Mục lục
Lời mở đầu 1
Chương I: Quan điểm của triết học Mac-lênin về vấn đề con người 3
I.Bản chất con người: 3
1.Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội 3
2.Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các quan hệ
xã hội .4
3.Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử .5
II.Mối quan hệ giữa cá nhân và XH .6
1.Những khái niệm 6
2.Biện chứng giữa cá nhân và xã hội .6
III.Vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử .8
1.Khái niệm .8
2.Quan hệ quần chúng nhân dân với lãnh tụ .8
Chương II: Con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH .9
I. Vài nét khái quát về tình hình Việt Nam trong thời kỳ hiện nay 9
1.Chính trị .9
2.Kinh tế .9
II.Đặc điểm con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH 11
1.Những nét truyền thống .11
2.Những nét đổi mới trong vấn đề con người ở Việt Nam .12
III.Những biện pháp thúc đẩy phát triển con người Việt Nam .14
1.Đổi mới triệt để hệ thống giáo dục 14
2.Tăng cường phát triển KHCN 14
3.Giải quyết vấn đề lao động, việc làm, thực hiện chế độ lượng hợp lý .15
4.Thực hiện dân chủ hóa .15
Kết luận .16
Danh mục tài liệu tham khảo 17
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5629 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Vận dụng quan điểm của triết học Mac- Lênin về vấn đề con người để tìm hiểu con người Việt Nam trong thời kì đẩy mạnh CNH-HĐH, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
làm nền tảng và động lực cho phát triển kinh tế đất nước. Những kết quả đạt được về phát triển con người của Việt Nam là rất đáng hoan nghênh trong hoàn cảnh đất còn khó khăn. Song một thực tế là con người Việt Nam đã đáp ứng được nhu cầu của thời đại CNH-HĐH, xu thế quốc tế hoá hay chưa? Những điểm nào còn tồn tại, gây bức xúc trong vấn đề con người làm cản trở sự phát triển của Việt Nam? Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu đề tài: “Vận dụng quan điểm của triết học Mac- lênin về vấn đề con người để tìm hiểu con người Việt Nam trong thời kì đẩy mạnh CNH-HĐH”.
Trình bày đề tài này, đầu tiên tôi xin phép nêu khái quát về quan điểm của triết học Mac-lênin về vấn đề con người, sau đó đi sâu phân tích điểm mạnh, điểm yếu của con người Việt Nam trong thời đại CNH-HĐH hiện nay. Bài viết chắc chắn có nhiều ssai sót, rất mong được sự góp ý của cô giáo Nguyễn Ngọc Anh. Em xin chân thành cảm ơn!
Chương I: Quan điểm của triết học Mac-lênin
về vấn đề con người
Bản chất con người:
Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hội:
Trong lịch sử có rất nhiều những quan niệm về con người, từ thời cổ đại, Đêmôcrit đã đưa ra quan niệm về bản chất vật chất tự nhiên của con là gồm thể xác và tinh thần đều được cấu tạo từ nguyên tử. Hay với triết học Trung hoa, Nho gia coi bản tính con người là thiện; Pháp gia quan niệm là bất thiện; còn Đạo gia lại coi bản tính con người là tự nhiên. những cách tiếp cận ấy thiên về tính xã hội của con người. Nói chung, triết học trước Mac nhận thức về con người còn phiến diện, hạn chế. Khi triết học Mac ra đời, những hạn chế đó đã được giải quyết. ông coi con người là một thể thống nhât giữa mặt sinh học và mặt xã hội. Mặt sinh học thể hiện ở thân thể vật chất của con người, ở những bản tính sinh học. những yếu tố sinh học ấy là kết quả của quá trình phát triển, và tiến hoá lâu dài của tự nhiên. Con người không thể thoát khỏi những quy đinh của mặt sinh vật, con người là một thực thể sinh vật có những nhu cầu thiết yếu: ăn, ngủ, trao đổi chất, sinh sản… Nếu thiếu chúng, con người không tồn tại. Mặt sinh vật là tiền đề đầu tiên quy định sự tồn tại của con người.
