Trên thực tế có những ngành thuộc lĩnh vực văn hoá cũng có những bộ phận làm công tác kinh doanh, công việc kinh doanh đó giúp cho các ngành đó có thêm điều kiện phát triển ngành của mình, làm nghĩa vụ với Nhà nước và phục vụ quần chúng nhân dân rộng rãi hơn, có chất lượng hơn. Có những ngành văn hoá và khoa học đứng ngoài công việc kinh doanh nhưng có khả năng phục vụ sự nghiệp kinh doanh, bằng các công trình nghiên cứu khoa học của mình và bằng những hoạt động chuyên môn, ví dụ như Tâm lý học, Xã hội học giáo dục và đào tạo
9 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2000 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Văn hoá và kinh doanh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TÂM LÝ HỌC
------
TIỂU LUẬN
TÂM LÝ HỌC KINH DOANH
ĐỀ TÀI: VĂN HOÁ VÀ KINH DOANH
Học viên : Lê Thị Lan Hương
Lớp : K4 Cao học Tâm lý
Hà Nội, 04 - 2005
Văn hoá không chỉ thể hiện ra hành vi, ai chỉ ,điệu bộ thông qua hoạt động giao lưu của con người mà còn thể hiện ở tư duy tình cảm giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên Zhang Xiquang (Trung Quốc) văn hoá, theo nghĩa rộng là toàn bộ của cải vật chất và tinh thần do con người tạo ra trong qúa trình hoạt động xã hội và lịch sử thực tiễn. Theo nghĩa hẹp, văn hoá là hệ tư tưởng, các hệ thống và các thể chế đi theo nó như là văn hoá, khoa học, đạo đức, triết lý...
Mục đích cơ bản của văn hoá nhằm nuôi dưỡng và nâng cao phẩm chất, tính cách và cá tính của con người, luôn luôn hướng tới cái thiện, lòng nhân ái và cái đẹp. Văn hoá làm cho con người phát triển toàn diện.
Chức năng cơ bản của văn hoá là tạo ra và củng cố hoà bình, hợp tác của con người với con người, bất kể sắc tộc màu da, tôn giáo, giàu nghèo giới tính, nghề nghiệp, ngôn ngữ văn hoá. Các biểu hiện về nhận thức, hành động văn hoá ở các xã hội khác nhau thì khác nhau. Mỗi một nền văn hoá đều có tính hai mặt rất phức tạp, song nó vô cùng quan trọng tới cuộc sống của con người.
Văn hoá trong sản xuất kinh doanh là hệ thống những giá trị vật chất, tinh thần do con người tạo ra trong qúa trình sản xuất kinh doanh và được thể hiện trong cách ứng xử của họ đối với tự nhiên, xã hội ở một khu vực, cộng đồng nào đó.
Theo John Kotter: ở một mức độ nhất định văn hoá kinh doanh có liên quan đến các quy chuẩn hay phong cách xử sự truyền thống của một nhóm người hình thành qua thời gian. Những quy chuẩn này không phải chỉ là những mẫu hành vi lặp đi lặp lai ta thấy ở đây có một nhóm, mà gồm các hành động được mọi người củng cố một cách vô ý thức. Văn hoá là khi có một người hành động không theo cách thông thường thì lập tức những người kia sẽ buộc người đó phải trở lại cách hành xử đã được thừa nhận.
ở mức độ sâu sắc hơn, văn hoá kinh doanh là những giá trị mặc nhiên được chia sẻ tỏng một nhóm người, ấn định cái gì quan trọng, cái gì tốt xấu. Thường thì những giá trị này nhất quán với quy tắc nhóm. Có nghĩa là các quy tắc xử sự phản ánh các giá trị, và ngược lại các giá trị phản ánh quy tắc xử sự.
Tuy nhiên, các giá trị và quy tắc đều vô hình, các hành động củng cố xảy ra theo tiềm thức. Vì vậy người ta không nhận biết được nền văn hoá hoặc vai trò mà con người giữ trong việc giữ gìn một nền văn hoá đặc thù.
Trên thế giới những năm hậu bản thế kỷ XX văn hoá kinh doanh làm cản trở sự thay đổi, phát triển, phần lớn các doanh nghiệp đều cho rằng văn hoá đã gây trở ngại cho họ trong việc tái lập, thích nghi với sự phát triển của thị trường hàng thực hiện những chiến lược kinh doanh mới.
