Nói lên ý nghĩa việc thành lập HCCB, tại Hội nghị lần 4 Ban chấp hành lâm thời HCCB Việt Nam ngày 11/12/1991 Tổng Bí thư Đỗ Mười xác định: “Đảng, Nhà nước ta quyết định thành lập HCCB Việt Nam là một chủ trương đúng đắn, vừa đáp ứng với tình hình và nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn hiện nay, vừa đáp ứng với nguyện vọng thiết tha và chính đáng của cựu chiến binh”.
Từ khi thành lập cho tới nay HCCB Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp, của các đoàn thể, tổ chức Hội không ngừng trưởng thành và phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Đại hội lần thứ nhất tháng 11/1992, toàn hội chỉ có 683.335 hội viên và 9.474 tổ chức cơ sở hội, đến sau Đại hội IV năm 2008, toàn quốc có 2.271.544 hội viên và 15.826 tổ chức cơ sở ở các xã, phường, thị trấn, các cơ quan hành chính sự nghiệp và các doanh nghiệp nhà nước .Trong những năm qua, HCCB đã tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, góp phần giữ vững ổn định chính trị ở cơ sở; đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo trong cựu chiến binh; tích cực tham gia chương trình phát triển kinh tế xã hội, quôc phòng an ninh, chống lại các luận điệu xảo trá của kẻ thù; tham gia giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ Với kết quả đạt “HCCB Việt Nam xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của các cấp ủy đảng và chính quyền các cấp, nhất là ở cấp cơ sở”.
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6780 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Hội cựu chiến binh trong việc cựu chiến binh giúp nhau làm kinh tế giỏi tại xã Yên Đồng (Ý Yên - Nam Định) (2001-2006), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạt động của HCCB.
Lãnh đạo việc cụ thể hóa các chủ trương, chính sách, quyết định đó và lãnh đạo hội tổ chức thực hiện.
Lãnh đạo Hội trong công tác giáo dục hội viên phát huy truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tham gia bảo vệ Đảng, chính quyền, chống các tệ nạn xã hội, chống quan liêu, hách dịch, cửa quyền, chiến lược diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.
Lãnh đạo Hội phối hợp với Đảng, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức xã hội tích cực bảo vệ Đảng, chính quyền, xây dựng những chính sách quan trọng phù hợp với điều kiện khách quan đất nước.
Lãnh đạo xây dựng tổ chức, bộ máy, cán bộ Hội và đổi mới nội dung phương thức hoạt động đáp ứng được với yêu cầu và đòi hỏi của giai đoạn mới.
Tạo điều kiện thuận lợi để Hội thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình: tham gia giám sát, phản biện xã hội theo quy luật và xây dựng Đảng, chính quyến
1.2.2. Phương thức lãnh đạo của Đảng
Phương thức lãnh đạo của Đảng là tổng thể các hình thức, phương pháp, biện pháp, quy trình, lề lối làm việc, tác phong công tác mà Đảng sử dụng để tác động vào đối tượng lãnh đạo nhằm thực hiện tốt nội dung lãnh đạo.
Đảng lãnh đạo HCCB bằng các phương thức: Bằng các chủ trương, quyết định định hướng chính trị đối với các hoạt động của Hội; bằng công tác tổ chức, cán bộ Hội; phát huy vai trò của tổ chức Đảng và đảng viên là hội viên của Hội; bằng công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của Hội theo quy định.
1.3. Ý nghĩa của việc Đảng lãnh đạo HCCB trong việc giúp nhau phát triển kinh tế
Đảng hoạch định được đường lối, chủ trương đúng đắn để định hướng phong trào hoạt động của Hội. Đường lối chủ trương đó của Đảng mang tính khách quan, sát hợp với thực tiễn đất nước, xuất phát từ đặc điểm, đặc trưng của Hội. Đường lối chủ trương, chính sách đó phải đứng vững trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đó là nền tảng, kim chỉ nam cho mọi hành động.
Đảng lãnh đạo HCCB bằng phương pháp tổ chức HCCB thực hiện đường lối Đảng đề ra. Thông qua việc chỉ đạo tổ chức thực hiện nghị quyết, Đảng vừa kiểm nghiệm chủ trương của mình có sát hợp thực tế hay không, đồng thời nâng cao nhận thức, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ phong trào hành động của cựu chiến binh trong việc thực hiện nghị quyết của Đảng.