Tuy nhiên cái quy đinh phân biệt con người với các loài vật khác là mặt xã hội của con người. Mặt xã hội biểu hiện ở nhiều hình thức hệ tư tưởng, tôn giáo, phong tục tập quán, ngôn ngữ giao tiếp… Song biểu hiện rõ nhất và là nguồn gốc của các hình thức biểu hiện khác là con người biết lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất. con người phân biệt mình với các động vất khác là ở khả năng lao động, saen xuất ra TLSX, TLSH cảu cải thiện đời sống của mình. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người làm biến đổi quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người với con người qua từng trình độ sản xuất vật chất. Từ hoạt động lao động lao đông sản xuất,con người hình thành ngôn ngữ, tư duy XH… làm phát triển đời sống XH của mình lên trình độ ngày càng cao.
Con người là sản phẩm của cả tự nhiên và XH nên con người phải chịu sự quy đinh của ba hệ thống quy luật:
quy luật tự nhiên: là các quy luật như quy luật di truyền, quy luật trao đổi chất…
quy lật tâm lý: như tình cảm, niềm tin, khát vọng…
quy luật XH: quanhệ giữa con người và con người…
Trong xã hội phát triển ngày càng cao, mặt sinh học à mặt xã hội ngày càng gắn bó chặt chẽ, mặt sinh vật ngày càng được “nhân hoá” để mang giá trị văn minh XH. Mặt XH thì ngày càngđáp ứng tốt hơn nhu cầu sinh học của con người. con người hiện đại phải là con người tự nhiên- xã hội.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội:
Một con người bao hàm trong nó ba quan hệ: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với XH và quan hệ với bản thân con người đó. Quan hệ với tự nhiên trong đời song hàng ngày được biểu hiện qua các hoạt độngcó tính XH như lao động khai thác, chế biến, sử lý nguồn rác thải…Chính vì vậy có thể nói quan hệ con người với con người là mối quan hệ bản chất , quy định bản chất con người.
Một con người sinh ra và lớn lên rong những hoàn cảnh KT-XH cụ thể, vào những thời điểm lịch sử nhất định. Và trong điều kiện xác định đó, bằng hoạt động thực tiễn như lao động, nghỉ ngơi, giải trí… con người tham gia vào các quan hệ XH( quan hệ giai cấp, dân tộc, quan hệ gia đình, quan hệ kinh tế chính trị…) và qua đó con người mới bộc lộ bản chất XH của mình. Không có con người trừu tượng thoát ly điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Bản chất con người được quy định bởi những quan hệ xã hội, những quan hệ xã hội bị quyêt định bởi điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Nói bản chất con người là tổn hoà những quan hệ xã hội không có nghĩa bác bỏ mặt sinh họccủa con người mà muốn nhấn mạnh tính cụ thể, xác định của bản chất con người trong những điều kiện xã hội cụ thể. Hơn nữa, càng ngày mặt sinh học và mặt xã hội càng trở nên thống nhất, nên mặt sinh vật không bị phủ định mà ẩn chứa trong mặt xá hội, trong những quan hệ xã hội.
