiền tệ đúng đắn phải hướng vào việc khống chế nguồn gốc làm tăng hoặc giảm lượng tiền cung ứng, làm tăng hoặc giảm khối lượng tiền tệ nói chung chứ không phải chỉ khống chế tiền mặt.
Chính sách tiền tệ của một quốc gia có thể được xác định theo hai hướng:
Chính sách thắt chặt tiền tệ được dùng trong những thời kỳ có lạm phát cao; với mục đích là làm giảm lượng tiền cung ứng. Từ đó dẫn tới việc lãi suất tăng, tiêu dùng và đầu tư giảm, xuất khẩu vòng giảm, GNP giảm, việc làm giảm thất nghiệp tăng, kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế.
Chính sách mở rộng tiền tệ được dùng khi nền kinh tế suy thoái. Mục đích là tăng lượng tiền cung ứng, lãi suất giảm. Và từ đó tiêu dùng và đầu tư tăng, xuất khẩu vòng tăng, GNP tăng, việc làm tăng, thất nghiệp giảm.
b. Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Do chính sách tiền tệ là một phần của chính sách kinh tế vĩ mô nên những mục tiêu của chính sách tiền tệ cũng là mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô.
NHTW thường đề ra 6 mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ của mình. Đó là việc làm cao, ổn định lãi suất, ổn định thị trường tài chính và ổn định thị trường ngoại hối. Đây là những mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ.
Nếu nền kinh tế đang diễn ra những vấn đề đó thì chính sách tiền tệ nhằm làm cho mọi hoạt động kinh tế không tách rời những mục tiêu đó. Nếu những vấn đề đó chưa có thì chính sách tiền tệ phải luôn hướng tới chung.
Thử thách lớn nhất trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ thông qua các công cụ kinh tế vĩ mô chính là xử lý hài hoà hàng loạt mối quan hệ vốn mâu thuẫn với nhau trên tất cả các công cụ đó: Giữa mục tiêu kiềm chế lạm phát và mục tiêu tăng trưởng kinh tế; giữa lợi ích chung (kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế) với lợi ích của các NHTM và tổ chức tín dụng giữa lợi ích người gửi tiền với nhà kinh doanh tiền tệ và người vay vốn. Chính vì vậy cần tìm đến những điểm dung hoà khi tìm ra những mục tiêu trung gian, những mục tiêu được coi là cấp bách nhất cho từng giai đoạn cụ thể.
Việc lựa chọn các mục tiêu trung gian phải xuất phát từ việc thiết lập càng chặt chẽ, càng tốt mối quan hệ qua lại thật hoàn hảo giữa mục tiêu trung gian với mục tiêu cuối cùng. Mục tiêu trung gian phải là mục tiêu mà NHTM bằng việc sử dụng những phương tiện hiện có, có thể kiểm soát được, giải quyết được.
Vậy những mục tiêu chính là mục tiêu về tỷ suất lợi tức và mục tiêu về số lượng cung tiền, số lưọng có số tiền.
Tuy nhiên, NHTM không thẻ thực hiện đồng thời cả hai mục tiêu ổn định lãi suất và ổn định mức cung ứng tiền tệ.
Nếu đảm bảo mức cung ứng tiền tệ thì phải chấp nhận thay đối lãi suất (hình a). Nếu muốn ổn định lái suất, thì buộc phải thay đổi lượng cung ứng tiền tệ một khi lượng cầu tiền thay đổi (hình b). Trên thực tế, NHTM thường muốn điều chỉnh lãi suất để đảm bảo mức cung ứng tiền.
(hình a)
Lượng tiền
M
MS
Md1
Md2
i1
i2
i
(hình b)
Lượng tiền
M1
M2
MS1
MS2
Md1
Md2
2
1
i
i
Từ việc xác định được mục tiêu của chính sách tiền tệ, NHTM chỉ đạo chính sách tiền tệ bằng cách sử dụng các công cụ để tác động vào thái độ của ngân hàng, nhờ đó tác động đến lượng tiền cung ứng.
c. Ba công cụ chính mà NHTM sử dụng để tác động đến lượng cung ứng tiền tệ, đó là:
+ Nghiệp vụ thị trường mở: là nghiệp vụ được tiến hành khi NHTW thay đổi cơ số tiền bằng cách mua vào (nếu muốn làm tăng cơ số tiền) hoặc bán ra các chứng khoán (nếu muốn làm giảm cơ số tiền) trên thị trường.