Đảng lãnh đạo Hội thông qua đội ngũ cán bộ đảng viên của mình trong tổ chức. Thông qua đội ngũ cán bộ đảng viên, đường lối chủ trương chính sách của Đảng sẽ được cụ thể hóa, truyền bá sâu rộng vào trong nội bộ của Hội, lãnh đạo hội viên thực hiện chính sách của Đảng.
Đảng không ngừng nâng cao trí tuệ phẩm chất và năng lực lãnh đạo, bài trừ các nạn tham ô, tham nhũng, quan liêu lãng phí, hách dịch của quyền, sách nhiễu quần chúng… thực hiện thân dân, xây dựng đội ngũ đảng viên trong sạch vững mạnh xứng đáng là đội tiên phong của giai câp vô sản, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Việc Đảng lãnh đạo HCCB giúp nhau làm kinh tế góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống của cựu chiến binh tiến tới mục tiêu lớn của quốc gia vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh
Thể hiện sự quan tâm của Đảng đối với thế hệ cha anh, những người đã xả thân vì độc lập chủ quyền cho dân tộc Việt Nam.
Củng cố lòng tin của cựu chiến binh vào Đảng vào chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Chương 2
THỰC TRẠNG VAI TRÒ LÃNH ĐẠO ĐẢNG BỘ XÃ YÊN ĐỒNG VỚI HCCB TRONG VIỆC HỘI VIÊN GIÚP NHAU LÀM KINH TẾ GIỎI (2001-2006)
2.1. Khái quát chung
2.1.1. Vị trí địa lý
Xã Yên Đồng là một xã nằm ở phía Nam huyện Ý Yên, thuộc tỉnh Nam Định, có diện tích tự nhiên là 7071,6 ha, dân số 14.625 người; Phía Bắc giáp xã Yên Thắng, phía Tây giáp xã Yên Khang, phía Đông và Đông Nam giáp xã Yên Nhân, phía Tây Nam giáp xã Yên Trị cùng thuộc huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
Xã gồm 8 thôn: Tiến Thắng, Khang Giang, Cốc Dương, La Ngạn, Đại Duyệt, Đồi, An Trung, Nam Đồng.
2.1.2. Kinh tế xã hội
Xã Yên Đồng là nơi dân cư tập trung đông đúc, kinh tế phát triển và có nhiều di tích lịch sử như chợ Nấp, nhà thờ Nấp, phủ Nấp, cống Đồi, có công trình thủy lợi lớn là cống Mỹ Tho, trạm bơm Ấp Bắc. Ngoài ra xã còn hệ thống trường học, trạm y tế các nhà văn hóa rộng khắp trên các thôn xóm tạo điều kiện thuận lợi nhân dân trong vùng học tập, khám chữa bệnh, sinh hoạt văn hóa địa phương.
Trong nhiều năm qua, hòa nhịp cùng với sự phát triển của cả nước Đảng bộ xã đã đề ra nhiều chủ trương, chiến lược nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế xã, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân.
2.2. Thực trạng sự lãnh đạo của Đảng Bộ xã Yên Đồng với HCCB trong việc hội viên giúp nhau làm kinh tế giỏi (2001-2006)
2.2.1. Thực trạng
2.2.1.1. Thành tựu
Như chúng ta đã biết, nước Việt Nam thân yêu của chúng ta quá trình dựng nước gắn liền với quá trình giữ nước. Với vị trí chiến lược là cửa ngõ ra vào của ba nước Đông Dương, nhân dân ta liên tiếp chịu những xiềng xích nô lệ nhưng với truyền thống yêu nước kiên cường bất khuất của dân tộc ta và quyết tâm “thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ” quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930) đã “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, bất chấp mọi mưa bom bão đạn, khó khăn, gian khổ nơi chiến trường lần lượt đánh bại các kẻ thù xâm lược giành lại độc lập và toàn vẹn lãnh thổ mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội.
Hòa bình lập lại, do yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng mới, hàng triệu cán bộ, chiến sĩ lần lượt rời quân ngũ. Để phát huy hơn nữa truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ đổi mới, đoàn kết giúp đỡ nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của cựu chiến binh, ngày 6/12/1989, Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VI ra quyết định thành lập HCCB Việt Nam.
