Tiểu luận Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc thực hiện dân chủ trong trường học

Bố cục:

Phần mở đầu

Phần nội dung

I, Quan niệm của HCM về dân chủ

1, Dân chủ là gì?

2, Dân chủ trong TT HCM

3, Quan niệm của HCM về nhà nước của dân, do dân và vì dân

4, Quan niệm của HCM về việc thực hiện dân chủ trong trường học

II, Nội dung cơ bản của quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường

III, Thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của các trường Đại Học

IV, Thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của trường Đại Học Mỏ - Địa Chất

V, Phương hướng nhằm nâng cao việc thực hiện dân chủ trong hoạt động của trường Đại Học Mỏ - Địa Chất

Phần kết luận

 

doc21 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10373 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc thực hiện dân chủ trong trường học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m về mặt pháp lý như người Âu, bỏ hẳn tòa án đặc biệt, công cụ để khủng bố Tự do báo chí và tự do tư tưởng. - Tự do lập hội và tự do hội họp. - Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương. - Tự do học tập và mở các trường kỹ thuậtluận văn - báo cáo - tiểu luận - tài liệu chuyên ngành Kỹ thuật và chuyên nghiệp cho người bản xứ ở khắp các tỉnh. - Thay thế chế độ sắc lệnh bằng chế độ đạo luật. - Phải có đại biểu thường trực người Việt Nam do người bản xứ bầu ra, ở bên cạnh nghị viện Pháp để trình bày nguyện vọng của người bản xứ. (Nguyễn Ái Quốc - Những yêu sách của nhân dân Việt Nam) Không chỉ giác ngộ cách mạng cho tầng lớp công nhân và nông dân, cụ Hồ còn chủ trương giúp đỡ các tầng lớp khác trong xã hội thành lập đảng đại diện cho nguyện vọng của họ. Có lẽ cụ đã vượt trước thời đại rất xa khi thấu hiểu sự cần thiết của nhiều đảng phái trong xã hội để nói lên tiếng nói của nhiều tầng lớp. Ngay trong báo cáo chính trị tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của đảng Lao Động Việt Nam (sau đổi tên thành đảng Cộng Sản), cụ Hồ đã phát biểu “Đảng Lao Động lại giúp những anh em trí thức tiến bộ thành lập đảng Dân Chủ Việt Nam để thu hút những thanh niên trí thức và công chức Việt Nam”. Không chỉ vậy, đảng Lao Động còn học hỏi những điều tốt đẹp của các đảng phái khác. Trong lời kêu gọi thi đua ái quốc ngày 11/06/1948, chủ tịch Hồ Chí minh đã nêu ra chủ trương của Việt Nam Quốc Dân Đảng để toàn dân hướng vào, đó là chủ thuyết Tam Dân mà tác giả là Tôn Trung Sơn, người cha của nền Cộng hòa Trung Quốc: “Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc”. Ba chữ “Độc lập”, “Tự do”, “Hạnh phúc” đã trở thành ba mục tiêu lớn nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và bây giờ là nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam. Đến tận những năm cuối đời, cụ Hồ vẫn căn dặn những lời hết sức hợp tình hợp lý. Trong di chúc, cụ mong muốn xây dựng một Việt Nam “Hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, và giàu mạnh”. Nếu ai đọc được các văn bảnThư viện các mẫu văn bản do cụ Hồ viết qua từng thời kì, sẽ hiểu ngay đường lối chiến lược này của cụ. “Hòa bình” nghĩa là các bên tham gia chiến tranh phải ngưng bắn để bước vào bàn đàm phán. Tiếp theo, “độc lập” nghĩa là nước ngoài không được can thiệp vào nội bộ Việt Nam, cụ thể là Mỹ phải rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam vô điều kiện. Rồi đến “thống nhất”, nghĩa là hai miền Nam Bắc sẽ tổ chức bầu cử tự do và công bằng để bầu ra chính phủ thống nhất trên toàn quốc. Ngay sau đó, chính phủ thống nhất cần thực hiện ngay thể chế “dân chủ”, chấm dứt tình trạng phải hạn chế nhân quyền, dân quyền do yêu cầu của thời chiến ở cả hai miền. Một khi đã có nền tảng dân chủ vững chắc, chúng ta mới có thể xây dựng đất nước “giàu mạnh”, và giàu mạnh một cách bền vững. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh từ đầu đến cuối vẫn là đấu tranh để trả lại những quyền căn bản cho người dân, thực hiện thể chế dân chủ để bảo đảm những quyền tự do của người dân được thực thi như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội và hội họp, tự do ứng cử và tự do bầu cử… Ngay trong bài viết “Thực hành tiết kiệm và chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu” năm 1952, cụ Hồ đã viết “Dân chủ là dựa vào lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng”. Để làm được như vậy thì ý dân cần phải được thể hiện qua báo chí tự do và bầu cử công bằng. 3, Quan niệm của HCM về nhà nước của dân, do dân, vì dân Tiền đề để thực hiện mọi quyền dân chủ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội là phải xây dựng một nhà nước dân chủ, một nhà nước “ của dân, do dân, vì dân”.Khi nói đến dân chủ thì HCM luôn đề cập đầu tiên tới một nhà nước của dân, do dân, vì dân. Một là nước dân chủ là tiền đề mọi dân chủ khác. * C¬ së h×nh thµnh: C¬ së lý luËn: Quan ®iÓm cña CN Mac-Lª Nin C¬ së thùc tiÔn: KÕ thõa nh÷ng t­ t­ëng tiÕn bé cña d©n téc vÒ x©y dùng nhµ n­íc. * Nhµ n­íc cña d©n . Quan ®iÓm nhÊt qu¸n cña HCM lµ x¸c l©p ta ¸t c¶ mäi quyÒn lùc trong nhµ n­íc vµ trong x· héi thuéc vÒ nhµ n­íc trong 24 n¨m lµm chñ tÞch n­íc HCM ®· l·nh ®¹o so¹n 2 b¶n hiÕn ph¸p 46 +9 hiÕn ph¸p 1946 nªu râ.TÊt c¶ quyÒn bÝnh trong nhµ n­íc ®Òu lµ cña toµn thÓ nh©n ViÖt Nam kh«ng ph©n biÖt nßi gièng, g¸i trai, giµu nghÌo, t«n gi¸o, giai cÊp, nh÷ng viÖc quan hÖ ®Õn vËn mÖnh quèc gia sÏ ®­a ra toµn d©n phóc quyÕt. Nh©n d©n ViÖt Nam cã quyÒn kiÓm so¸t nhµ n­íc, kiÓm tra, gi¸m s¸t vµ b·i miÔn ®¹i biÓu héi ®ång nh©n d©n c¸c cÊp khi hä kh«ng xøng ®¸ng víi sù tÝn nhiÖm cña nh©n d©n. Nh©n d©n còng lµ ng­êi x©y dùng nã. * Nhµ n­íc do d©n: - Nhµ n­íc ®ã lµ do d©n lùa chän vµ bÇu ra theo giai ®o¹n cña hiÕn ph¸p. - Nhµ n­íc ®ã lµ nhµ n­íc do d©n ®ãng gãp tiÒn cña ®Ó nhÇ n­íc chi tiªu mäi ho¹t ®éng. Nhµ n­íc khong trùc tiÕp t¹o ra tiÒn b¹c vµ cña c¶i mµ nh©n d©n míi trùc tiÕp t¹o ra tiÒn b¹c cña c¶i cho x· héi. Nguån tiÒn mµ nh©n ®ãng gãp d­íi nhiÒu h×nh thøcnh­ thÕ, lÖ phÝ c«ng tr¸i lµ nguån gèc nhµ n­íc chi tiªu hoat ®éng nh»m thùc hiÖn chøc n¨ng nhiÖm vô cña m×nh. - Nhµ n­íc do d©n lµ nhµ n­íc do d©n ñng hé vµ gióp ®ì. Nh©n d©n chÝnh lµ ng­êi thùc hiÖn c¸c chñ tr­¬ng, ®­êng lèi kÕ ho¹ch cña nhµ n­íc. D©n kh«ng chØ ®ãng gãp tiÒn cña mµ ®ãng gãp c¶ c«ng søc ®Ó x©y dùng nhµ n­íc ®ã. - Nhµ n­íc ®ã còng nhµ n­íc do d©n phª b×nh, x©y dùng. Nh©n lµ ng­êi ®ãng gãp c¶ trÝ tuÖ ®Ó x©y dùng còng cè nhµ n­íc. ChÝnh v× vËy, HCM th­êng nhÊn m¹nh nhiÖm vô cña nh÷ng ng­êi lµm c¸ch m¹ng lµ ph¶i cho d©n hiÓu, lµm cho d©b gi¸c ngé ®Ó n©ng cao ®­îc tr¸ch nhiÖm lµm chñ, n©ng cao ®­îc ý thøc tr¸c nhiÖm ch¨m lo x©y dùng nhµ n­íc cña m×nh HCM kh¼ng ®Þnh: ViÖc n­íc lµ viÖc cña chung, mçi