Ta cũng thấy rằng có rất ít khác biệt khi NHTW giao dịch trực tiếp với các ngân hàng khác hoặc với các tổ chức công cộng phi ngân hàng. Các ngân hàng luôn có tiền dự trữ lớn hơn số dự trữ bắt buộc để đề phòng sự bất định về lãi suất trên thị trường tiền tệ. Mặt khác, các ngân hàng phải có một lượng chứng khoán đáng kể khi cần vốn khả dụng, họ buộc phải bán ngay một phần đó đi. Nếu NHTW bán chứng khoán cho trực tiếp chứng khoán cho hệ thống chứng khoán cho hệ thống ngân hàng, dự trữ tiền mặt của các ngân hàng sẽ giảm ngay lập tức. Nếu NHTW bán chứng khoán cho công chúng, các cá nhân sẽ trả lại bằng séc theo tài khoản của họ ở ngân hàng, làm cho dự trữ tiền mặt của ngân hàng lại bị giảm sút. Như vậy là, cả hai trường hợp bằng nghiệp vụ thị trường mở trong lĩnh vực chứng khoán tài chính NHTW làm biến đổi cơ số tiền, dự trữ tiền mặt của các ngân hàng khoản cho vay tiền ký gửi và lượng cung ứng tiền tệ.
Nghiệp vụ thị trường mở có hai loại:
Nghiệp vụ thị trường mở năng động: NHTW chủ động tiến hành các việc mua bán chứng khoán để thay đổi mức dự trữ của NHTW, do đó làm thay đổi cơ số tiền và thay đổi lượng cung ứng tiền.
Nghiệp vụ thị trường mở thụ động được tiến hành khi cần thiết phải đối phó lại những tác động của các nhân tố khác làm ảnh hưởng đến cơ số tiền.
NHTW nhờ có nghiệp vụ này đã kiểm soát được hoàn toàn thị trường tự do. Nghiệp vụ thị trường tự do linh hoạt và chính xác có thể được sử dụng ở bất cứ mức độ nào. Nghiệp vụ thị trường tự do dễ dàng được đảo ngược lại khi có một sai lầm sẩy ra trong lúc tiến hành nghiệp vụ thị trường tự do, NHTW có thể lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó. Nếu NHTW thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do nó mua trên thị trường tự do quá nhiều thì nó có thể sửa chữa ngay lập tức bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường tự do.
Nghiệp vụ thị trường tự do có thể được hoàn thành nhanh chóng không gây nên những chậm trễ về mặt hành chính. Và tác dụng của nghiệp vụ thị trường tự do đối với tiền dự trữ là không chắc chắn hơn nhiều so với tác dụng đó đối với cơ số tiền tệ.
+ Chính sách chiết khấu:
Lãi suất chiết khấu là lãi suất mà NHTW tính với NHTM khi họ muốn vay tiền. Thông qua lãi suất chiết khấu NHTW tác động đến lượng dự trữ của NHTM. Các NHTM phải cân đối lãi suất họ sẽ thu được một khoản cho vay biên (có tính đến cả những nguy cơ và chi phí có kiên quan nếu có dòng tiền mặt rút ra bất thình lình và lớn) với lãi suất chiết khấu. Một lãi suất chiết khấu cao hơn làm tăng phí vay từ NHTW, như vậy các NHTM sẽ vay chiết khấu ít hơn, và từ đó làm giảm bớt có số tiền và thu hẹp cung ứng tiền. Nếu một lãi suất chiết khấu thấp hơn làm cho vay chiết khấu hấp dẫn hơn với các ngân hàng và khối lượng vay sẽ tăng lên, làm tăng cơ số tiền và tăngcung ứng tiền tệ.