Nói lên ý nghĩa việc thành lập HCCB, tại Hội nghị lần 4 Ban chấp hành lâm thời HCCB Việt Nam ngày 11/12/1991 Tổng Bí thư Đỗ Mười xác định: “Đảng, Nhà nước ta quyết định thành lập HCCB Việt Nam là một chủ trương đúng đắn, vừa đáp ứng với tình hình và nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn hiện nay, vừa đáp ứng với nguyện vọng thiết tha và chính đáng của cựu chiến binh”.
Từ khi thành lập cho tới nay HCCB Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp, của các đoàn thể, tổ chức Hội không ngừng trưởng thành và phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Đại hội lần thứ nhất tháng 11/1992, toàn hội chỉ có 683.335 hội viên và 9.474 tổ chức cơ sở hội, đến sau Đại hội IV năm 2008, toàn quốc có 2.271.544 hội viên và 15.826 tổ chức cơ sở ở các xã, phường, thị trấn, các cơ quan hành chính sự nghiệp và các doanh nghiệp nhà nước….Trong những năm qua, HCCB đã tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, góp phần giữ vững ổn định chính trị ở cơ sở; đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo trong cựu chiến binh; tích cực tham gia chương trình phát triển kinh tế xã hội, quôc phòng an ninh, chống lại các luận điệu xảo trá của kẻ thù; tham gia giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ… Với kết quả đạt “HCCB Việt Nam xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của các cấp ủy đảng và chính quyền các cấp, nhất là ở cấp cơ sở”.
Cùng với nhiệm vụ bảo vệ Đảng, chính quyền, việc chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp, giúp cựu chiến binh làm kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cựu chiến cũng đã đạt được kết quả to lớn. Hội tổ chức vay vốn từ các nguồn được 9.000 tỷ đồng; tập huấn kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, chuyển đổi ngành nghề cho 270 nghìn cán bộ, hội viên, tạo việc làm cho hơn một triệu lao động; xóa được 35.845 nhà dột nát. Đến nay, đa số đời sống hội viên được nâng cao lên, cơ bản không còn hộ đói, hộ nghèo chỉ còn 6% (136.413 hộ). Đã có 50% cựu chiến binh có mức sống khá trở lên, gần 2.500 doanh nghiệp do cựu chiến binh làm chủ thu hút 100 nghìn lao động, một số doanh nghiệp có doanh thu tới hàng nghìn tỷ đồng, gần 30 nghìn cựu chiến binh là chủ trang trại, thu hút khoảng 200 nghìn lao động sản xuất.
Với những thành tựu to lớn như trên để ghi nhận công lao to lớn của cựu chiến binh Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương độc lập hạng nhất và nhiều huân huy chương, bằng khen các tập thể, cá nhân của Hội.
Hòa nhịp chung với sự trưởng thành và phát triển của HCCB cả nước, hơn nữa để bảo vệ quyền và lợi của bộ phận bộ đội rời quân ngũ, năm 1989 HCCB xã chính thức được thành lập. Tính từ lúc được thành lập tới 2006 cơ sở hội phát triển mạnh cả về số lượng hội viên và tổ chức hội. Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, nhiệm kỳ (2001-2006) đã kết nạp được thêm 83 hội viên đưa tổng số hội viên từ khi thành lập tới nay lên tới 487 đồng chí (tính đến 10/2006), trong đó những chi hội có số hội viên đông nhất là thôn Nam Đồng, thôn An Trung, chi Tiến Thắng, chi Cốc Dương.
Về tổ chức cơ sở hội: nhìn chung công tác tổ chức Hội tương đối ổn định ở 8 chi hội, 35 phân hội sinh hoạt dưới sự chỉ đạo của cấp ủy, chi bộ và sự chỉ đạo của Ban chấp hành HCCB xã. Số tổ chức hội “Trong sạch vững mạnh” hàng năm đều tăng: về phân hội trong sạch vững mạnh tăng từ 88,5% lên 94%, hội viên gương mẫu, gia đình văn hóa đạt 98%. Bên cạnh đó, các cấp HCCB trong xã đã động viên cán bộ hội viên tích cực tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng, chính quyền, giữ vững ổn định chính trị ở cơ sở tham gia thực hiện tốt các phong trào, các cuộc vận động của địa phương như: cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Xây dựng khu dân cư 5 không”, “phong trào đền ơn đáp nghĩa” …; phối hợp với Đoàn Thanh niên tham gia giáo dục truyền thống yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ.