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử:
Con người vừa là sản phẩm tiến hoá của giới tự nhiên vừa là sản phẩm của lịch sử xã hội. Song điều quan trọng là ở chỗ con ngườikhông hcỉ là sản phẩm mà còn là chủ thể của lịch sử, tạo nên lịch sử cho mình một cách có ý thức. Mac đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật lịch sử cho rằng con người là sản phẩm của hoàn cảnh và của giáo dục…cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục..”. Qua đó Mác khẳng định, tự bản thân con người làm thay đổi điều kiện sống của mình. Con người lao động, tác động vào giới tự nhiên làm thay đổi môi trường sinh thái, tạo ra của cải vật chất phục vụ đời sống, làm thay đổi điều kiện kinh tế xã hội. Ví dụ như trong thế kỷ XVII, XVIII, nền đại công nghiệp phát triển thỉa chất độc công nghiệp vào môi trường, làm ô nhiễm môi trường, gây ảnh hưởng tới bầu khí quyển, nguồn nước trên thế giới và hậu quả của nó còn đến giờ. Nhưng đông thời, nền đại công nghiệp sản xuất ra khối lượng hàng hoá khổng lồ, với nhiều phát minh vĩ đại phục vụ tích cực cho đời sống con người, làm cho chất lượng cuộc sông được nâng cao rõ rệt, toạ điều kiện thúc đẩy xã hội phát triển. Vậy hoạt động lao động sản xuấtvừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở đó, con người cần có ý thức trong hoạt động vật chất và tinh thần nhămg thúc đẩy XH phát triển phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra.
Mối quan hệ giữa cá nhân và XH:
Những khái niệm:
Cá nhân:
Là khái niệm chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định và được phân biệt với các cá thể khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó.
Nhân cách:
Là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội dung, tính chất bên trong của mỗi cá nhân.
Nhân cách của cá nhân phụ thuộc vào:
tiền đề sinh học và tư chất di truyền học
môi trường xã hội: gia đình, nhà trường, xã hội
quan trọng nhất là thế giới quan cá nhân: quan điểm, lý luận, niềm tin…Nó phụ thuộc vào tính chất của thời đại : địa vị cá nhân trong xã hội, khả năng thẩm định giá trị đạo đức…
Xã hội:
Là khái niệm dung để chỉ cộng đồng các cá nhân trong mối quan hệ biện chứngvới nhâu, trong đó cộng đồng nhỏ nhất của xã hội là cộng đồng tập thể cơ quan đơn vị, và lớn hơn là cộng đồng XH quốc gia, dân tộc, rộng lớn nhất là cộng đồng nhân loại.
Biện chứng giữa cá nhân và xã hội:
Nguyên tắc cơ bản của việc xác lập mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng xã hội là mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và cộng đồng xã hội. Đó cũng là mối quan hệ vừa có sự thống nhất vừa có sự mâu thẫu. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là hiện tượng có tính lịch sử. Nếu như trong giai đoạn Công xã nguyên thuỷ không có sự đối kháng giữa cá nhân và xã hội, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội căn bản là thống nhất. Thì đến xã hội có giai cấp, lợi ích cá nhân và xã hội vừa có tính thống nhất, vừa có mâu thuẫn và mâu thuẫn đối kháng. Trong Chủ nghĩa xã hội, xã hội tạo tiền đề cho cá nhân phát triển toàn diện, phù hợp với lợi ích, mục tiêu chung của xã hội. Do đó, xã hội XHCN và cá nhân là thống nhất biện chứng, là tiền đề và điều kiện phát triển của nhau.
Sự biện chứng giữa cá nhân và xã hội còn thể hiện ở việc xã hội tạo khả năng cao nhất cho sự đóng góp của cá nhân vào quá trình xã hội và sự phát triển của mỗi cá nhân. Cá nhân càng phát triển thì càng thúc đẩy xã hội phát triển. Vì vậy việc thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu và lợi ích của cá nhân là mục tiêu và động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Việt Nam hiện nay đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, những mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội vẫn còn tồn tại. Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội cần phải tránh hai thái độ cực đoan. Một là, chỉ thấy cá nhân mà không thấy xã hội, nhu cầu cá nhân chưa phù hợp với điều kiện của xã hội. Hai là, chỉ thấy xã hội mà không thấy cá nhân, coi nhẹ vai trò cá nhân, không quan tâm đến lợi ích cá nhân. Với khuynh hướng thứ nhất, chủ nghĩa cá nhân hoành hành sẽ làm xã hội bất ổn định, không thể tiến lên chủ nghĩa xã hội. Với khuynh hướng thứ hai, nguồn lực con người sẽ bị suy yếu, không thể thúc đẩy xã hội phát triển. Vì vậy Đảng ta đã đề ra kế hoạch phát triển con người sao cho mói quan hệ cá nhân-xã hội được giải quyết hợp lý. Song việc áp dụng vào thực tế vẫn còn nan giải.
Vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử:
Khái niệm:
Quần chúng nhân dân: là những người lao động sản xuất ra của cải vật chất, tinh thần cho xã hội và các lực lượng tiến bộ mà thông qua hoạt động của nó lịch sử sẽ biến động.
Vĩ nhân: là những cá nhân kiệt xuất có khả năng thâu tóm, nắm bắt được những vấn đề cơ bản nhất, tiếp cận và đạt được những thành tựu nhất định của nhận khoa học và thực tiễn như hoạt động chính trị, khoa học, kỹ thuật…
Lãnh tụ: là những vĩ nhân kiệt xuất, người lãnh đạo, định hướng và thống nhất hoạt động của quần chúng nhân dân, có những phẩm chất cơ bản về tri thức, đạo đức và khả năng tập hợp quần chúng….
Quan hệ quần chúng nhân dân với lãnh tụ:
Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ là mối quan hệ biện chứng. Nó thống nhất trong sự tồn tại, mục đích và lợi ích của mình. Nó khác biệt với nhau ở vai trò của mỗi cái.
Vai trò của quần chúng nhân dân:
Mac đã khẳng định quần chúng nhân dân là LLSX cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. QCND còn là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Không có cuộc cách mạng nào trong lịch sử không có sự tham gia của đông đảo QCND mà chiến thắng được. Và QCND là người sáng tạo ra những giá trị văn hoá tinh thần. Và những giá trị ấy chỉ được phổ biến khi được QCND chấp nhận. Qua đó ta thấy được vai trò quyết định của quần chúng nhân dân đối với sự tồn tại và phát triển của đất nước. Từ xa xưa, Nguyễn Trãi đã đúc kết được: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Cho đến nay, Đảng ta quan niệm: “lấy dân làm gốc”, xây dựng một xã hội “ của dân, do dân, vì dân”. Có thể nói QCND là người sáng tạo ra lịch sử.
Vai trò của lãnh tụ:
Lãnh tụ là sản phẩm của phong trào quần chúng và là người đại diện cho lợi ích, ý chí của quần chúng. Lãnh tụ có vai trò vô cùng quan trọng đối với phong trào quần chúng. Trước lãnh tụ phải nắm bắt được xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại trên cơ sở hiểu biết những quy luật khách quan của các quá trình KT-CT-XH. Tiếp nữa, lãnh tụ cũng là người định hướng chiến lược cho chương trình hành động cách mạng. Đây là khâu quyết định cơ bản sự thành bại của phong trào quần chúng. Cuối cùng, lãnh tụ là người tổ chức lực lượng, thống nhất ý chí và hoạt động của QCND nhằm hướng vào mục tiêu cách mạng đề ra.
Tuy nhiên, cần có cái nhìn đúng đắn về vai trò của lãnh tụ và QCND trong các phong trào cách mạng. Không nên sung bái cá nhân mà quên đi tính quyết định của QCND. Nhưng cũng không nên hạ thấp vai trò, giá trị của cá nhân, chỉ đề cao thành tích của tập thể nói chung.
Chương II: Con người Việt Nam trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH-HĐH
I. Vài nét khái quát về tình hình Việt Nam trong thời kỳ hiện nay:
Chính trị:
Việt Nam đang trong thời kì quá độ lên Xã hội Chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất là Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Kinh tế:
Việt Nam xây dựng nền kinh tế thị trường nhiều thành phần định hướng XHCN:
Nhà nước ta chủ trương đổi mới nền kinh tế. Trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Các thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế ngời quốc doanh, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Nhờ đó, nền kinh tế có bước phát triển vượt bậc. Từ năm 1991-1995 tốc độ tăng trưởng là 8,2%, đến năm 1996-2000 là 6,9%. Không chỉ vậy, cơ cấu kinh tế dịch chuỷen theo hướng tích cực, tỷ trọng công ngiệp và dịch vụ tăng lên đáng kể, nông nghiệp giảm xuỗng chỉ còn 25,43% vào năm 1999. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng phát triển mạnh mẽ, đóng góp nguồn vốn cho phát riển kinh tế.