Những điều kiện dễ dàng của NHTW mà theo đó những khoản cho vay chiết khấu được cung cáp cho các ngân hàng được gọi là cửa sổ chiết khấu.
NHTW có thể tác động đến khối lượng vay chiết khấu bằng hai cách: bằng cách tác động đến giá cả của khoản vay (lãi suất chiết khấu) như phần trên đã trình bày hoặc bằng cách tác động đến số lượng vay thông qua việc NHTW quản lý cửa sổ chiết khấu.
Các khoản vay chiết khấu mà NHTW cấp cho các NHTM có ba loại: tín dụng điều chỉnh, tín dụng thời vụ, và tín dụng mở rộng.
Tín dụng điều chỉnh, đây là loại tín dụng thông dụng nhất, nhằm giúp cho các ngân hàng giải quyết vấn đề khả năng hoàn trả ngắn hạn do tiền gửi bị tạm thời rút ra.
Tín dụng thời vụ được cấp để đáp những ứng nhu cầu thời vụ của một số ít ngân hàng đang nghỉ và những vùng nông nghiệp hoạt động theo kiểu thời vụ.
Tín dụng mở rộng được cấp cho các NHTM bị khó khăn nghiêm trọng về khả năng hoàn trả do tiền gửi bị rút ra; thì không yêu cầu hoàn trả nhanh chóng ngay. Những ngân hàng được cấp loại tín dụng này phải nộp một bản đề nghị trình bày nhu cầu vay tín dụng mở rộng và một bản kế hoạch khôi phục lại khả năng hoàn trả của ngân hàng.
Ngoài việc sử dụng làm một công cụ để ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ và cung ứng tiền tệ, chiết khấu còn quan trọng ở chỗ nhằm tránh khỏi những cơn sụp đổ tài chính. Vai trò quan trọng nhất của NHTW là trở thành người cho vay cuói cùng, nó phải cung cấp dự trữ cho ngân hàng khi các ngân hàng bị đe doạ phá sản, do đó ngăn chặn những cưn sụp đổ ngân hàng và tài chính. Sử dụng công cụ chiết khấu để tránh những cơn sụp đổ tài chính bằng cách thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng là một yêu cầu cực kỳ quan trọng để tiến hành chính sách tiền tệ thành công.
So với công cụ nghiệp vụ thị trường tự do, việc sử dụng chính sách chiết khấu để kiểm soát cung ứng tiền tệ hình như không có hiệu quả bằng các nghiệp vụ thị trường tự do hoàn toàn là sự tự do hành động của NHTW trong khi khối lượng cho vay chiêtài sản khấu lại không như vậy. NHTW có thể thay đổi lãi suất chiết khấu nhưng không thể bắt các ngân hàng phải đi vay. Hơn nữa các nghiệp vụ thị trường tự do dễ dàng được đảo ngược lại hơn là đảo ngược những thay đổi trong chính sách chiết khấu, việc can thiệp vào thị trường mở sẽ được ưa chuộng hơn kỹ thuật tái chiết khấu vì nó mềm dẻo hơn.
Đối với các nghiệp vụ tái chiết khấu, chính các NHTW đóng vai trò bị động, do phải đáp ứng nhu cầu hàng ngày của NHTW. Trong hệ thống thị trường mở, NHTW đóng vai trò chủ động bởi vì chính NHTW yêu cầu vốn khả dụng cho thị trường tiền tệ. Phương thức thị trường mở không chỉ cung cấp vốn khả dụng cho các NHTM trên thị trường tiền tệ mà còn rút vốn khả dụng ra khỏi thị trường tiền tệ. Điều đó giúp NHTW kiểm soát tốt hơn lượng vốn khả dụng ngân hàng và lãi suất trên thị trường.
Cũng cần phải nói thêm rằng, tuy hai công cụ trên đều có những mặt ưu nhược điểm riêng nhưng chúng đều có mục đích là đảm bảo tái cấp vốn của NHTW cho NHTM.