Nhìn chung nhiệm kỳ (2001-2006) Hội đã chú trọng xây dựng cơ sở Hội trong sạch vững mạnh một cách toàn diện đạt chất lượng và kết quả cao về cả tổ chức, giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, công tác quản lý hội viên, bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ, hội viên. HCCB xã Yên Đồng thực sự là một tổ chức chính trị - xã hội là chỗ dựa đáng tin cậy của chính quyền cơ sở.
Song hành với nhiệm vụ về chính trị, một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng được Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp đặc biệt quan tâm đó là triển khai có hiệu quả phong trào giúp đỡ cựu chiến binh phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của hội viên.
Trở về quê hương với bao suy nghĩ, nhiều cựu chiến binh còn mang trên mình vết thương chiến tranh nay lại tái phát mỗi khi trái gió trở trời, song họ vẫn kiên trung sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng và bản chất “Bộ đội Cụ Hồ” đã được tôi luyện thử thách trong chiến trường. Về cuộc sống đời thường mỗi người một hoàn cảnh, một vị trí công tác nhưng những người lính vẫn tâm niệm một điều bộ đội Cụ Hồ xông pha trên trận mạc vượt qua mọi khó khăn gian khổ, lập nên những chiến công, bây giờ trở về cuộc sống đời thường lẽ nào lại bị cái đói nghèo đeo bám. Với quyết tâm đó cộng sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể xã hội cựu chiến binh phát huy tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Hội phối hợp với ngân hàng chính sách xã hội và ngân hàng nông nghiệp phát triển nông thôn tiến hành cho hội viên vay vốn khắc phục khó khăn phát triển sản xuất. Chỉ tỉnh trong 5 năm (2001-2006) số nguồn vốn cho cựu chiến binh vay lên tới 800 triệu đồng, giải quyết cho 200 lượt hội viên vay phát triển sản xuất. Từ nguồn vốn vay được Hội đã tích cực vận động hội viên mạnh dạn áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa đạt năng suất, giá trị cao, điển hình như các đồng chí hội viên ở các chi hội: An Trung, Cốc Dương, Đại La 1,2 với những điển hình sản xuất như ông Nguyễn Đức Thông (xóm 7-thôn Đại La 1) từ nguồn vốn được vay là 10 triệu đồng từ năm 2002 gia đình ông đã sử dụng xây dựng trang trại nuôi lợn nái. Lúc đầu do nguồn vốn có hạn gia đình mới phát triển chăn nuôi quy mô nhỏ với 4 chuồng và đàn lợn 20 con. Sau một năm với 2 lứa lợn sau khi đã trừ các chi phí gia đình thu được lãi là từ 15-17 triệu đồng. Từ kinh nghiệm thu được trong quá trình chăn nuôi và học hỏi từ các hộ gia đình khác gia định mạnh dạn vay mượn thêm mở rộng quy mô chăn nuôi tới nay đàn lợn của gia đình lên tới 80 - 90 con. Ngoài chăn nuôi lợn gia đình còn kết hợp chăn nuôi ngan gà với số lượng từ 100-150 con. Sau 3 năm sử dụng nguồn vốn được vay phát triển sản xuất đến nay gia đình ông đã xây dựng căn nhà khang trang, đầy đủ tiện nghi sinh hoạt, nuôi dậy con cái học hành.
Đối với những thôn xóm có các làng nghề truyền thống Hội khuyến khích gia đình các hội viên đầu tư phát triển rộng các ngành nghề may mặc, chắp nứa như chi hội Tiến Thắng, phân hội 1 của thôn Đại An tiêu biểu như gia đình ông Dương Văn Tiến (xóm 1- thôn Đại An). Những ngành nghề trên đã góp phần giải quyết nhiều công ăn việc làm, tăng thêm thu nhập cho nhiều lao động dôi dư cho xã, trong đó có con em cựu chiến binh.
Nhiều hội viên khác sử dụng vốn phát triển dịch vụ buôn bán, vận tải chi hội Nam Đồng, Khang Giang…. Nhiều hội viên sử dụng nguồn vốn vay được mạnh dạn mua máy cày, máy đập lúa liên hoàn, công nông nhằm phục vụ việc cày cấy, tuốt lúa cho nhân dân trong địa bàn xã khi vụ mùa tới. Gia đình ông Nguyễn Thế Cải (đội 7- Đại la 1), Hà Tiến Khay (xóm 32 – Nhế) ….
