Tình hình phát triển và các phương hướng, giải pháp nhằm phát triển toàn diện ngành du lịch huyện Tịnh Biên

Lời cảm ơn

CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC

PHẦN MỞ ĐẦU.1

1. Lí do chọn đề tài.1

2. Lịch sử nghiên cứu đề tài. 2

3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài.2

3.1. Mục đích. 2

3.2. Nhiệm vụ. 2

4. Giới hạn của đề tài.2

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. 3

5.1. Phương pháp luận. 3

5.2. Phương pháp nghiên cứu.4

6. Những đóng góp của đề tài. 5

7. Ý nghĩa. 5

8. Cấu trúc luận văn. 5

pdf61 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 1344 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tình hình phát triển và các phương hướng, giải pháp nhằm phát triển toàn diện ngành du lịch huyện Tịnh Biên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảnh về khu du lịch núi Cấm Hình 4.1: Lâm Viên Hình 4.2: Chùa Vạn Linh Hình 4.3: Tổng quan Núi Cấm Trang 17  Khu du lịch sinh thái rừng tràm Trà Sư Rừng tràm Trà Sư là điểm du lịch sinh thái rộng trên 845ha, nằm giữa lòng tứ giác Long Xuyên, thuộc xã Văn Giáo - huyện Tịnh Biên. -Các loài động - thực vật trong rừng rất phong phú được gìn giữ tới ngày nay như: các loài trăn, rùa, rắn, heo rừng, khỉ, nhím, dơi, quạ, - Những chiếc xuồng có thể đưa du khách đến với cảnh đẹp của thiên nhiên, với bạt ngàn màu xanh của tràm cùng ánh nắng vàng óng ả của bầu trời hoà quyện với tiếng chim, tiếng gió rừng xào xạc,... Chính vẻ sống động của thiên nhiên đã làm cho tâm hồn du khách thêm thoải mái và dễ chịu hơn cho chuyến tham quan của mình. - Hoàng hôn buông xuống, trong rừng tràm là những ngôi nhà sàn nho nhỏ, xinh xinh, được cột chặt vào thân cây trông giản dị mà tuyệt đẹp. Du khách sẽ bị bất ngờ và ấn tượng trước cảnh đàn dơi quạ có đến 5.000 con đeo mình trên các ngọn tràm. Rồi từng đàn cò trắng, cò đen, sếu đầu đỏ,... lên đến hàng vạn con chấp chới bay về tổ ấm, một không gian của sự sum vầy, hạnh phúc đang diễn ra trước mắt bạn. - Thiên nhiên tươi đẹp, không khí trong lành là điểm nổi bậc nhất mà du có thể tìm thấy ở rừng tràm Trà Sư [www.angiang.gov.vn ] Trang 18 Một số hình ảnh về khu du lịch sinh thái rừng tràm Trà Sư Hình 4.4: Rừng tràm Trà Sư nhìn từ trên xuống Hình 4.5, 4.6: Du khách bơi xuồng trong rừng tràm Trà Sư Hình 4.7: Du khách tham quan rừng tràm Trà Sư Trang 19  Khu du lịch Núi Két Núi Két còn gọi là Anh Vũ Sơn với nhiều phong cảnh độc đáo có một không hai của vùng núi Thất Sơn hùng vĩ. - Nơi có nhiều chiến tích oai hùng, có tượng đài chiến thắng ghi nhớ trận đánh hào hùng của lực lượng cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, - Các địa danh nổi tiếng thu hút khách du lịch tham quan khắp nơi như: Sân Tiên, Giếng Tiên, Điện Ngọc Hoàng, đồi Bạch Vân, phía dưới chân núi là cụm di tích chùa Thới Sơn, chùa Phước Điền (trại ruộng của Phật Thầy Tây An). Hằng năm, vào ngày 12/08 âm lịch là ngày giỗ cụ Đoàn Minh Huyên có hàng chục ngàn khách thập phương đến dự.  