Ngoài hai công cụ trên, NHTW còn sử dụng công cụ là quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc (Rd)
+ Dự trữ bắt buộc.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ tối thiểu giữa dự trữ tiền mặt với các khoản ký gửi mà NHTW yêu cầu NHTM phải duy trì.
Khoản dự trữ bắt buộc là khoản tiền dự trữ cần thiết để NHTM có thể ứng phó với những luồng tiền mặt rút ra bất ngờ.
Nếu một khoản dự trữ bất buộc đang có hiệu lực, các NHTM có thể giữ lượng tiền mặt cao hơn dự trữ tiền mặt theo yêu cầu nhưng không được giữ ít hơn. Nếu lượng tiền mặt của họ giảm xuống xuống thấp hơn lượng bắt buộc, họ phải vay tiền mặt ngay, thường là vay của NHTW để khôi phục lại tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Khi NHTW quy định một khoản dự trữ bắt buộc cao hơn tỷ lệ dự trữ mà các ngân hàng thận trọng phải duy trì trong bất kỳ tình hình nào thì hậu quả của nó là giảm bớt việc tạo ra những khoản ký gửi của các ngân hàng, làm giảm giá trị của thừa số tiền và giảm lượng cung tiền đối với bất kỳ cơ số tiền bất định nào.
Một khoản dự trữ bắt buộc có tác dụng như một khoản thuế đánh vào các ngân hàng bằng cách bắt buộc họ phải duy trì một khoản dự trữ cao hơn trong tổng số các khoản có dưới dạng dự trữ ngân hàng và một tỷ lệ thấp hơn của các khoản cho vay có lãi suất cao.
Hệ thống dự trữ bắt buộc tạo nên một mối quan hệ máy móc giữa tạo tiền do NHTM thực hiện (bằng việc làm xuất hiện tiền gửi) và nhu câù tái cấp vốn tại NHTW. Hệ thống này rất mềm dẻo vì tuỳ theo mục đích của chính sách tiền tệ và tuỳ theo mức vốn khả dụng ngân hàng, NHTW có thể điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đặc biệt, việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể điều hoà vốn khả dụng ngân hàng khi có nguồn thu ngoại tệ lớn. Hệ thống này có sự cạnh tranh giữa các ngân hàng bởi vì nó áp dụng không phân biệt mọi ngân hàng trong toàn hệ thống.
Ba công cụ kể trên đây có tác dụng tổng quát là kiểm soát khối lượng cho vay của ngân hàng, mức lãi suất và khối lượng tiền tệ nói chung. Nhưng ngân hàng trung gian còn thoải mái ở chỗ cho ai vay tuỳ sự xét đoán của mình, điều đó có nghĩa là ba công cụ nên chưa ảnh hưởng đến cơ cấu tín dụng mà ngân hàng trung gian cấp cho khách hàng. Nếu NHTW không áp dụng chính sách kiểm soát tín dụng, ngân hàng trung gian sẽ chỉ hướng vào những nơi có thể thu được lợi nhuận cao ít chú trọng tới những ngành có hoạt động lợi ích xã hội nhiều hơn. Chính sách kiểm soát tín dụng sẽ giới hạn mức tối đa cấp cho những ngành hoạt động nào được xem như ưu tiên, cần yểm trợ tín dụng mạnh hơn. Chính sách kiểm soát tín dụng gồm hai nội dung chính là hạn mức tài sản và quản lý lãi suất.
chương II
Tiền tệ và ngân hàng đóng vai trò như là người mở đầu, người nâng đỡ, người điều chỉnh, người tham gia, người quyết định đối với mọi quá trình sản xuất, từ hình thái thô sơ nhất đến hình thái phức tạp, hiện đại và tinh vi nhất. Hình thái tiền tệ phản ánh trình độ phát triển kinh tế, là thước đo lịch sử, là vật kết tinh của xã hội và là động cơ cực mạnh cuốn hút và khơi dậy mọi tiềm ẩn kinh tế, xã hội.