Đời sống nhân dân được nâng cao:
Các lĩnh vực giáo dục, y tế… được quan tâm chăm sóc. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 70% năm 1998 xuống còn 10% như hiện nay. 97,5% trẻ em đến trường ở cấp tiểu học. Cả nước có hơn 30.000 người có trình độ đại học. Đời sống nhân dân được nâng cao. Chỉ số HDI tăng rõ rệt: năm 1995 là 0,647 , năm 2001 là 0,682. Đứng thứ 101 trong tổng số 163 quốc gia trên thế giới. Cơ sở hạ tần của Xã hội ngày càng được hoàn thiện như điện, nước, giao thông…cơ bản đáp ứng nhu cầu người dân.
Hạn chế:
Bên cạnh nhiều thành tựu trong qua trình đổi mới vẫn còn nhiều thách thức đặt ra như:
CSHT không đáp ứng kịp nhu cầu phát triển kinh tế, hệ thống ngân hàng yếu kém.
Trình độ nguồn nhân lực Việt Nam còn thấp
khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam còn kém
ô nhiễm môi trường
khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng
…
Đặc điểm con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH:
Những nét truyền thống:
. Đoàn kết, tôn trọng những giá trị xã hội, cộng đồng:
Do truyền thống lao động sản xuất nông nghiệp cần chống chọi với thiên nhiên, từ xa xưa người Việt Nam đã có tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, hỗ trợ lẫn nhau. Cũng vì vậy, người Việt Nam rất coi trọng những giá trị cộng đồng, không ưa chủ nghĩa cá nhân. Ở hoàn cảnh đất nước hiện nay, đức tính này đã giúp Việt Nam đồng lòng vượt những thử thách khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt. Song nó cũng là nhược điểm gây suy nghĩ ỷ lại, không chịu hoạt động độc lập cá nhân, vì thế hiệu quả hoạt động đôi khi bị hạn chế.
Lòng yêu nước, tự tôn dân tộc:
Đây là một trong những yếu tố đưa Việt Nam đến chiến thắng của hai cuộc trường chinh cứu nước. Nó khẳng định tư cách người Việt Nam đứng vững trên trường quốc tế với tất cả những vẻ đẹp đặc trưng. Lòng tự tôn càng quan trọng khi Việt Nam càng ngày càng hội nhập sâu hơn vào môi trường quốc tế. Lòng yêu nước giúp người Việt Nam giữ vững bản sắc của mình để khẳng mình trước Thế giới.
Cần cù trong lao động sản xuất:
Sản xuất nông nghiệp hun đúc cho con người Việt Nam đức tính cần cù trong lao động. Trong thời đại hiện nay,con người Việt Nam vẫn cần phát huy hơn nữa những đặc điểm này do càng ngày khối lượng học tập cũng như làm việc cang lớn. Nếu biết kết hợp cần cù với khoa học thì chắc chắn công việc sẽ đạt hiệu quả cao.
Thụ động, tư duy phiến diện:
Người Việt Nam hiền lành chân chất nhưng thụ động với sự thay đổi của hiện thực khách quan. Điều đó thể hiện ngay trong chế độ giáo dục hiện tại của Việt Nam. Không những thế, tầm bao quát của tư duy chưa đầy đủ , vì vậy đãn đến tình trạng chắp vá trong đường lối chính sách của nhà nước, gây cản trở rất lớn đối với sự phát triển của đất nước.