ng­êi ph¶i cã tr¸ch nhiÖm: “NghÐ vai g¸nh v¸c 1 phÇn” quyÒn lîi, quyÒn h¹n bao giê còng ®i ®«i víi tr¸ch nhiÖm nghÜa vô. * Nhµ n­íc v× d©n: - Yªu cÇu thiÕt chÕ tæ chøc: + Nhµ n­íc v× d©n lµ nhµ n­íc lÊy viÖc lo cho d©n cô thÓ lµ lo cho nh÷ng lîi Ých thiÕt thùc cho ng­êi d©n: ¡n, ë, mÆc, ®i l¹i… Lµm môc tiªu ho¹t ®éng cho m×nh, ngoµi ra khong cã ®Æc quyÒn ®Æc lîi g×. + Nhµ n­íc nµy xuÊt ph¸t tõ viÖc lo cho nh÷ng îi Ých cña d©n téc dùa trªn ®ã hoµn thµnh thuyÕt chÕ bé m¸y nhµ n­íc. VÒ ®éi ngò c¸n bé c«ng chøc lµm viÖc trong bé m¸y nhµ n­íc ph¶i x¸c ®Þnh m×nh lµ c«ng béc cña d©n® LÊy viÖc phôc vô nh©n d©n lµm môc tiªu hµng ®Çu. HCM c¨n dÆn: TÊt c¶ nh÷ng thø chung ta dïng hµng ngµy ®Òu do d©n cung cÊp nªn ph¶i hÕt lßng, hÕt søc phôc vô do d©n cung cÊp nªn ph¶i hÕt lßng, hÕt søc phôc cho d©n, viÖc g× cã lîi Ých cho d©n th× ph¶i hÕt lµm, viÖc g× cã h¹i cho d©n ph¶i hÕt søc tr¸nh: Þ tãm l¹i, t­ t­ëng vÒ nhµ n­íc kiÓu míi kh«ng chØ ®­îc thÓ hiÖn trong lêi nãi mµ ®­îc thÓ hiÖn rÊt thiÕt thùc trong chÝnh viÖc lµm cña HCM. 4, Quan niệm của HCM về việc thực hiện dân chủ trong trường học Trong một nền giáo dục kiểu mới, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xem “giáo dục là sự nghiệp của quần chúng”. Một trong những mục tiêu cao nhất của nền giáo dục mới, nền giáo dục cách mạng Việt Nam là "đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam ... làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em", trang bị cho mỗi người dân có kiến thức mới để "biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc". Để làm được điều đó, Người yêu cầu “phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa” vì theo Người, chỉ có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả sinh viên, học sinh đề ra sáng kiến. Theo đó, các cấp ủy, chính quyền, các ngành các cấp, các đoàn thể quần chúng và toàn xã hội phải thật sự quan tâm đến công tác giáo dục, tạo điều kiện giúp đỡ các trường về mọi mặt, riêng nhà trường “phải thật sự mở rộng dân chủ trong cơ quan”, phải phát huy cao độ dân chủ trong giáo dục, tạo nên sự đoàn kết nhất trí giữa thầy với thầy, thầy với trò, trò với trò, tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa nhà trường - gia đình - xã hội cùng cộng đồng trách nhiệm để phát triển giáo dục, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục của ta lên những bước phát triển mới. Trong Bài nói tại Hội nghị cán bộ Đảng ngành Giáo dục (từ ngày 3 đến 8/6/1957, tại Hà Nội), Hồ Chí Minh nói: “giáo dục trong nhà trường dù có tốt mấy nhưng thiếu Giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không thu được hoàn toàn”. Trong khuôn khổ giáo dục ở nhà trường, việc thực hành dân chủ là một đòi hỏi hết sức bức thiết, theo đó, Người yêu cầu những người làm công tác quản lý giáo dục phải nhận thức đúng tầm quan trọng của dân chủ trong giáo dục, xác định giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân; chủ trương của Nhà trường phải cụ thể, thiết thực, đúng đắn; phải kết hợp chặt chẽ chủ trương, chính sách của Nhà nước với tình hình thực tế và kinh nghiệm quý báu, phong phú của quần chúng, của cán bộ và của địa phương. Để việc thực hiện dân chủ trong giáo dục ở nhà trường phát huy được hiệu quả, theo Hồ Chí Minh yếu tố cần thiết đầu tiên là phải đào tạo và xây dựng đội ngũ những người làm công tác