Tầm quan trọng của ngân hàng và tiền tệ trong sự phát triển kinh tế là không thể phủ nhận. Vị trí của đồng tiền và vai trò của ngân hàng càng trở nên quan trọng đối với việc ổn định và phát triển kinh tế trong điều kiện cơ chế thị trường. Trong nền kinh tế tiền tệ , mọi hoạt động kinh tế đều liên quan đến hoạt động tài chính, tín dụng, giám sát và điều tiết thông qua hệ thống ngân hàng ;ngân hàng được coi là một bộ phận của kết cấu hạ tầng. Do đó ngân hàng được tổ chức thành một hệ thống nhất, điều tiết lưu thông hàng hoá và dịch vụ trên phạm vi toàn quốc nhằm thực hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với quá trình sản xuất, lưu thông, phân phối và tín dụng trên phạm vi toàn xã hội. Để thực hiện dược vai trò đó ,thì NHTW với tư cách là ngân hàng phát hành ,ngân hàng của các ngân hàng ,ngân hàng của chính phủ phải thực hiện được tốt vai trò thực thi chính sách tiền tệ.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, công cuộc đổi mới và hoàn thiện hệ thống ngân hàng đã bắt đầu thực sự tiến hành với mốc đánh dấu là Nghị định số 53/HĐBT ngày 16/3/1988 của Hội đồng bộ trưởng nay là Chính phủ về việc tổ chức lại hệ thống ngân hàng Việt nam. hệ thống ngân hàng Việt nam được phân định thành hai cấp là Ngân hàng Nhà nước Việt nam với chức năng quản lý Nhà nước đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng, ngân hàng chuyên doanh hoạt động như những ngân hàng thương mại theo chế độ hạch toán kinh tế.
Cùng với quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế, để tiếp tục đổi mới hệ thống ngân hàng, ngày 23/5/19909 Hội đồng Nhà nước (nay là Uỷ ban thường vụ Quốc hội) đã thông qua Pháp lệnh ngân hàng. Hợp tác xã tín dụng Công ty tài chính. Việc ban hành hai pháp lệnh Ngân hàng nói trên đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới một cách toán diện các hoạt động tài chính, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc đổi mới hệ thống Ngân hàng việt nam. Đặc điểm, gần đây ngày 26/12/1997 chủ tịch nước Trần Đức Lương đã ký lệnh công bố luật Ngân hàng Nhà nước Việt nam (gồm 7 chương, 63 điều) và luật các tổ chức tín dụng (gồm 11 chương, 131 điều). Điều này đảm bảo cho tính đồng bộ của cơ chế tài chính tiền tệ quốc gia, phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế. Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, và với sự nỗ lực của bản thân ngành, trong thời gian qua hệ thống Ngân hàng Việt nam đã đạt được nhiều thành tích đáng kể. Đó là bước đầu xây dựng được hệ thống ngân hàng thích ứng với cơ chế tiền tệ, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần đẩy lùi lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Cụ thể là những năm 1980 - 1986 nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng nặng nề mà đặc trưng nổi bật là lạm phát phi mã, tốc độ phát triển kinh tế giảm sút, mất cân đối cả đối nội và đối ngoại. Bước ngoặt đầutiên của hoạt động ngân hàng từ năm 1988, khi các chính sách và biện pháp cải tổ mạnh mẽ đã được ngành ngân hàng thực hiện : nâng lãi suất huy động lên mức cao (12%/tháng đầu năm 1989) để thu hút khối lượng tiền mặt rất lớn đang nằm đọng trong lưu thông, xoá bỏ cơ bản chế độ tỷ giá, áp dụng tỷ giá thả nổi có điều tiết linh hoạt, đi đôi với điều chỉnh dần lãi suất xuống theo kết quả kìm chế lạm phát, kích thích xuất khẩu, hướng nhập khẩu vào các mặt hàng phục vụ sản xuất trong nước. Mặt khác, từ sau khi có Pháp lệnh ngân hàng, ngành ngân hàng đã từng bước áp dụng các công cụ quản lý vĩ mô gián tiếp thay thế cho các công cụ kiêmr soát trực tiếp trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ. Đặc biệt, NHNN đã áp dụng một loạt biện pháp nhằm thắt chặt lượng tiền cung ứng và kết quả là tốc độ lạm phát phi mã trước đó 410,9% năm 1988 xuống còn 67,4% năm 1991, 17,4% năm 1992 và 5,2% năm 1993. Năm 1994, nền kinh tế vẫn duy trì được mức tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 1993 (8,8%) nhưng mức lạm phát đã cao hơn dự kiến (14,4%) ; mức lạm phát năm 1995 là 12,7% năm 1996 là 4,5% và gần 4% năm 1997.