Hồ Ô Tức Xa: do ngăn suối Ô Tức Xa thuộc cụm núi Cấm - Tịnh Biên, diện tích mặt hồ khoảng 10ha, dung tích khoảng 600.000m3, đập cao 14m, dài 198m, cung cấp nước sinh hoạt cho 15.000 dân thuộc khu vực thị trấn Chi Lăng. Đây tuy là hồ nhân tạo nhưng hệ sinh thái bao quanh hồ cũng rất đa dạng: những tán rừng rậm rạp, mát mẽ, không khí trong lành, nước trong xanh,  Hồ Cây Đuốc: nằm giữa thung lũng núi Cấm và núi Phú Cường, được đào sâu 3,9m có dạng hình tròn với diện tích khoảng 1.300m2, hứng và ngăn giữ nước của các mạch nước ngầm. Tại đây, quanh năm suốt tháng nước phun lên khỏi mặt đất ở độ cao trung bình 22m, cung cấp nước ngọt cho 3.000 dân cư quanh vùng. Trang 20 Bản đồ 1.2: Bản đồ tự nhiên huyện Tịnh Biên Trang 21 (Nguồn Tịnh Biên mời gọi đầu tự 2007) 1.3.2. Tài nguyên du lịch nhân văn Tài nguyên du lịch nhân văn là tài nguyên du lịch có nguồn gốc nhân tạo. Có nghĩa là do con người tạo ra. Đó là sản phẩm văn hóa có giá trị phục vụ du lịch như: các di tích lịch sử văn hóa, các lễ hội, làng nghề thủ công truyền thống, các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học, các đối tượng văn hóa thể thao hay những hoạt động có tính sự kiện, Tài nguyên du lịch nhân văn có những đặt tính cơ bản sau: mang tính phổ biến, dễ tiếp cận, truyền đạt nhận thức hơn là hưởng thụ giải trí. Dân cư dân tộc Tịnh Biên là một huyện có diện tích tuy nhỏ nhưng lại có nhiều dân tộc cùng sinh sống, từ đó làm cho đặc điểm dân cư, dân tộc mang tính đa dạng và phong phú, có nguồn gốc lâu đời sống theo quần cư, làng xóm, phum, sóc gốc tích dòng họ. + Dân cư Năm 2003, quy mô dân số trong toàn huyện là 115.901 người. Đến năm 2006 thì tổng dân số trong toàn huyện 122.309 người. Gia tăng dân số của huyện chủ yếu là gia tăng tự nhiên, tỷ suất gia tăng tự nhiên ở huyện là 1.31%. Hiện nay, tỷ suất gia tăng tự nhiên có xu hướng giảm dần qua các năm. - Số lượng lao động + Số người trong độ tuổi lao động là 69.716 người (2006) chiếm hơn 50% dân số của huyện, trong đó lao động ở thị trấn khoảng 21.535 người chiếm hơn 30% lượng lao động trong toàn huyện. + Số người đang làm việc 57.326 người, trong đó lao động trong ngành dịch vụ 5.657 người. - Chất lượng lao động + Nhìn chung đa số lao động trong toàn huyện nằm trong độ tuổi trẻ có trình độ văn hóa ngày càng được nâng cao. + Mang bản chất của dân tộc Việt Nam nên người lao động Tịnh Biên cần cù khéo tay, có truyền thống kinh nghiệm trong sản xuất đã được tích lũy qua nhiều thế hệ. Trang 22 Dân số 112,000 114,000 116,000 118,000 120,000 122,000 124,000 2003 2004 2005 2006 Dân số Bảng 2.3. Bảng thống kê dân số huyện Tịnh Biên Năm 2003 2004 2005 2006 Dân số (Người) 115,901 117,776 120,850 122,309 (Nguồn niên giám thống kê huyện Tịnh Biên 2006) Biểu đồ 3.2: Biểu đồ dân số Tịnh Biên (2003 -2006) + Dân tộc Tịnh Biên là một trong những huyện miền của tỉnh An Giang nên tập trung tương đối nhiều thành phần dân tộc. Trong đó, người Kinh chiếm đa số với 83.794 người (năm 2006) chiếm khoảng 69,7% dân số, khoảng 28,1% dân số là đồng bào dân tộc Kh’mer tương ứng khoảng 33.934 người, còn lại là người Hoa. Điều đó đã tạo nên nét đặc trưng của huyện Tịnh Biên nói riêng và của tỉnh An Giang nói chung. Đây cũng là nét nổi bật tạo điều kiện cho