Coi trọng phong tục tập quán, thói quen hơn pháp luật:
Người xưa có câu: “phép vua thua lệ làng”. Người Việt Nam rất coi trọng phong tục tập quán, hay làm việc theo thói quen,tính kỷ luật không cao. Thực trạng làm việc trong các công sở hiện nay cũng chứng minh điều đó. Hiệu quả làm việc vì vậy mà giảm sút nhiều.
Những nét đổi mới trong vấn đề con người ở Việt Nam:
Trình độ dân trí ngày càng được nâng cao:
Trong thời đại công nghệ phát triển, Việt Nam buộc phải có những chính sách phát huy tiềm năng con người: đầu tư cho giáo dục, văn hóa… để nâng cao trình độ cho nguồn nhân lực. Tuy nền giáo nước ta chưa phát triển, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn cho quá trinh CNH-HĐH. Song nó đang tích cực đổi mới theo hướng thúc đẩy thực hành, bám sát thực tiễn hơn. Nhiều cơ sở, trung tâm đào tạo nghề được mở ra nhằm tạo nên những thế hệ lao động có trình độ chuyên môn, khắc phục tình trạng thừa thầy thiếu thợ hiện nay. Bên cạnh việc gia tăng đội ngũ côn nhân lành nghề thì đội ngũ trí thức vẫn tiệp tục được quan tâm phát triển. Trong hoàn cảnh nền kinh tế tri thức càng ngày càng được mở rộng, đội ngũ tri thức Việt Nam cũng tích luỹ nhiều kiến thức hơn, phát huy via trò to lớn của mình trong ứng dụng sản xuất của cải vật chất. Cũng góp phần không nhỏ vào việc nâng cao trình độ dân trí là hệ thống truyền thông như báo chí, truyền hình, truyền thanh, mạng điện tử…luôn cập nhật tin tức và phổ biến những chính sách cơ bản của nhà nước cũng như những chính sách cơ bản về đời sống.
Năng động, sáng tạo, chủ động nắm bắt thời cơ:
Bước vào thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội và nhiều thách thức. Con người Việt Nam cần chủ động nắm bắt thời cơ làm giàu cho bản thân và xã hội. Đặc biệt trong giới doanh nhân đã có nhiều gương sáng tạo, năng động, chỉ đi từ đơn giản, “khác người” mà làm nên sự nghiệp. Giới trẻ Việt Nam hôm nay rất năng động, thâm nhập vào tất cả các lĩnh vực từ khi còn rất sớm, ví dụ như âm nhạc, báo chí, chứng khoán, thương mại điện tử…Họ là những ngườichủ tương lai của đất nước và họ đang tự hoàn thiện mình để đưa lại cho Việt Nam một gương mặt mới, một Việt Nam vừa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa mang hơi hướng hiện đại.
Dân chủ hoá:
Cùng với việc CNH-HĐH đất nước, Đảng và nhà nước còn chú trọng dân chủ hóa đời sống XH. Người dân Việt Nam ngày càng hiểu rõ quyền lợi, nghĩa vụ của mình rong việc tham gia quản lý nhà nước. Người dân trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào lập pháp và giám sát hành pháp. TLSX chủ yếu của xã hội dần đựơc tập chung rong khu vực quốc doanh, tức sở hữu của toàn dân. Tự do hóa cá nhân trong khuôn khổ thi hành đúng pháp luật được phổ biến, con người có thể tự do phát huy hết khả năng của mình và được nhà nứơc bảo hộ về an ninh, sức khoẻ… Dân chủ không những là nét đẹp văn minhmà còn là mục tiêu và động lực cho sự phát triển.