Ở Việt Nam một thời gian dài trước đây và cho đến cả ngày nay vẫn tồn tại ý kiến cho rằng: Văn hoá và kinh doanh là hai lĩnh vực, không những khác biệt mà còn đối lập nhau trong định hướng giá trị hành vi của con người. Vì mục đích kinh doanh là lợi nhuận còn văn hoá hướng tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong quan hệ giữa con người với con người. Vì mục đích kinh doanh là lợi nhuận còn văn hoá hướng tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên, và với cả bản thân. Như vậy làm sao có thể đưa yếu tố văn hoá vào trong kinh doanh, làm sao kêu gọi đạo đức trong nền kinh tế thị trường, nơi ngự trị quy luật cạnh tranh nghiệt ngã “không sống mống chết”, “mạnh được, yếu thua”. Không ít nhà lý luận kinh tế phương Tây đã chứng minh “Thị trường là nơi thể chế háo chủ nghĩa cá nhân, “người bán và người mua chỉ quan tâm tới lợi nhuận của mình”.
Trong điều kiện của thế giới và Việt Nam ngày nay rất cần thiết phải đưa các yếu tố văn hoá vào kinh doanh, để làm cho kinh doanh trở thành kinh doanh có văn hoá. Và đó là điều kiện quan trọng đưa các doanh nghiệp tới thành công. Chỉ có công ty thua lỗ triền miên mới không có văn hoá kinh doanh. Phải xây dựng một văn hoá thuận lợi cho sự phát triển kinh doanh, kinh doanh có văn hoá không loại trừ mục tiêu kiếm lời, mà còn tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa người sản xuất, người buôn bán và người tiêu dùng để cho các bên đều có lợi. Văn hoá nói chung, đạo đức và nhân phẩm nói riêng có vai trò hết sức quan trọng trong kinh doanh. Có tác dụng nuôi dưỡng, củng cố và phát triển kinh doanh. Kinh doanh có phát triển lại tạo ra môi trường thuận lợi cho phát triển văn hoá. Những yêu cầu của phát triển kinh doanh cũng là những “đơn đặt hàng” cho văn hoá và kinh doanh.
Tuy nhiên, văn hoá và kinh doanh là một phạm trù rộng lớn, có nhiều mối quan hệ tác động qua lại hết sức đa dạng và phức tạp, đòi hỏi phải tiếp tục đi sâu, thảo luận, nghiên cứu đầy đủ, toàn diện hơn trong giai đoạn tiếp theo.
John Kotter dưa ra hai kiểu văn háo làm cản trở sự phát triển kinh doanh đó là người quản lý coi trọng cán bộ quản lý, trọng tâm hướng nội và tư lợi, thứ hai là kiểu coi thường khả năng lãnh đạo (nhất là cấp trung bình và cấp thấp).
Phải ngăn ngừa lối kinh doanh vô văn hoá, chạy theo lợi nhuận đơn thuần, ích kỷ hạt nhân, bỏ qua quyền lợi của người tiêu dùng, xem thường đạo đức và nhân cách, coi nhẹ cái giá trị nhân văn.
Theo Kotter có hai kiểu văn hoá kinh doanh giúp các doanh nghiệp thích nghi với môi trường thay đổi mà vẫn gặt hái được thành công. Thứ nhất là “nhóm điều hành phải biết định giá trị vai trò các thành viên trong công ty một cách sâu sắc, chân thật và thành khẩn”. Họ phải có cái nhìn ra ngoài, phải thật sự quan tâm tới khách hàng, tới cổ đông và các nhân viên của mình. Đó là đặc điểm quan trọng trong việc tạo ra văn hoá có tính thích nghi và linh hoạt. Thứ hai “Đề cao và khuyến khích óc sáng tạo và khả năng lãnh đạo ở mọi cấp trong tổ chức”. Không chỉ ở cấp tối cao mà là ở cấp giữa và ngay cả cấp thấp hơn trong tổ chức.
Theo ông cả hai kiểu văn hoá kinh doanh trên mang lại một năng lực phi thường để vượt lên môi trường đầy biến động, họ nhìn ra ngoài nơi đang diễn ra các hoạt động kinh doanh để có cái nhìn sâu sắc các vấn đề, hoặc cơ hội thuận lợi thì họ sẽ có các biện pháp giải quyết tốt hơn, bởi vì họ làm việc có tập thể, có nhiều cặp mắt để quan sát bên ngoài, họ sẽ nắm được lượng thông tin nhiều hơn, đồng thời có nhiều nguồn sáng kiến trong nội bộ để ứng phó với sự thay đổi trong kinh doanh.