huyện Tịnh Biên phát triển các loại hình dịch vụ phục vụ và thu hút khách du lịch. Trang 23 115,901 117,776 120,850 122,309 Năm Trang 24 Bản đồ 1.3: Bản đồ vị trí hành chính, mật độ dân số huyện Tịnh Biên 1.3.3. Các di tích lịch sử văn hóa  Các di tích lịch sử văn hóa Di tích lịch sử văn hóa được hiểu là “những công trình, địa điểm, đồ vật, tài liệu và các tác phẩm cổ cón giá trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật cũng như các giá trị văn hóa hoặc hiện vật liên quan tới hiện tượng lịch sử trong quá trình phát triển văn hóa xã hội”. Toàn huyện có một di tích đã được Bộ Văn hoá công nhận, phát bằng và một cụm di tích (gồm 3 điểm) đã được Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh đăng ký gồm: - Hòa Thạnh Cổ Tự: là di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật ở xã Nhơn Hưng, huyện Tịnh Biên đã được Bộ Văn hoá thông tin công nhận. - Cụm di tích Thới Sơn: là di tích lịch sử (gồm: chùa Phước Điền, Chùa Thới Sơn và Đình Thới Sơn) đã được Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh quyết định đăng ký. Mặt khác, miễu Bà chúa xứ Bào Mướp là nơi thờ tự thu hút đông đảo khách hành hương và Cửu trùng đài cũng là một công trình kiến trúc độc đáo thu hút nhiều khách tham quan du lịch đã được huyện đầu tư cải tạo năng cấp phục vụ nhu  Các lễ hội truyền thống Lễ hội là một trong những tài nguyên nhân văn có giá trị đối với hoạt động du lịch. Hiện nay, lễ hội truyền thống đang có xu hướng phục hồi trở lại. Hầu hết các địa phương trong cả nước đều tổ chức lễ hội của làng mình. Lễ hội là một bảo tàng sống về mặt văn hoá tinh thần của dân tộc. Lễ hội là một hiện tượng xã hội - lịch sử thuộc hình thái ý thức xã hội. Nó là sản phẩm của một cơ sở kinh tế - xã hội nhất định và chịu sự chi phối của quy luật kinh tế - xã hội nhất định. Lễ hội là một sinh hoạt văn hoá có từ lâu đời. Hằng năm ở huyện Tịnh Biên thường diễn ra các lễ hội như: • Tết Chol Chnam Thmay của đồng bào dân tộc Kh’mer vào các ngày 13, 14, 15 tháng 4 dương lịch. • Lễ 12/8 âm lịch ngày giỗ cụ Đoàn Minh Huyên (phật thầy Tây An). • Lễ hội vía bà ở Miễu Bào Mướp. • Lễ hội truyền thống văn hoá vào ngày 29/11 âm lịch, ngày hội đua xuồng mùa nước nổi vào tháng 11 dương lịch. • Lễ hội Dolta của đồng bào dân tộc Kh’mer ngày 09 tháng 10 âm lịch kết hợp lễ hội Đua Bò Bảy Núi. Trang 25 Hình 4.8: Hình ảnh về hội đua thuyền Hình 4.9: Hình ảnh về đua Bò Trang 26 1.3.4. Các tài nguyên du lịch nhân văn khác Các sản phẩm đặc sản: Lúa thơm Nàng Nhen, sản phẩm dệt của đồng bào dân tộc Kh’mer, đường thốt nốt. Ngoài ra, còn có các loại trái cây ở vùng núi Cấm như: sầu riêng, tiêu, mãng cầu và nhiều loại nông sản khác. Các món ăn nam bộ như: Bò xào lá vang, bánh xèo núi Cấm, bánh Canh Vĩnh Trung.  