2.4. Hạn chế của CNH-HĐH mang lại cho con người:
CNH-HĐH nền kinh tế thị trường cũng có nhiều mặt trái và nó ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề con người. Trước hết là sự phân hóa giàu nghèo giữa các khu vực thành thị và nông thôn, lao động trí thức và lao động chân tay. Sau đó là sự du nhập nền hoá mới một cách sô bồ, khó quản lý, gây ảnh hưởng nhiều tới nét đẹp cổ truyền. Tệ nạn xã hội cũng gia tăng đáng kể như mại dâm, sử dụng chất kích thích, tham nhũng…Con người trong xã hội hiện nay không những cần có trình độ, tri thức cao mà phải có bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng vững chắc, biết tiếp thu cái mới nhưng không nhưng không lãng quên nét đẹp truyền thống, bản sắc dân tộc. Nói cách khác, Việt Nam hoà nhập chứ không hoà tan.
Những biện pháp thúc đẩy phát triển con người Việt Nam:
Đổi mới triệt để hệ thống giáo dục:
Hệ thống giáo dục hiện nay của nước ta còn kém phát triển, cơ sở hạ tầng lạc hậu, phương pháp học tập thụ động, tách rời thực tế, áp lực học hành còn cao, đội ngũ cán bộ giảng dạy chưa đáp ứng được nhu cầu về số lượng cũng như chất lượng. Vì vậy, đổi mới hệ thống giáo dục là vô cùng cần thiết để cải thiện trình độ người Việt Nam. Bên cạnh việc giáo dục trong nhà trường, học sinh cần được tham gia các hoạt động xã hội thực tiễn, từ đó bồi đắp một cách có định hướng cho nhân phẩm, lối sống của thế hệ tương lai. Đồng thời nền giáo dục Việt Nam cũng cần có sự liên kết rộng rãi hơn với các nền giáo dục tiên tiến trên Thế giới nhằm hỗ trợ phát triển nền giáo dục trong nước và nâng cao trình độ giáo dục lên đẳng cấp quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế quốc tế.
Tăng cường phát triển KHCN:
Cùng với giáo dục- đào tạo, khoa học công nghệ không chỉ là chính sách hàng đầucho CNH-HĐH mà còn là nhân tố thúc đẩy nâng cao trình độ con người. Trong những năm gần đây, người dân Việt Nam được tiếp cận ngày càng phổ biến với Internet, các mạng di động viễn thông làm tăng cường khả năng trao đổi thông tin. Công nghệ phát triển làm các dịch vụ giao thông vận tải ngày càng được mở rộng với mức giá phù hợp với người dân lao động, đặc biệt là vận tải hàng không xuất hiện nhiều dịch vụ giá rẻ. Vì vậy, phát triển khoa học công nghệ, đưa khoa học công nghệ vào sâu trong đời sống nhân dân là việc làm cần thiết để phát triển đời sống nhân dân, tạo nên một xã hội tiên tiến, văn minh.
Giải quyết vấn đề lao động, việc làm, thực hiện chế độ lượng hợp lý:
Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, vấn đề việc làm là vấn đề cấp bách cần giải quyết, bởi lẽ tình trạng thất nghiệp không những làm chậm tiến độ phát triển KT-XH mà còn làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Để giải quyết vấn đề này, trước hết phải đi từ khâu giáo dục. Vì điểm yếu của lao động Việt Nam là trình độ thấp. Đặc biệt cần chú trọng đào tạo nghề để tạo ra lực lượng công nhân có trình độ cao. Đồng thời nhà nước cần đầu tư cho các khu công nghiệp, mở rộng các thành phần kinh tế nhằm tạo ra nhiều việc làm mới.
Đi đôi với vấn đề giải quyết việc làm là vấn đề lương bổng. Trong nền kinh tế thị trường, phân hoá giàu nghèo gia tăng, để hạn chế tình trạng này, một trong những biện pháp là tạo ra một chế độ lương bổng hợp lý, cân đối giữa các thành phần kinh tế, các lĩnh vực kinh tế. Chế độ lương bổng phải giúp người lao động đủ khả năng nuôi sống bản thân và gia đình, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội, nhu vậy cũng là góp phần giảm bớt tình trạng tham nhũng.