Với tinh thần tự lực tự cường, để có kinh phí hoạt động và hỗ trợ hội viên có vốn phát triển kinh tế, ngoài vốn huy động từ ngân sách xã, sự giúp đỡ của các ban ngành đoàn thể, các chi phân hội đã có nhiều hình thức để xây dựng quỹ hội như: hội viên tự đóng góp, tổ chức lao động nạo vét mương máng …. cụ thể: mỗi hội viên khi vào Hội đóng góp vào quỹ của Hội là 150 ngàn đồng (thóc là 50kg/hội viên). Từ nguồn vốn đó, các chi phân hội tạo điều kiện cho các hội viên có điều kiện khó khăn vay phát triển sản xuất với lãi xuất thấp dưới 2 hình thức: tiền (1-2 triệu/hội viên) và thóc (3 tạ/hội viên), lãi xuất 1%, với thời gian cho vay (3 - 5 năm). Từ nguồn vốn đó các hội viên sử dụng mua trâu, bò, gia cầm, đào ao thả cá, mua thức ăn, phân bón phục vụ trồng trọt chăn nuôi phát triển sản xuất.
Để đảm bảo việc sử dụng nguồn vốn của hội viên là đúng mục đích, đem lại hiệu quả cao thì HCCB xã đã phối hợp với chính quyền sở tại, với các ban ngành chuyên môn của huyện, và các xã lân cận, tổ chức những cuộc nói chuyện, hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi, phát triển sản xuất đem lại hiệu quả kinh tế cao, thu hồi vốn nhanh; mở những lớp tập huấn kỹ thuật trồng trọt chăn nuôi, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kinh doanh; đẩy mạnh phát triển các làng nghề truyền thống.
Cùng với hoạt động đó HCCB trực tiếp mời, vận động những hội viên hiện sử dụng nguồn vốn có hiệu quả phát huy tinh thần tương thần tương ái trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ về vốn, giống cây trồng vật nuôi giúp các hội viên khác.
Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ cơ sở, giúp đỡ của các ban ngành, đoàn thể địa phương, tính cho tới năm 2006 HCCB xã về cơ bản không còn hộ nghèo, số hộ có mức kinh tế khá, giàu trở lên chiếm 56,7%, đời sống của gia đình cựu chiến binh đã được cải thiện rõ rệt, góp phần không nhỏ để xây dựng quê hương Yên Đồng anh hùng, giàu mạnh.
Với những thành tựu đạt được trên tất cả các HCCB xã Yên Đồng đã được HCCB tỉnh Nam Định tặng 3 bằng khen, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Ý Yên tặng 2 giấy khen, 5 chi hội, 10 cá nhân được tỉnh hội, huyện hội và Ủy ban nhân dân huyện tặng bằng khen, giấy khen.
2.2.1.2. Những khuyết điểm còn tồn tại
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong phong trào hội viên giúp nhau làm kinh tế giỏi HCCB xã còn nhiều hạn chế:
Tỷ lệ hộ hội viên còn nghèo trên địa bàn vẫn còn cao (khoảng 2,5-3%), nhiều gia đình hội viên vẫn phải sinh sống trong những căn nhà bị xuống cấp nghiêm trọng, các vật dụng phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất thiếu thốn,hư hỏng.
Nguồn vốn được vay từ các ngân hàng và nguồn vốn huy động trong hội viên vấn còn hạn chế chưa đáp ứng đủ và số lượng hội viên vay và số vốn vay để phát triển sản xuất cải thiện đời sống gia đình.
Một số hội viên sử dụng sai mục đích nguồn vốn được hoặc khi sử dụng vốn do thiếu kinh nghiệm, kỹ thuật nên sử dụng không hiệu quả thậm chí mất trắng.
Việc rải ngân nguồn vốn cho vay chậm nhiều khi thất thoát.
Thêm vào đó là thiếu sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo kiểm tra, đôn đốc của Đảng bộ, chính quyền cơ sở.
2.2.2. Nguyên nhân ưu khuyết điểm
2.2.2.1. Nguyên nhân đạt được thành tựu
Xét về mặt khách quan: đó là do sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Đảng bộ, chính quyền cấp cơ sở đối với HCCB; sự phối hợp của các ban ngành đoàn thể trên địa bàn cả nước đặc biệt ở đây là trên địa bàn xã….