Các loại tài nguyên nay phục vụ rất tốt cho việc phát triển các sản phẩm phục vụ du lịch. 1.3.3. Đánh giá chung về tài nguyên du lịch i) Những thuận lợi Tài nguyên du lịch tương đối phong phú và đa dạng, là địa bàn có nhiều đồi núi nhiều thắng cảnh nổi tiếng, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ có một không hai của vùng đồng bằng sông Cửu Long, các di tích văn hoá - lịch sử, lễ hội, sản phẩm hấp dẫn du khách, đây là một lợi thế quan trọng tạo tiền đề phát triển du lịch của huyện với nhịp độ nhanh trong thời gian tới. Tịnh Biên có vị trí tương đối thuận lợi (vị trí nằm gần khu du lịch núi Sam), hằng năm có khoảng 3 triệu khách tham quan và 2/3 đi đến Tịnh Biên. Đây là tuyến du lịch quan trọng của tỉnh An Giang nối liền từ chùa Bà Chúa Xứ núi Sam - Châu Đốc đến các khu, điểm du lịch núi Cấm, núi Két, núi Trà Sư, khu du lịch sinh thái rừng tràm Trà Sư, đi tới các điểm du lịch núi Tô (Tri Tôn)của vùng Thất Sơn với nhiều truyền thuyết, huyền thoại đầy lý thú, đến khu văn hóa Óc Eo (huyện Thoại Sơn, An Giang) hoặc ra đến thị xã Hà Tiên (tỉnh Kiên Giang). Nằm trên tuyến đường bộ quan trọng của cả tỉnh, tuy là môt huyện vùng núi nhỏ bé nhưng lại nằm ở vị trí chiến lược quan trọng, chứa nhiều tiềm năng về thị trường đặc biệt là du lịch, giao lưu kinh tế, thông thương với Campuchia thông qua cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên. Do đó Tịnh Biên có lợi thế nhất định để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là du lich. ii) Những tồn tại khó khăn thử thách Bên cạnh những thuận lợi kể trên nhưng khó khăn trở ngại đối với việc phát triển du lịch của huyện Tịnh Biên cũng không phải là nhỏ. - Nhiều tài nguyên du lịch phân tán, ít có điều kiện hình thành các khu du lịch đặc thù để thu hút khách du lịch.Việc triển khai quy hoạch chi tiết các khu đã được quy hoạch chưa được quan tâm đầy đủ và phân công trách nhiệm rõ ràng nên việc khai thác tài nguyên còn nhiều hạn chế. Nhiều tài nguyên du lịch có giá trị như: tài nguyên rừng, các di sản văn hoá lịch sử, nhiều di tích chưa được đầu tư đúng mức, một số tài nguyên chưa được khai thác. Các tài nguyên thiên nhiên có thể khai thác phục vu du lịch hầu hết muốn khai thác đều cần vốn đầu tư về cơ sở hạ tầng lớn. Nhưng công tác đầu tư chưa tận dụng khai thác các nguồn vốn đầu tư. Trang 27 1.4. Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch Cơ sở hạ tầng là tiền đề đối với mọi hoạt động kinh tế - xã hội, trong đó có du lịch. Cơ sở hạ tầng bao gồm : mạng lưới giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống cấp nước và vệ sinh môi trường, hệ thống cung cấp điện. Các sản phẩm của nó phục vụ trực tiếp cho việc nghỉ ngơi giải trí của khách du lịch. 1.4.1. Mạng lưới giao thông vận tải Mạng lưới giao thông vận tải được coi là mạch máu của nền kinh tế quốc dân. Nhờ có mạng lưới giao thông vận tải mà du lịch phát triển với tốc độ nhanh, trở thành một hiện tượng phổ biến bởi du lịch gắn liền với hiện tượng di chuyển con người trên một khoảng cách nhất định. Mỗi loại giao thông vận tải có những đặc điểm riêng, tuỳ thuộc vào đặc điểm tính chất của những chuyến đi để có sự lựa chọn loại phương tiện giao thông thích hợp. Giao thông vận tải đang không ngừng hoàn thiện nhằm giảm bớt thời gian đi lại, rút ngắn khoảng cách không gian, tăng thời gian nghỉ ngơi du lịch. Mạng lưới giao thông vận của huyện Tịnh Biên được đầu tư phát triển không ngừng bao gồm những tuyến đường bộ khang trang nối liền