Thực hiện dân chủ hóa:
Dân chủ không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của phát triển kinh tế xã hội. Dân chủ giúp con người được giải phóng, phát triển toàn diện bản thân, góp phần tích cực nhất cho sự phát triển đất nước. Hiện nay, Việt Nam đang cố gắng thực hiện dân chủ một cách phổ biến và triệt để. Về kinh tế, các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội được tập chung trong thành phần kinh tế nhà nước, thuộc sở hữu toàn dân. Về chính trị, người dân tham gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào lập pháp, hành pháp và tư pháp, khẳng định quyền làm chủ của mình. Tuy nhiên, Việt Nam cần cải cách hành chínhhơn nữa do nhiều thủ tục pháp lý vẫn còn gây trở ngại cho người dân. Hơn nữa nó còn là cái cớ để nhiều công chức nhà nước hạch sách nhân dân.
Kết luận
Chủ nghĩa xã hội do con người, vì con người. Do vậy hình thành mối quan hệ đúng đắn về con người, về vai trò của con người trong sự phát triển của xã hội nói chung, trong xã hội XHCN nói riêng, là một vấn đề không thể thiếu được cua thế giới quan Mac-Lenin.
Con người là khái niệm chỉ cá thể người trong một chỉnh thể, trong sự thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội của nó.
Nếu chỉ dừng lại ở một số thuộc tính sinh học của con người thì không thể giải thích được bản chất của con người. con người là một thực thể đặc biệt, hoạt động có ý thức, có khả năng sáng tạo cho mình. Từ tự nhiên và chính trong quá trình hoạt động đó, những quan hệ xã hội được hình thành có tác động mạnh mẽ tới sự hình thành nhân cách, bản chất của con người . Mac viết: “ Con người là tổng hoà của những quan hệ xã hội”.
Con người là chủ thể lịch sử, sáng tạo ra lịch sử. Trong cách mạng XHCN, con người là yếu tố quyết định, vừa là điểm xuất phát vừa là mục đích của một chính sách kinh tế xã hội. Xây dựng XHCN là xây dựng một xã hội mà ở đó có đủ điều kiện vật chất và tinh thần cho con người phát triển toàn diện.
Việt Nam đã làm được điều đó hay chưa? Cho tới nay chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Đời sống nhân dân được nâng cao rõ rệt, con người trong xã hội mới( xã hội XHCN) được phát triển toàn diện. Tuy vậy, còn một số bộ phận dân cư còn phải trong điều kiện thiếu thốn như các vùng sâu vùng xa, miền núi hải đảo…Do vậy lý luận chủ nghĩa Mac- Lenin nói chung và quan điểm chủ nghĩa Mac- Lenin về con người nói riêng là kim chỉ nam cho chúng ta hành động vì sự phát triển của con người và xã hội XHCN. Định hướng CNH-HĐH đất nước, đưa nước ta vượt qua khó khăn ban đầu, tiến lên CNXH và giành thắng lợi.
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình Triết học Mac-Lenin
Nhà XB Chính trị Quốc Gia- Xuất bản năm 2007
Giáo trình CNXHKH
Nhà XB Chính trị Quốc Gia- Xuất bản năm 2006
Giáo trình Lịch sử kinh tế
Nhà XB ĐH Kinh tế Quốc dân- Xuất bản năm 2007
Những chuyên đề triết học
Phó GS.TS Nguyễn Thế Nghĩa- trang 589-654
Tạp chí Người đọc sách
“Hạn chế của tư duy, nhận thức của người Việt”
GS.TS Tô Xuân Dân và TS Nguyễn Thành Công
Tạp chí Triết học (10/8/2006)
“Giá trị đạo đức truyền thống và những yêu cầu đạo đức đối với nhân cách con người Việt Nam hiện nay”- Cao Thu Hằng.
Mục lục
Lời mở đầu………………………………………………………………………1
Chương I: Quan điểm của triết học Mac-lênin về vấn đề con người……………3
I.Bản chất con người:……………………………………………………………3
1.Con người là một thực thể thống n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10746.doc