Những năm đầu của quá trình đổi mới ngân hàng, nền kinh tế nước ta phải đối phó với những khó khăn gay gắt. Với những chính sách đổi mới của Ngân hàng Nhà nước, đặc biệt là khống chế khối lượng tiền cung ứng, chính sách tín dụng, chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá ... đã góp phần thúc đẩy sự cải thiện nền kinh tế theo hướng phục hồi và phát triển. ngành Ngân hàng cũng góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu tín dụng Ngân hàng đã tăng dần cho lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh trong khi bảo đảm có chọn lọc việc duy trì những doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có hiệu quả. Tỷ trọng cho vay các xí nghiệp quốc doanh năm 1991 là 90% và ngoài quốc doanh là 10% thì đến năm 1994, tỷ trọng đó là 65%, năm 1995 là 58,5% và 41,5%. Trước đây, Ngân hàng Trung ương hoạt động ngắn hạn là chủ yếu. Để phục vụ tốt hơn cho quá trình công nghiệp hoá, Ngân hàng đã chú ý mở rộng hoạt động trung và dài hạn. Tỷ trọng cho vay ngắn hạn từ 85% và trung dài hạn 15% (năm 1991) thì đến năm 1994 đã thay đổi 67% và 33%. Năm 1995 so với năm 1994, dư nợ cho vay ngắn hạn tăng 36,7%, dư nợ cho vay trung và dài hạn tăng 24,6%. Sự tăng trưởng tín dụng và các định hướng của nền kinh tế quốc dân đã tạo nên cơ cấu tín dụng ngày càng hợp lý, thúc đẩy từng bước sự thay đổi cơ cấu kinh tế.
Có thể nói, những thành quả bước đầu đạt được trong công cuộc đổi mới và hoàn thiện hệ thống ngân hàng ở Việt nam đã góp phần đáng kể vào sự phát triển chung của nền kinh tế trong đó không thể thiếu vai trò đặc biệt quan trọng của NHTW trong việc kiểm soát tăng trưởng tiền tệ để thực hiện được các chỉ tiêu về lạm phát và tăng trưởng kinh tế lành mạnh. NHNN đã chủ động hơn trong việc lựa chọn các biện pháp, chính sách can thiệp vào nền kinh tế để nhằm đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Trên thế giới, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể mà mỗi quốc gia có mục tiêu của chính sách tiền tệ khác nhau. ở Việt nam, chính sách tiền tệ có mục tiêu đã được xác định là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát từ đầu thập kỷ 90 đến nay, lạm phát đã giảm thấp và được kiềm chế, chỉ còn 14,3% năm 1994, 12,7% năm 1995 và 4,5% trong năm 1996, và gần 4% năm 1997. Trong khi đó, nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định : 8,8% năm 1994 và 9,5% năm 1995 và 11,5% năm 2000.