Xét về mặt chủ quan: đó là nhờ tinh thần chủ động, tự lực tự cường quyết tâm chiến thắng cái đói, cái nghèo của cựu chiến binh; sự thông minh sáng tạo, tinh thần ham học hỏi của các hội viên trong quá trình sản xuất, chăn nuôi…
2.2.2.2. Nguyên nhân dẫn tới tồn tại
Nguyên nhân khách quan:
Cơ chế chính sách của Đảng, Nhà nước chưa đáp ứng với tinh hình đổi mới hiện nay: cấp chi phân hội kinh phí hoạt động không có, cán bộ chi hội trưởng không có phụ cấp, trợ cấp nên ảnh hưởng tới lòng nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm của cán bộ Hội cũng như hoạt động của Hội.
Do mặt trái của cơ chế thị trường nên tình trạng tiêu cực, tham ô, tham nhũng, suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ có chức, có quyền trong xã hội.
Nguyên nhân chủ quan
Trình độ, năng lực, trách nhiệm của cán bộ Ban chấp hành và cán bộ chi phân hội còn nhiều hạn chế.
Do cuộc sống của nhiều hội viên còn nhiều khó khăn, nguồn vốn cho hội viên vay có hạn.
Do đại bộ phận hội viên đều xuất thân từ nông dân nên nhìn chung trình độ học vấn có hạn vì vậy mà việc vận dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, kỹ thuật máy móc hiện đại vào sản xuất kinh doanh còn yếu kém, chưa phát huy được hết tính năng của máy móc, kỹ thuật.
Do tư tưởng bảo thủ cố hữu mang tính chất thuần nông nên quá trình chăn nuôi phát triển sản xuất còn mang tính nhỏ lẻ, tự cung tự cấp, việc mở rộng sản xuất kinh doanh một phần sợ mạo hiểm, phần do nguồn vốn có hạn nên khó mở làm rộng sản xuất với quy mô lớn.
2.2.3. Bài học kinh nghiệm
Tăng cường công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng cho hội viên, tạo niềm tin của hội viên với Đảng, Nhà nước
Tăng cường mở những lớp bồi dưỡng về trình độ, phổ biến kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất cho hội viên.
Tăng cường công tác kiểm tra giám sát việc rải ngân nguồn vốn từ ngân hàng xã hội, từ các nguồn hỗ trợ cho cựu chiến binh đảm bảo nguồn vốn tới đúng địa điểm và được sử dụng có hiệu quả.
Tăng cường sự phối hợp của các ban ngành, đoàn thể, các cơ quan chức năng trong việc cho vay và sử dụng nguồn vốn.
Có biện pháp giúp đỡ kịp thời về vật chất và tinh thần với hội viên khi có bất chắc xảy ra.
Nhìn chung giai đoạn (2001-2006) tuy vẫn còn vấp phải nhiều tồn tại song dưới sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền cơ sở, cùng sự phối hợp của các ban ngành đoàn thể trong địa bàn xã nên về cơ bản HCCB xã đã hoạt động có hiệu quả trên các lĩnh vực, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế. Những thành tựu đó góp phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, tiến tới xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống của hội viên trong Hội.
Chương 3
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VỚI HCCB TRONG VIỆC HỘI VIÊN GIÚP NHAU LÀM KINH TẾ GIỎI
3.1. Quan điểm của Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với HCCB
3.1.1. Quan điểm chung của Đảng
Tại Hội nghị tổng kết phong trào Cựu chiến binh làm kinh tế giỏi, diễn ra tại Hội trường Ba Đình – Thường trực Ban Bí thư Trương Tấn Sang đã nói:“Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao chủ trương của HCCB Việt Nam, xác định một trong những nhiệm vụ quan trọng, thiết thực đầy tình nghĩa là xây dựng phong trào cựu chiến binh nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo, làm giàu hợp pháp”.
Để phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng với HCCB trên các phương diện đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế Đảng đã để ra những quan điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước, xã hội động viên cựu chiến binh phát huy tinh thần tự lực tự cường, đoàn kết, tương thân tương ái để giúp nhau cải thiện và nâng cao đời sống; đồng thời quan tâm chăm lo tới đời sống và các quyền lợi hợp pháp của cựu chiến binh.