giáo dục, đặc biệt là các cô giáo, thầy giáo - những người vẻ vang nhất, những anh hùng vô danh, người kỹ sư tâm hồn, vì theo Người, “không có thầy giáo thì không có giáo dục”. Để xứng đáng với danh hiệu ấy, Người cho rằng “mỗi người thầy giáo phải không ngừng học tập trau dồi chuyên môn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức cách mạng của nhà giáo, thực sự vừa "hồng" vừa "chuyên", "phải tiến bộ cho kịp thời đại thì mới làm được nhiện vụ, chớ tự mãn cho mình giỏi rồi thì dừng lại mà dừng lại là lùi bước, là lạc hậu, tự đào thải mình trước. Phải cố gắng học tập để cải tạo mình, cải tạo con em, cải tạo xã hội”, phải thật sự yêu nghề, yêu trường. Quán triệt quan điểm của Mác - Lênin: "bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục", Hồ Chí Minh cho rằng: "người huấn luyện phải học tập mãi thì mới làm tốt được công việc của mình - người huấn luyện nào tự cho mình là biết đủ cả rồi thì người đó là dốt nhất". Ngoài việc nhắc nhở về học tập chuyên môn, Người cũng lưu ý một vấn đề hết sức quan trọng đó là học tập chính trị, vì "có học tập lý luận Mác - Lênin thì mới củng cố được đạo đức cách mạng, giữ vững lập trường, nâng cao sự hiểu biết về trình độ chính trị mới làm nòng cốt công tác Đảng giao phó". Mặt khác, Người cho rằng bản thân người thầy cũng phải học tập chính từ thực tiễn sinh động. Người nhắc lại câu "giáo bất nhiêm, sư chi toạ", tức là dạy không nghiêm túc, không đến nơi đến chốn là do thầy lười nhác. Vì vậy, để nâng cao chất lượng của hoạt động giảng dạy bản thân mỗi người thầy giáo phải không ngừng rèn luyện trong thực tiễn sinh động của xã hội, tiếp thu lấy chất lượng sống ở đó mà truyền lại cho thế hệ trẻ: thầy giáo và học trò, tuỳ hoàn cảnh và khả năng cần tham gia vào những công tác xã hội ích nước lợi dân, Những kiến thức thực tiễn đó mới thật là dòng sữa ngọt lành nuôi dưỡng thế hệ đang lớn lên. Mặt khác, để nâng cao trình độ nhận thức của người học, Hồ Chí Minh cho rằng thầy cô giáo phải có quan điểm dân chủ, thẳng thắn, không nhồi sọ, áp đặt và cần tạo môi trường, điều kiện để người dạy và người học có sự đối thoại, trao đổi trong quá trình giảng dạy, học tập. Người chỉ rõ “chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý”, “được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng cũng vậy", và nhấn mạnh “trong trường, cần có dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt, thì hỏi, bàn cho thông suốt” và "khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý". Một cách cụ thể hơn, Hồ Chí Minh kêu gọi giảng viên phải biết tôn trọng ý kiến của đồng nghiệp, của sinh viên, không nên có thành kiến đối với các ý kiến trái với ý kiến của mình, phải "nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng","phải ra sức tẩy sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại như: thái độ thờ ơ đối với xã hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân, học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ. Và cần xây dựng tư tưởng dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân". Trong mối tương quan giữa người dạy và người học, xét ở góc độ tác động của người dạy đến người học, thì một giảng viên giỏi là một giảng viên biết hướng dẫn sinh viên đi tìm chân lý vì vốn dĩ theo Hồ Chí Minh, “lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo”. Để