Thành công đó của Việt nam trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường, đã được dư luận quốc tế đánh giá cao. Trong số các nguyên nhân của thành tựu, nổi lên là việc điều hành có hiệu quả lãi suất và tỷ giá trong nền kinh tế:
*Lãi suất : là công cụ có vị trí quan trọng số một trong hệ thống các công cụ của chính sách tiền tệ quốc gia. Về bản chất, lãi suất là giá cả mua bán vốn, có tác dụng điều hoà cung cầu vốn, thúc đẩy tăng tốc độ lưu chuyển vốn trong nền kinh tế. Nhìn lại, năm 1996, đã đánh dấu mốc lịch sử trong cuộc cách mạng về lãi suất của hệ thống ngân hàng Việt nam. Từ ngày 1/1/1996, NHNN Việt Nam chấm dứt việc quy định cụ thể chi tiết các loại lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay thay bằng việc chỉ quy định trần lãi suất cho vay tối đa, NHNN đã 4 lần quyết định hạ trần lãi suất. Theo đó, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa lần lượt giảm từ 2,1% / tháng (trước 31/12/1995) xuống còn 1,75% từ 1/1/1996, 1,6% từ 15/7/1996 ; 1,50% từ 1/9/96 và 1,25%/tháng từ 1/10/1996. Phù hợp với thông lệ quốc tế, lãi suất cho vay trung hạn được nâng lên cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn : 1,55%/tháng từ 1/9/1996 và 1,35% / tháng từ 1/10/1996. Đồng thời khoảng cách giữa lãi suất cho vay bằng nội tệ và lãi suất cho vay bằng ngoại tệ rút ngắn lại, tạo sự bình đẳng hơn nữa giữa nội tệ và ngoại tệ.
*Về tỷ giá :
Ngày 13/10/1997 Thống đốc NHNN Việt nam đã ký quyết định số 342/QĐ - NH3, cho phép các NHTM được phép mua bán ngoại tệ trong biên độ ±10% so với tỷ giá chính thức do NHNN công bố, tăng gấp đôi so với mức ±5% trước đó. Tỷ giá ngoại tệ đã tăng đột biến, với mức tỷ giá từ chỗ 11.800 VNĐ/USD đã tăng lên 12.200 rồi 12500 ,13.000 ,14600 và15160 đồng(tháng7/2001). Thực chất việc tăng tỷ giá ngoại tệ (VNĐ/USD của NHNN không phải là phá giá VNĐ. Nói đúng ra đây là một giải pháp tích cực dù có phần chậm chễ và đột ngột bước đầu đã kéo được đồng tiền Việt Nam (mà xét đến cùng là cả nền kinh tế ) thoát ra khỏi thế "gọng kìm" nguy hiểm của hiện tượng "đôla hoá" và gánh nặng nợ nước ngoài luôn có chiều hướng gia tăng.
Xét trong bối cảnh thị trường tiền tệ quốc tế hiện nay, nhất là trong mối tương quan sức mua đồng VNĐ và USD thì mức điều chỉnh nâng tỷ giá danh nghĩa VNĐ/USD mới chỉ ở vào khoảng 80-85% tỷ giá ngang bằng sức mua đáng kể phải có. Xét ở trong nước, thực tế sức mua VNĐ vẫn đang tăng lên (biểu hiện ở chỉ lạm phát thấp, lãi suất hạ biên). Đây còn là sự điều chỉnh hợp lý nhằm phá thế "đông cứng" tỷ giá VNĐ/USD từ nhiều năm nay mà do chưa đủ điều kiện (lạm phát còn cao) nên chưa thực hiện tốt và chỉ như vậy mới phản ánh đúng hơn tương quan giữa đồng VNĐ và USD.
Như vậy, phần nào chúng ta cũng đã thấy được một số hoạt động chính cũng như vai trò đặc biệt quan trọng của NHNN Việt nam trong sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Những thành tựu đã được là không thể phủ nhận, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số vấn đề đòi hỏi cần có giải pháp hữu hiệu để giải quyết, từ đó mới có thể nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của NHTW trong nền kinh tế.
- NHTW cần mạnh dạn từ bỏ cách điều chỉnh lãi suất như thời gian qua. Trước đây, khi chúng ta từ bỏ việc qui định giá bán xi măng, bỏ việc bao cấp lương thực... thì cũng rất lo ngại về biến động thị trường, nhưng thực tế cho thấy tình hình thị trường lại diễn biến tốt hẳn lên. Vấn đề quan trọng là cần có các biện pháp thanh tra, kiểm soát có hiệu quả và có biện pháp hỗ trợ kịp thời.