các ấp xã, đặc biệt là nối các điểm du lịch trong huyện với nhau và nối liền với các tuyến du lịch chung của tỉnh cũng như cả khu vực. Hệ thống giao thông trong toàn huyện dài 233,65km, trong đó quốc lộ 91 dài 15km, 20km tỉnh lộ, 198,65km Hương lộ đường liên ấp, nội bộ. Trung ương đầu tư nâng cấp và quốc lộ N1 đã thi công và hoàn thành năm 2007, nối liền thị xã Châu Đốc và thị xã Hà Tiên. Toàn huyên có 95,78 km đường nhựa và hơn 100km đường cấp phối, đường các loại đảm bảo xe ô tô đến 14/14 trung tâm xã, thị trấn, đường đảm bảo giao thông thông suốt, kể cả trong mùa lũ. 1.4.2. Điện, nước và cung cấp điện, nước. Hệ thống điện lưới quốc gia và hệ thống nước máy đã phủ khắp địa bàn huyện, đảm bảo phục vụ sản xuất và sinh hoạt tiêu dùng ở địa phương cũng như phục vụ phát triển du lịch. 1.4.3. Bưu chính viễn thông, thông tin liên lạc Về bưu chính viễn thông: trên tất cả các địa bàn ấp, xã, thị trấn trong toàn huyện đã có các bưu điện phục vụ tối đa nhu cầu của người dân. Về thông tin liên lạc: các tổng đài di động (Viettell telephone, Mobi phone, Vina phone,) đã phủ sóng phục vụ tất cả các nơi trong toàn huyện, nhất là khu vực cửa khẩu Tịnh Biên. 1.4.4. Một vài nét nổi bật về dịch vụ thương mại Tịnh Biên Khu kinh tế cửa khẩu Tịnh Biên được chính phủ công nhận vào năm 2001 với tổng diện tích toàn khu là 9.255ha bao gồm: thị trấn Tịnh Biên, xã An Nông, An Phú Nhơn Hưng, thị trấn Nhà Bàng và được Thủ tướng Chính phủ ban hành quy chế hoạt động của khu kinh tế cửa khẩu An Giang theo Trang 28 Quyết định số 65/2007/QĐ-TTg Ngày 14/ 05/ 2007 và đang đề nghị Trung Ương cho áp dụng cơ chế cửa khẩu đặc biệt thông quan một cửa. Trong đó, nổi bật nhất là chợ cửa khẩu Tịnh Biên hoạt động sôi động thu hút rất đông khách tham quan mua sắm, với quy mô hơn 700 sạp, kiosque. 1.4.5. Một số kết luận về cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch Cơ sở hạ tầng là nhân tố quan trọng có thể tạo điều kiện hay cản trở việc khai thác tài nguyên du lịch. Tịnh Biên có hệ thống giao thông tương đối đơn giản chỉ có đường bộ và đường sông. Tuy nhiên hệ thống giao thông cho phép lưu thông trên phạm vi của huyện và đều đi qua các khu, điểm du lịch, tạo thuận lợi rất lớn cho du lịch phát triển và mở rộng giao lưu kinh tế du lịch với hầu hết các huyện khác trong tỉnh và có điều kiện vươn xa tới thị trường các nước trong khu vực Đông Nam Á thông qua cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên. Chính phủ đã chính thức có quyết định công nhận cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên từ năm 2001, phía đối diện là khu kinh tế đặc biệt của Vương quốc Campuchia. Đây là một điều kiện thuận lợi cho huyện Tịnh Biên nói riêng, tỉnh An Giang và cả khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói chung. Trong những năm gần đây, được sự đầu tư của tỉnh, huyện đã mở rộng đầu tư nâng cấp và xây dưng nhiều cơ sở hạ tầng nhằm nâng cao cả về số lượng lẫn chất lượng. Hiện tại, các khu, điểm du lịch trong huyện đang trở thành điểm thu hút khách tham quan trong và ngoài tỉnh ngày càng đông. Tuy nhiên, hệ thống cơ sở hạ tầng vẫn còn