Ngoài ra còn có các yếu tố khác như ý thức khẩn trường thường xuyên, ý thức hợp tác ở mọi cấp trong tổ chức, sẵn sàng phân b trách nhiệm quản lý cho cấp dưới, bộ máy của doanh nghiệp phải có sự đơn giản hoá, những quy định của doanh nghiệp không được rườm ra, quan liêu…
Hewlett - Packard - Công ty Công nghiệp vi tính đã thành công lớn vì đã duy trì, nuôi dưỡng hai kiểu văn hoá kinh doanh trên .
Ví dụ tổ hợp kinh doanh giỏi Royal Datch shell group. Họ đã tạo mọi điều kiện phát triển sáng tạo cá nhân, quyền tự chủ của từng cơ sở nằm trong tổ hợp. Sự phân tán quyền tới từng cơ sở kinh doanh, giúp cho Giám đốc cơ sở thuận lợi thắt chặt với các cơ sở kinh doanh không thuộc tổ hợp tại địa phương và đối phó mau lẹ, có hiệu quả trong mọi tình huống sự cố xảy ra mà không cần đợi chỉ thị, quyết định của Giám đốc tổ hợp ở xa mà tổ hợp này vẫn gặp nhiều thành công.
Kinh doanh là một hoạt động cơ bản của nền kinh tế, có tác dụng đóng góp vào việc củng cố nhà nước, làm giàu cuộc sống cho nhân dân. Nhìn vào kinh doanh của một nước sẽ thấy một phần đường lối và chính sách của Nhà nước đó, thấy được sự phát triển về mặt lao động sản xuất và phục vụ các nhu cầu vật chất và tinh thần của Nhà nước nước đó. Kinh doanh có văn hoá phải thể hiện ở sự vận dụng khoa học, kỹ thuật, tổ chức và quản lý kinh doanh, các giao tiếp và ứng xử trong kinh doanh.
Nhà kinh doanh thành đạt Walton (Mĩ) do ông có cách thức giao tiếp với khách hàng, ông đã làm cho khách hàng cảm nhận về công ty của ông như là của chính họ. Ông đã gặp gỡ khách hàng, trao đổi với họ xem họ thích gì, chưa vừa lòng điều gì, mặt hàng nào cần mùa mà cửa hàng chưa đáp ứng được, chăm lo đời sống của nhân viên, lập quỹ học đường cho con em nhân viên đang theo học chuyên nghiệp hoặc học đại học gặp khó khăn, lập quỹ cứu tế giúp các gia đình nhân viên không may gặp thiên tai hoả hoạn, lũ lụt, trong việc sửa sang nhà cửa, mua sắm đồ dùng cần thiết, xây dựng trung tâm phục hồi sức khoẻ cho người lao động.
Thoe Mông Cổ. Cormack nhà kinh doanh thành công là có tài quan sát thực tế, nắm bắt các vấn đề chính, học hỏi tất cả mọi người và quan hệ rộng rãi chan hoà.
Trên thực tế có những ngành thuộc lĩnh vực văn hoá cũng có những bộ phận làm công tác kinh doanh, công việc kinh doanh đó giúp cho các ngành đó có thêm điều kiện phát triển ngành của mình, làm nghĩa vụ với Nhà nước và phục vụ quần chúng nhân dân rộng rãi hơn, có chất lượng hơn. Có những ngành văn hoá và khoa học đứng ngoài công việc kinh doanh nhưng có khả năng phục vụ sự nghiệp kinh doanh, bằng các công trình nghiên cứu khoa học của mình và bằng những hoạt động chuyên môn, ví dụ như Tâm lý học, Xã hội học giáo dục và đào tạo…
Trong công cuộc đổi mới toàn diện, đời sống kinh tế - xã hội hiện nay. Chính phủ Việt Nam luôn luôn khẳng định: Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp trong quan hệ giữa người với người, giữa người với thiên nhiên. Văn hoá vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội vừa là mục tiêu của chúng ta. Trong điều kiện kinh tế thị trường văn hoá là cần thiết phải đóng vai trò điều tiết tinh thần, và phải góp phần đắc lực vào triển khai những nhân tố tích cực, hạn chế các nhân tố tiêu cực của mối quan hệ hàng hoá tiền tệ trong xã hội.
Shi Seido đưa ra một nguyên tắc trong kinh doanh có văn hoá là giữa phong tục tập quán truyền thống của dân tộc và tinh hoá của nước ngoài không được bài xích nhau, không được tách rời nhau, phải được kết hợp hài hoà làm một. Ông coi chúng như cặp sinh đôi và bằnghệ thuậtác động qua lại hài hoà mới tạo ra sự tăng trưởng trong sản xuất kinh doanh.