- NHTW cần thực thi một chính sách lãi suất linh hoạt hơn nên suất pháp từ cung cần về vốn trên thị trường để lãi suất thực sự trở thành giá cả mua bán vốn trong nền kinh tế để lãi suất là công cụ hữu hiệu nhất trong điều hành chính sách tiền tệ và là đòn bẩy tích cực thúc đẩy hoạt động tiết kiệm, tích luỹ và đầu tư trong nền kinh tế, cần chuẩn bị sớm những điều kiện cần thiết để thu hẹp dần khoảng cách lãi suất giữa bản tệ và ngoại tệ, tiến tới chỉ cho phép NHTM mua, bán ngoại tệ mà không được cho vay bằng ngoại tệ.
- Cần sửa đổi một số điểm trong quyết định 396/TTg và thông tư hướng dẫn thực hiện QĐ 396/TTg của thủ tướng chính phủ về quản lý ngoại tệ. Tăng cường các biện pháp bảo đảm thực hiện nghiêm túc QĐ 396, tăng cường quản lý chặt chẽ việc vay nợ nước ngoài.
- Cần tổng kết hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và nội tệ liên ngân hàng, rút ra những hợp lý và bất hợp lý, điều chỉnh hoạt động và nâng cấp đưa lãi suất trên thị trường liên ngân hàng cả nội tệ và ngoại tệ, có tính chất điều chỉnh lãi suất của các NHTM và điều chỉnh lãi suất trong nền kinh tế.
Việc NHTW can thiệp vào tỷ giá cũng chỉ nên dừng ở mức độ nhất định trong khuôn khổ của chính sách tiền tệ, còn cần thiết phải để cho thị trường bao gồm: cung cần ngoại tệ lạm pháp, sức mua thực tế của VNĐ... điều chỉnh tỷ giá trên thị trường.
- Cần nghiên cứu giảm bớt sự phụ thuộc của đồng tiền nước ta với việc dùng USD trong nhiều trường hợp đưọc coi như phương tiện thanh toán chuẩn, từ đó quy ra tiền Việt nam. ý tưởng về việc hình thành tỷ giá hối đoái không chỉ dựa vào USD mà cả các đồng tiền khác là rất đáng lưu ý nghiên cứu.
- Nền kinh tế của một đất nước được ví như cơ thể sống, gồm nhiều bộ phận có quan hệ hữu cơ và tác động tương hỗ, do vậy NHNN cần đảm bảo tính hệ thống của các giải pháp. Đụng đến tỷ giá hối đoái là đụng đến lãi suất tiền gửi, tiền vay, hoạt động suất nhập khẩu, đầu tư, nợ nước ngoài... do đó cần tính toán thành nhiều phương án cụ thể, trong đó có lượng hoá được cái lợi, cái hại để so sánh, lựa chọn phương án tối ưu.
- NHNN cần điều chỉnh chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia hướng mạnh vào tăng hiệu quả sử dụng mọi nguồn vốn trong và ngoài nước, hạn chế tiêu dùng xã hội để khuyến khích tiết kiệm và đầu tư, cần phát triển mạnh thị trường nội tệ.
Tập trung vốn cho khu vực , ngành sản xuất - kinh doanh có lợi thế cạnh tranh cao và đi đầu trong cải cách thương mại và thuế khoá, đồng thời hỗ trợ tích cực cho việc sắp sếp, cải cách các doanh nghiệp Nhà nước có nhiều triển vọng tốt. Khôi phục niềm tin của dân chúng, các nhà đầu tư và mọi doanh nghiệp voà hệ thống tài chính - ngân hàng.
- Chấn chỉnh, kiện toàn các thị trường nội, ngoại tệ liên ngân hàng. NHNN chủ động can thiệp không để biến động tỷ giá ngoại tệ, giá vàng cao thấp bất thường, kiên quyết ngăn chặn và dập tắt mọi hành vi đầu có ngoại tệ, gây mất ổn định tiền tệ, gây mất ổn định tiền tệ. Sớm đưa các điểm mua bán ngoại tệ phi tập trung vào quy trình quản lý chặt chẽ của Nhà nước, tăng cường quản lý ngoại hối một cách tập trung, nâng cao mức dự trữ ngoại tệ quốc gia trên 3 tháng (12 tuầ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72235.DOC