trong tình trạng lạc hậu kém phát triển, yếu kém nhất là hệ thống giao thông đường bộ, hệ thống cung cấp nước sạch, trạm phân phối điện, chưa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội hấp dẫn đầu tư và hấp dẫn khách du lịch. Trong những năm tới, dự án nâng cấp quốc lộ 91 từ (phường Núi Sam đến thi trấn Tịnh Biên) và xây dựng tuyến đường cao tốc Cần Thơ đi Phnôm Pênh và nhiều dự án quy hoạch đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng mới sẽ tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là du lịch của huyện. Trang 29 Chương 2 HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH HUYỆN TỊNH BIÊN 2.1. Khái quát chung 2.1.1. Vị trí du lịch của Tinh Biên trong sự phát du lịch chung của Huyện và của Tỉnh Với đặc điểm đia hình bán sơn địa, có nhiều đồi núi thuộc dãy thất sơn, có cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên. Nguồn tài nguyên du lịch của huyện Tịnh Biên tuy không lớn nhưng rất phong phú và đa dạng. - Về tài nguyên du lịch tự nhiên: Tịnh Biên có nhiều khu du lịch như: khu du lịch núi Cấm, khu du lịch sinh thái rừng tràm Trà Sư, khu du lịch núi Két, khu du lịch núi Trà Sư, suối Thanh Long trong quần thể núi Cấm, các hồ nước nhân tạo như hồ Ô Tức Xa, hồ Cây Đuốc, - Về tài nguyên di lịch văn hoá lịch sử: toàn huyện cũng có tương đối nhiều di tích văn hoá lịch sử. Trong đó, có nhiều di tích quan trọng như: tượng đài anh hùng liệt sĩ, di tích Hoà Thạnh Cổ Tự, cụm di tích Thới Sơn. Ngoài ra, trong toàn huyện còn có các lễ hội truyền thống như: lễ hội đua bò của đồng bào Kh’mer, lễ 12/8 âm lịch ngày giỗ cụ Đoàn Minh Huyên (phật thầy Tây An), lễ hội truyền thống văn hoá vào ngày 29/11 âm lịch, ngày hội đua xuồng mùa nước nổi vào tháng 11 dương lịch, lễ hội vía bà ở Miễu Bào Mướp, tết Chol Thnam Thmay của đồng bào dân tộc Kh’mer vào các ngày 13, 14, 15 tháng 4 dương lịch. Đây là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá nếu được khai thác đúng mức sẽ phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Nằm trong vùng du lịch sông nước miệt vườn Nam Bộ, nằm ngay trên tuyến du lịch Châu Đốc - Tịnh Biên - Hà Tiên nên Tịnh Biên có vai trò quan trọng trong vùng. Với những tiềm năng và lợi thế về du lịch như vậy, Tịnh Biên có thể khai thác phát triển ngành du lịch nhằm góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện, hoà nhập vào xu thế phát triển chung của tỉnh và cả khu vực. 2.1.2. Vai trò của du lịch đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Huyện Tịnh Biên một huyện vùng núi biên giới và dân tộc còn nghèo, nền kinh tế chậm phát triển hơn so với nhiều huyện khác trong tỉnh, mà đặc biệt là phát triển về du lịch. Ngành du lịch của huyện còn rất nhỏ bé, tỷ trọng du lịch trong cơ cấu GDP của toàn huyện còn rất thấp. Tuy nhiên, trong những năm gần đây ngành du lịch đã có những tiến triển mạnh mẽ hơn và đã góp phần làm thay đổi cục diện bộ mặt kinh tế của huyện [13. tr. 4]. Trang 30 Ngành du lịch đang góp phần tích cực khai thác nguồn tài nguyên hiện có, cùng với việc quy hoạch, xây dựng và cải tạo cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật giải quyết công ăn việc làm, mang lại thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân, góp phần đóng góp vào ngân sách của huyện. Được sự chú trọng quan tâm đầu tư của tỉnh và đặc biệt là sự đầu tư của huyện đối với ngành du lịch của huyện nhà và xác định du lịch là ngành có vị trí chiến lược quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Như vậy, từ những lợi thế về tài nguyên du lịch thiên nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn sẵn có của mình cùng với việc tăng cường đầu tư phát triển, ngành du lịch ở Tịnh Biên ngày càng đóng góp xứng đáng hơn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của huyện, góp phần cải thiện đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần cho nhân dân trong huyện và giảm bớt gánh nặng về kinh tế cho tỉnh cùng với việc đảm bảo được an ninh quốc phòng [13. tr. 4]. Bảng 2.4: Cơ cấu kinh tế GDP năm 2006 Năm 2006 Tổng số Phân theo khu vực kinh tế - Khu vực I - Khu vực II - Khu vực III 100.00 40.16 13.61 46.23 Nguồn niên giám thống kê huyện Tịnh Biên năm 2006 Biểu đồ 3.3: Biểu đồ cơ cấu kinh tế GDP năm 2006 -      Khu vực I -      Khu vực II -      Khu vực III Trang 31 40.16% 13.61% 46.23% 2.2. Hiện trạng phát triển du lịch theo ngành Tịnh Biên- một huyện vùng núi, biên giới và dân tộc còn nghèo nên việc đầu tư phát triển du lịch còn nhiều hạn chế. Trong những năm gần đây, cùng với nhịp độ phát triển chung của khu vực và của tỉnh, huyện đã đầu tư và hoàn thành nhiều cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật đến các khu, điểm du lịch trên toàn huyện, thực hiện việc bảo tồn các khu di tích lịch sử. Tuy nhiên, việc đầu tư cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật ở các khu, điểm du lịch vẫn còn nhiều hạn chế [11]. 2.2.1. Nguồn khách Du khách đến Tịnh Biên hàng năm khoảng 1.200.000 lượt người. Ngành du lịch của huyện được phát triển mạnh ngay trong thời kỳ đầu của quá trình hội nhập và được đầu tư tương đối tốt trong những năm gần đây nên lượng khách du lịch đến Tịnh Biên cũng tăng dần, nhưng chủ yếu là khách du lịch nội địa (chủ yếu là khách ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ) và một lượng khách quốc tế tuy nhỏ nhưng không kém phần quan trọng. Số lượt khách tham quan bình quân tăng khoảng 20%/ năm, tập trung chủ yếu ở nhóm khách nội địa [8]. - Bên cạnh là khách du lịch hành hương, công tác kết hợp ghé tham quan mua sắm ở một số điểm du lịch trong huyện. - Khách du lịch là học sinh do nhà trường tổ chức các buổi du khảo tại một số điểm du lịch như: núi Cấm, núi Két, Núi Trà Sư, - Khách du lịch ở các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long đến tham quan chủ yếu là ở các loại hình leo núi. 2.2.2. Thời gian lưu trú Tịnh Biên là một đia bàn nhỏ nên nhìn chung thời gian lưu trú của khách du lịch không đáng kể. Lượng khách du lịch của huyện phần lớn gắn liền với các lễ hội và chủ yếu là các tour du lịch trong ngày hay chỉ là điểm dừng chân tham quan mua sắm, Số ngày lưu trú của khách du lịch đến Tịnh Biên thấp dẫn đến hệ số sử dụng phòng nghỉ cũng không cao Thực trạng này chủ yếu là do địa bàn hoạt động du lịch nhỏ, vùng núi và biên giới, cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch còn nhiều hạn chế, sản phẩm phục vụ du lịch thì chưa thật sự phong phú và đa dạng, chưa có các khu, điểm vui chơi giải trí tốt và các dịch vụ kèm theo để thu hút cũng như lưu giữ khách qua điêm. Đây là điểm quan trọng dẫn đến nguồn doanh thu thấp của ngành du lịch trong huyện [8]. 