Các nước có nền công nghiệp mới (NICS) phát triển trong khu vực Đông Nam Á thành công, bắt nguồn từ các yếu tố văn hoá, truyền thống, tính cộng đồng, ý thức dân tộc thể hiện rất cao trong kinh doanh.
Theo Boutros Ghali. Phát triển không nên giới hạn hẹp vào tăng trưởng kinh tế mà nó còn mang tính chính trị - xã hội, nhân văn và môi trường cũng như văn hoá. Theo ông khẩu hiệu “Tư duy toàn cầu, hành động cục bộ” có thể chỉ lối để chúng ta phát triển quan hệ liên kết chặt chẽ giữa văn hoá và kinh doanh. Đặc biệt ở châu Á, là nơi đa dạng về truyền thống văn hoá và đang diễn ra sự tăng trưởng nhanh chóng của chủ nghĩa tư bản và hoạt động kinh tế.
Không có văn hoá, kinh doanh vẫn hoạt động được nhưng không được bền vững, các doanh nghiệp sẽ bị phá sản, văn hoá và kinh doanh sẽ cần nhau và cả hai cùng phát triển. Ví dụ: Công ty Xerox của Mỹ thành công về loại máy photocopy vào những năm 1960, nhưng trải qua giai đoạn sung mãn, đồng thời cũng trai qua giai đoạn biến chất về văn hoá, ngăn cản sự thử nghiệm, không cho ai sáng kiến, hoặc phát huy tính lãnh đạo đã bị các hãng khác lấn át.
Văn hoá có thể làm tăng thu nhập, ví dụ như văn hoá du lịch làm tăng doanh thu của du lịch Quốc tế lên 18 lần từ 18 tỷ USD năm 1970 lên 32 tỷ USD năm 1993.
Ở Việt Nam cũng đã đạt được một số bước phát triển kinh tế đáng kể so với các thời kỳ bao cấp. Sự thành công ấy nhờ có đổi mới tư duy, đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chủ trương, chính sách và kế hoạch phát triển, khơi dậy và nhận biết các tiềm năng sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân, bắt nguồn từ những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc và tinh hoa của nhân loại. Chứng tỏ văn hoá có vai trò to lớn trong nền kinh tế của nước ta, là động lực quan trọng trong phát triển kinh tế.
Tóm lại, Văn hoá kinh doanh làm cho sự phát triển lâu dài, bền vững, năng động có hiệu quả, chất lượng cao về mọi mặt trong đời sống con người.
Ở Việt Nam, kinh tế thị trường còn sơ khai với không ít hiện tượng tiêu cức như trong buôn bán, giao dịch, hùn vốn… nhưng ngày càng có thêm nhiều nhà kinh doanh biết suy nghĩ và hành động vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, trong đó có hạnh phúc của bản thân và gia đình mình. Chương trình khởi nghiệp mới phát triển truyền hình VTV3 đã tạo điều kiện cho thế hệ trẻ làm kinh doanh.
Trong bối cảnh công cuộc đổi mới toàn diện, đời sống kinh tế - xã hội hiện nay, Chính phủ Việt Nam đã luôn khẳng định “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”. Trong hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung ương khoá VIII, Đảng ta chủ trương: “Trên cớ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài, chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài… chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cán bộ, luật pháp và nhất là về những sản phẩm mà chúng ta có khả năng cạnh tranh để hội nhập thị trường khu vực và thị trường quốc tế”.
Tuy nhiên, hiện tại các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh kinh tế và xã hội của đất nước và trên thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Những yếu kém vốn có của nền kinh tế, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp còn yếu so với khu vực. Một trong những yếu kém là sự thiếu hụt tư duy kinh tế, sự yếu kém về kiến thức kinh doanh, quản lý - lãnh đạo trong sản xuất kinh doanh. Chúng ta chưa có một nền văn hoá tương xứng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Nước ta là nước gắn liền với nông nghiệp tự cung tự cấp, khép kín và phụ thuộc vào thiên nhiên.
Để đất nước phát triển kinh doanh có văn hoá. Về mặt nhận thức: Một đất nước giàu mạnh không chỉ phụ thuộc vào mức độ tăng trưởng kinh tế với các chỉ tiêu định hướng GNP, GDP theo đầu người… mà còn phụ thuộc vào chất lượng cuộc sống, dựa vào sự giàu có cả về vật chất lẫn tinh thần. Xu thế hợp tác kinh doanh với các nước khác cạnh tranh vì sự phát triển, kết quả của xu thế ấy không chỉ vì tăng trưởng kinh tế mà còn phát triển toàn diện của mỗi cá nhân. Sự hoà hợp giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên. Về hành động, đưa nhân tố văn hoá vào qúa trình khôi phục và phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Lựa chọn và đổi mới công nghệ sản xuất phù hợp với điều kiện nước ta đang chuẩn bị tiến vào giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đổi mới tổ chức, phương pháp quản lý Nhà nước, quản lý kinh doanh theo hướng vận dụng “động lực kép”, gồm lợi ích kinh tế, văn hoá của người lao động, khắc phục tình trạng “Thương mại hoá” tràn lan.