làm được điều này, điều cần thiết là phải thật sự tạo ra được một môi trường học tập thật dân chủ, trong môi trường này thầy và trò cùng nhau thảo luận, đối thoại, ở đó không khí thoải mái, hăng hái sẽ được tạo ra, sinh viên có nhiều cơ hội để thể hiện, phát huy năng lực của mình và đích đến của nó là sự sáng tạo như lời Người đã nói: “dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái, và người khác cũng học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc, thì những khuyết điểm lặt vặt, cũng tự sửa chữa được nhiều”. Từ đó, Người yêu cầu: giảng viên cần phải nâng cao mở rộng dân chủ ra, khuyên gắng sinh viên, bày cho họ suy nghĩ, cổ động họ tìm tòi, đề nghị,.... Khi họ đã có ít nhiều sáng kiến, thì giúp đỡ cho họ phát triển, khen ngợi cho họ thêm hăng hái. Như thế, thì những tính lười, tính “gặp chăng hay chớ” ngày càng bớt, mà sáng kiến và tính hăng hái ngày càng nhiều thêm. Tuy nhiên, để dân chủ trong giáo dục ở nhà trường được hoàn bị, Hồ Chí Minh yêu cầu “dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải là “cá đối bằng đầu”, trong trao đổi, đối thoại phải trên tinh thần nghiêm túc, công khai, khách quan, phản ánh sự vật, hiện tượng đúng với thực tiễn xảy ra, “không được nói gàn, nói vòng quanh”,… Đó là những yêu cầu có tính nguyên tắc trong đối thoại. Cụ thể như việc đọc tài liệu, Người yêu cầu “phải đào sâu hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng câu một trong sách, có vấn đề không thông suốt thì mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ lẻ” cũng như đối với bất cứ vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi "vì sao?", đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực tế không, có thật đúng lý không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều. Phải suy nghĩ chín chắn". Như vậy, mặc dù đề cao và yêu cầu phải dân chủ, phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ, tự do tư tưởng, Hồ Chí Minh cũng khẳng định không thể có dân chủ quá trớn hay tùy tiện, dân chủ phải gắn liền với pháp luật, tự do phải gắn liền với kỷ cương. Về mối quan hệ này, Người nói: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại, nếu hòm không có khóa, nhà không có cửa thì sẽ mất cắp hết. Cho nên có cửa phải có khóa, có nhà phải có cửa. Thế thì dân chủ cũng cần phải có chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ” và "không nên hiểu lầm dân chủ. Khi chưa quyết định thì tha hồ bàn cãi. Nhưng khi đã quyết định rồi thì không được bàn cãi nữa, có bàn cãi cũng chỉ là để bàn cách thi hành cho được, cho nhanh, không phải để đề nghị không thực hiện. Phải cấm chỉ những hành động tự do quá trớn ấy". Ngoài ra, việc thực hiện dân chủ trong giáo dục ở nhà trường, ngoài những yêu cầu về người thầy, cũng như sự tương tác giữa người dạy và người học, Hồ Chí Minh cũng đặc biệt quan tâm đến sự tương tác giữa người học đối với người dạy như nêu ra những yêu cầu về phía người học: “Chúng ta là những người lao động làm chủ nước nhà. Muốn làm chủ được tốt, phải có năng lực làm chủ. Chúng ta học tập chính là để có đủ năng lực làm chủ, có đủ năng lực tổ chức cuộc sống mới... Bởi vậy, ý thức làm chủ không phải chỉ tỏ rõ ở tinh thần hăng hái lao động, mà còn phải tỏ rõ ở tinh thần say mê học tập để không ngừng nâng cao năng lực làm chủ của mình”; “con người xã hội chủ nghĩa” - con người toàn diện, “nhất định phải có học thức. Cần phải học văn hoá, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý luận Mác - Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày”. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, để việc thực hiện dân chủ trong giáo dục ở nhà trường đạt hiệu quả, bản thân sinh viên, học sinh phải xác định được ý thức làm chủ, ra sức học tập, nghiên cứu, phát huy tinh thần tự học để xứng đáng là người chủ tương lai của đất nước, người chủ của chính cuộc sống của mình. Trên đây là nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về việc thực hiện dân chủ trong giáo dục ở nhà trường, xuất phát từ quan niệm của Người: “xã hội ngày càng tiến, công tác của ta cũng phải ngày càng tiến”, hơn bao giờ hết, trong giai đoạn đổi mới và phát triển hiện nay của đất nước, tư tưởng đó của Người luôn soi sáng sự nghiệp trồng người ở Việt Nam, nó không chỉ là cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược đào tạo con người, chủ trương, đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt Nam của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng, mà còn là những bài học, những kinh nghiệm thực tiễn giáo dục hết sức sinh động, thiết thực và hiệu quả đối với người làm công tác giáo dục nói riêng, ngành giáo dục nói chung hiện nay. Bài học này nhắc chúng ta luôn quán triệt rằng một nền giáo dục mới nhất thiết phải thực hiện tốt dân chủ mới; một nhà trường phát triễn vững mạnh nhất thiết phải có dân chủ và thực hiện tốt dân chủ trong hoạt động giáo dục. Dân chủ đó nhất thiết phải gắn liền kỷ cương, vì thế song song với việc phát huy dân chủ cần nghiêm khắc đối với những trường hợp vi phạm hoặc mất dân chủ trong hoạt động giáo dục bằng những chế tài nhất định. Đó là tiền đề, là cơ sở cho mọi năng lực của ta, sáng kiến của ta, tiến bộ của ta luôn luôn phát triển, tiến lên không ngừng xứng đáng là một nền giáo dục mới Việt Nam mà “con mắt đại bàng của tư duy” của Hồ Chí Minh đã phát hiện và dày công vun đắp. II, Nội dung cơ bản của việc thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường Trên cơ sỏ tư tưởng HCM về dân chủ trong hoạt động của nhà trường. Đảng và nhà nước ta đã xây dựng một bộ chế tài về quy chế dân chủ trong trường học.Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Pháp luật và Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị, Nghị định số 71/1998-NĐ-CP ngày 08/9/1998 của Chính phủ, vào ngày 01/3/2000 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký ban hành Quyết định số 04/2000/QĐ-BGD&ĐT về Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường. Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của Nhà trường nêu rõ: mục đích của việc thực hiện dân chủ trong nhà trường nhằm thực hiện tốt nhất, có hiệu quả nhất những quy định của Luật Giáo dục theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong các hoạt động của nhà trường thông qua hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện đảm bảo cho cán bộ, giảng viên, nhân viên được quyền đóng góp ý kiến, giám sát, kiểm tra, đóng góp cho các hoạt động  của nhà trường. Thực hiện dân chủ trong nhà trường còn nhằm phát huy tiềm năng, trí tuệ của hiệu trưởng, nhà giáo, người học, cán bộ, công chức, người lao động trong nhà trường trong quá trình phát triển và thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà trường. Quy chế thực hiện dân chủ trong nhà trường quy định “Hiệu trưởng là người do cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm, có trách nhiệm quản lý toàn bộ các hoạt động của nhà trường” (Điều 4) và “thực hiện nguyên tắc dân chủ trong quản lý nhà trường. Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức, đoàn thể trong nhà trường phát huy dân chủ trong hoạt động của nhà trường” (Điều 7). Những việc Hiệu trưởng cần phải lấy ý kiến đóng góp của các cá nhân và tổ chức, đoàn thể trước khi ra quyết định: ‒      Kế hoạch phát triển, tuyển sinh, dạy học, nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác của nhà trường. ‒      Quy trình quản lý đào tạo, những vấn đề về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy trong nhà trường. ‒      Kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của nhà giáo, cán bộ, công chức. ‒      Kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường, các hoạt động dịch vụ, sản xuất của nhà trường. ‒      Các biện pháp tổ chức phong trào thi đua, khen thưởng hằng năm, xây dựng nội quy, quy chế trong nhà trường. ‒      Các báo cáo sơ kết, tổng kết năm học. Quy chế về thực hiện dân chủ trong Nhà trường cũng nêu rõ những việc nhà giáo, cán bộ, công chức được biết, tham gia ý kiến, giám sát kiểm tra thông qua hình thức dân chủ trực tiếp hoặc thông qua tổ chức, đoàn thể trong nhà trường: ‒      Những chủ trương, chính sách, chế độ của nhà trường và nhà nước đối với nhà giáo, cán bộ, công chức. ‒      Những quy định về sử dụng tài sản, xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường. ‒      Việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật nếu có. ‒      Công khai các khoản đóng góp của người học, việc sử dụng kinh phí và chấp hành chế độ thu, chi, quyết toán theo quy định hiện hành. ‒      Giải quyết các chế độ, quyền lợi, đời sống vật chất, tinh thần cho nhà giáo, cán bộ, công chức, người học. ‒      Việc thực hiện thi tuyển dụng, thi nâng ngạch công chức, nâng bậc lương, thuyên chuyển, biểu dương, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật. ‒      Những vấn đề về tuyển sinh và thực hiện quy chế thi trong năm học. ‒      Báo cáo sơ kết, tổng kết, nhận xét, đánh giá công chức hàng năm. III, Thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của các trường Đại Học Theo qui luật phát triển, nơi nào trình độ dân trí cao thì việc thực hiện dân chủ diễn ra như một quá trình tự nhiên, tất yếu. Nó không chỉ là mục tiêu mà còn là phương pháp, là công cụ không thể thiếu để tiếp tục phát triển. Các trường đại học và cao đẳng là một trong những nơi tập trung chất xám, trí tuệ của xã hội, vì vậy dân chủ cần phải phải được biểu hiện rõ ràng trong mọi hoạt động của nhà trường, từ hoạt động xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý, xây dựng cơ sở vật chất, chương trình đào tạo cho đến tổ chức quản lý, hợp tác đào tạo, xây dựng môi trường văn hóa học đường... Chỉ như vậy mới huy động và phát huy năng lực, trí tuệ, sức mạnh của mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội vào sự phát triển của nhà trường. Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường đã được các trường đại học và cao đẳng ở nước ta triển khai thực hiện từ sau khi được ban hành và do Hiệu trưởng trực tiếp chỉ đạo. Thực hiện dân chủ cơ sở gắn liền với nhiệm vụ chính trị của nhà trường, kết hợp với việc củng cố, kiện toàn tổ chức, đặc biệt là công tác cán bộ, xây dựng tổ chức trong sạch, vững mạnh. Một là, dân chủ trong việc “biết”, “bàn” của cán bộ, giảng viên, nhân viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn cả nước. Vấn đề đầu tiên trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở chính là “dân biết”,  “dân” trong các trường cao đẳng, đại học chính là đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhân viên và sinh viên nhà trường. Tại mục 2 Điều 7 Quyết định số 04/2000/QĐ-BGD & ĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 01/3/2000 quy định rõ những việc nhà giáo, cán bộ, công chức được biết, tham gia ý kiến, giám sát kiểm tra thông qua hình thức dân chủ trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức, đoàn thể trong nhà truong. Hai là, dân chủ trong việc “làm” và “kiểm tra” của cán bộ, giảng viên, nhân viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn cả nước. Từ tháng 5/2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quy chế thực hiện 3 công khai đối với các cơ sở giáo dục. Các nội dung của 3 công khai phải được công bố ở Website của mỗi trường, ở các khoa, thư viện để mọi người dễ tiếp cận, tạo sự giám sát của xã hội về chất lượng cũng như mọi hoạt động của nhà trường và là động lực cho việc nâng cao chất lượng đào tạo. Rõ ràng thực hiện dân chủ trong nhà trường nhằm phát huy quyền làm chủ và huy động tiềm năng trí tuệ của hiệu trưởng, nhà giáo, người học, đội ngũ cán bộ, công chức; ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội, góp phần xây dựng nề nếp, trật tự kỷ cương trong mọi hoạt động của nhà trường, thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Ở tất cả các trường đại học, cao đẳng đều có Ban thanh tra giáo dục và Ban thanh tra nhân dân, trong đó, Ban thanh tra nhân dân có trách nhiệm thực hiện chức năng giám sát, kiểm tra việc thực hiện quy chế dân chủ, có trách nhiệm lắng nghe ý kiến của quần chúng, phát hiện những vi phạm quy chế dân chủ trong nhà trường để đề nghị hiệu trưởng giải quyết. Hiệu trưởng không giải quyết được thì báo cáo lên cấp có thẩm quyền trong ngành theo phân cấp quản lý để xin ý kiến chỉ đạo giải quyết. Tuy nhiên, thành viên của Ban thanh tra nhân dân thường là kiêm nhiệm, do đó chỉ khi nào có vấn đề nổi cộm xảy ra mới hoạt động, chính vì vậy Ban thanh tra nhân dân chưa thực sự phát huy được vai trò của mình trong hoạt động của nhà trường. Trách nhiệm và quyền hạn của nhà giáo, cán bộ, công chức được quy định một cách cụ thể trong Luật Giáo dục, ngay tại Quyết định số 04/2000/QĐ-BGD & ĐT cũng chỉ rõ 8 vấn đề mà nhà giáo, cán bộ, công chức được biết, tham gia ý kiến và kiểm tra, giám sát. Điều 13 Quy chế thực hiện dân chủ cơ sở trong nhà trường quy định trách nhiệm của các đoàn thể, các tổ chức trong nhà trường (dân chủ đại diện), trong đó quy định người đứng đầu các đoàn thể, các tổ chức trong nhà trường là người đại diện cho đoàn thể, tổ chức đó có trách nhiệm: Phối hợp với nhà trường trong việc tổ chức, thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường. Các tổ chức, đoàn th

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVận dụng TTHCM vào việc thực hiên dân chủ ở trường ĐH HUMG.doc
Tài liệu liên quan