Thứ hai, các cấp hội cần tiếp tục động viên mạnh mẽ hơn nữa phong trào cựu chiến binh đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế, nâng cao đời sống, xóa đói, giảm nghèo nhanh chóng, vững chắc, đưa phong trào đi vào từng vùng, miền, từng đối tượng, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, cựu chiến binh là người dân tộc thiểu số, thương binh, bệnh binh … Phải nỗ lực phấn đấu để trong thời gian tới không có hộ cựu chiến binh đói, giảm nghèo tỉ lệ hộ nghèo, tái nghèo, xóa hết những nhà tạm, nhà dột nát, đồng thời động viên cựu chiến binh làm giàu hợp pháp, củng cố xây dựng câu lạc bộ doanh nghiệp, hiệp hội doanh nhân cựu chiến binh; tích cực tham gia những chương trình kinh tế xã hội ở địa phương, làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa, công tác từ thiện, giúp đỡ đồng báo, đồng chí gặp khó khăn hoạn nạn.
Thứ ba, các cấp, các ngành có trách nhiệm phối hợp tích cực giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào cựu chiến binh giúp nhau nâng cao đời sống, xóa đói, giảm nghèo, làm giàu hợp pháp của HCCB luôn phát triển, tạo ra nhiều mô hình mới, cách làm hay và đạt hiệu quả cao.
Thứ tư, HCCB phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng cơ chế, chính sách hợp lý, tạo điều kiện cho các cựu chiến binh phát huy hết khả năng của mình trong làm ăn kinh tế
3.1.2. Quan điểm của địa phương
Những thành tựu to lớn đạt được của 20 năm đổi mới đất nước nói chung và quê hương Yên Đồng nói riêng trên tất cả các lĩnh vực và những thành tích HCCB xã đạt được dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ xã là cơ sở vật chất tạo ra động lực thúc đẩy để cựu chiến binh phấn khởi, tin tưởng, đấu tranh hoàn thành những nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.
Để tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng bộ xã với nhân dân nói chung với HCCB nói riêng, Đảng đã đề ra và quán triệt các quan điểm:
Đảng bộ địa phương thường xuyên thay đổi nội dung, phương thức lãnh đạo cho phù hợp giai đoạn mới.
Thứ hai, tăng cường bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ từ Ban chấp hành đến cán bộ chi phân hội theo chương trình tập huấn, học tập của Ban Thường vụ để đủ sức lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành nhiệm vụ của Hội.
Thứ ba, trên cơ sở các Nghị quyết của Đảng, của hội, cơ sở pháp luật của Nhà nước, hội có kế hoạch phối hợp với các cơ quan chuyên môn cấp huyện và các xã lân cận tiến hành nâng bồi dưỡng nâng cao trình độ khoa học công nghệ mới, kỹ thuật phát triển sản xuất cho hội viên.
Thứ tư, phối hợp chặt chẽ với các ban ngành đoàn thể đặc biệt Hội nông dân mở cuộc nói chuyện, hướng dẫn sử dụng kỹ thuật, giống mới tại các xã, các thôn.
Có biện pháp kiểm tra, giám sát thường xuyên việc phân phối và sử dụng nguồn vốn được vay tại các chi phân hội.
3.2. Các giải pháp
3.2.1. Giải pháp chung của cả nước
Đảng cần đề ra nhiều chủ trương chính sách phù hợp với đòi hỏi của tình hình mới tạo điều kiện thuận lợi cựu chiến binh phát triển kinh tê, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống
Đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn theo hướng sản xuất lớn gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương.
Phát triển các khu công nghiệp, nông nghiệp công nghệ cao, các vùng trồng trọt chăn nuôi tập trung các dịch vụ công nghiệp, dịch vụ các làng nghề nhằm tiêu thụ các sản phẩm từ trồng trọt chăn nuôi, thủ công nghiệp của nhân dân nói chung và cựu chiến binh nói riêng.
Tiến hành quy hoạch đồng ruộng các làng nghề tạo thuận lợi mở rộng sản xuất, liên kết giữa các hội viên trong phát triển làng nghề, chú trọng công tác dạy nghề cho cựu chiến binh và con em của họ.
Tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật, khuyến lâm, khuyến nông, khuyến ngư cho các hội viên tham gi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- -LSD19.doc