Xây dựng kế hoạch hợp tác quốc tế về đào tạo đội ngũ quản lý có trình độ cao, có tấm lòng vì dân vì nước. Đề cao thang giá trị trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và biến đổi cơ cấu xã hội - dân cư. Cần phải đổi mới quan điểm và phương pháp đánh giá, các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế, con người lao động, người lãnh đạo.
Xuất phát từ phân tích thực tiễn của đất nước và thế giới. Áp dụng các tiêu chuẩn đánh giá, thực hiện từ trên xuống. Từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, nâng cao tầm vóc và hiệu quả của chúng. Hệ thống chính trị nào mang bản chất nhân văn ấy. Vì hạnh phúc của nhân dân thì hoạt động mới có hiệu quả. Đó là sự kết hợp lớn giữa văn hoá, kinh tế và chính trị.
KẾT LUẬN
Để công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, bên cạnh sự đổi mới các hoạt động kinh tế, chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước chúng ta phải xây dựng được một nền văn hóa tương xứng. Nói một cách cụ thể, để đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh, chúng ta phải có được một nền văn hóa kinh doanh. Tức là có đầy đủ những quan điểm, nhận thức, tư duy, những kiến thức văn hóa và đạo lý về sự kinh doanh, đáp ứng được những đòi hỏi của thực tế.
Trong quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới đang mở ra nhiều cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp. Nền kinh doanh ở nước ta phải phát triển trước một bước để tạo ra một quá trình chuyển giao công nghệ thích hợp, một thị trường lao động, thị trường tiền tệ với những nhu cầu sản xuât và tiêu dùng mới. Việc kinh doanh gọn nhẹ, năng động là xu hướng của thời đại, song nó vẫn phải tuân thủ việc xác lập hệ giá trị trong kinh doanh. Mặc dù văn hóa kinh doanh không trực tiếp tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp , nhưng nó lại có nhiệm vụ tạo ra môi trường và cách thức sử dụng các nguồn lực và năng lực của doanh nghiệp một cách có hiệu quả lâu dài, tạo ra sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Thực hiện đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước ta phù hợp với xu hướng phát triển của đất nước hòa trong trào lưu chung của thế giơi thì chúng ta cần sớm tạo dựng cho mình một sắc thái văn hóa kinh doanh thể hiện ở việc: xây dựng triết lý kinh doanh với sắc thái văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp, nâng cao nhận thức cộng đồng về văn hóa kinh doanh.
Cần có cơ chế chính sách quản lý kinh doanh hợp lý trong các khía cạnh kinh tế, xã hội, môi trường kinh doanh và nhất là khía cạnh văn hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp ổn định phát triển kinh tế đặc biệt là trong vấn đề xây dựng hành lang pháp lý kinh doanh, nhất là trong điều kiện của Việt Nam hiện nay đang trong giai đoạn mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới “muốn làm bạn với tất cả các nước”, “hòa nhập chứ không thể hòa tan”.
Các doanh nghiệp Việt Nam sớm cần thiết tạo dựng triết lý kinh doanh với sắc thái văn hóa trong hoạt động kinh doanh của mình; nếu có định hướng và thực hiện tốt thì đây sẽ là lợi thế của nước đi sau để sớm bắt kịp cũng như hội nhập nền kinh tế thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Minh Cương - Văn hóa và Triết lý kinh doanh - Hà nội 2000.
2. Nguyễn Đình Xuân - Tâm lý học Quản trị kinh doanh - NXB Chính trị Quốc gia 1995.
3. Phạm Xuân Nam - Văn hóa và kinh doanh - NXB Trẻ TP HCM 2002.
4. Trần Quốc Vượng - Cơ sở văn hóa Việt Nam - NXB Đại học Quốc gia 1997.
5. Văn Tân - Từ điển Tiếng Việt - NXB Khoa học và xã hội 1977.
6. Rowan Gibson - Tư duy lại tương lai - NXB Khoa học xã hội - Hà nội 1996.
tác giả - Văn hóa và kinh doanh - NXB Lao Động - Hà nội 2001.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TLH 46.doc