2.2.3 Doanh thu. Do ngành du lịch còn quá nhỏ bé nên nguồn doanh thu tính chung trong ngành dịch vụ của huyện cũng không cao.Trong tổng GDP Trang 32 của huyện, ngành dịch vụ chiếm khoảng 46,23%, trong đó du lịch chiếm khoảng 60% trong cơ cầu ngành dịch vụ [11]. Cơ cấu chi tiêu của khách: mức chi tiêu bình quân hằng năm của một khách du lịch trên địa bàn khoảng 200.000đ/ngày/một lược khách và có tăng trưởng nhỏ (do trượt giá). Chi tiêu chủ yếu vào việc ăn uống, mua sắm hàng hoá, mức chi cho hoạt động vui chơi giải trí tăng không đáng kể [8]. 2.2.4. Đội ngũ lao động  Số lượng lao dộng Do hoạt động du lịch chưa phát triển nên số lượng lao động trong ngành du lịch tương đối thấp khoảng 3.500 người năm 2006 [4. tr. 5].  Chất lượng lao động Chất lượng lao động chưa đồng đều, hầu như trình độ còn thấp so với nhu cầu. Gần đây các doanh nghiệp kinh doanh trong ngành du lịch đã quan tâm chú trọng đến lực lượng này nên đã tiến hành đào tạo và đào tạo lại chuyên ngành phục vụ du lịch. Các hộ kinh doanh gần như chưa quan tâm đến chất lượng và đa số lao động tại các cơ sở này đều mang tính chất thời vụ, trình độ văn hóa còn thấp và chưa được đào tạo chuyên ngành [4. tr. 5]. 2.2.5. Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du lịch. Hệ thống khách sạn: trên toàn huyện có 02 khách sạn - nhà nghỉ ở Lâm Viên Núi Cấm: - Một khách sạn Lâm Viên: 08 phòng. - Một nhà nghỉ Lâm Viên: 18 phòng. Và 11 tư nhân đăng ký kinh doanh hoạt động dịch vụ nhà trọ. 2.3. Hiện trạng phát triển du lịch theo lãnh thổ Tịnh Biên là một huyện vùng núi, biên giới và dân tộc nhưng cũng có khá nhiều danh lanh thắng cảnh, các di tích lịch sử văn hoá cách mạng. Đó là điều kiện thuận lợi để huyện phát triển nhiều điểm tham quan hấp dẫn khách du lịch, mỗi điểm du lịch lại mang một sắc thái riêng có giá trị nhất định đối với các loại hình hoạt động du lịch. Về chất lượng và phân bố không gian của các điểm du lịch thì nhìn chung, tài nguyên du lịch Tịnh Biên có thể chia thành hai nhóm: Nhóm tài nguyên du lịch tự nhiên và sinh thái: Đặc trưng của nhóm này là sự độc đáo về tài nguyên thiên nhiên và khả năng phát triển du lịch sinh thái thu hút khách du lịch. Nhóm tài nguyên du lịch văn hoá lịch sử: nguồn tài nguyên du lịch của nhóm này còn nhiều hạn chế, không thật đặc sắc nên sức thu hút khách du lịch chưa cao [11]. 2.3.1. Những khu, điểm đang phục vụ du lịch về tự nhiên  Khu du lịch Núi Cấm Núi Cấm nằm trong dãy Thất Sơn ở miền Tây Nam Bộ, thuộc xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Trang 33 Đặc điểm: Núi Cấm là ngọn núi đẹp nhất trong 7 ngọn núi của dãy Thất Sơn. Núi Cấm hay Thiên Cấm Sơn, là ngọn núi cao nhất, lớn nhất nằm trong dãy Thất Sơn hùng vĩ thuộc xã An Hảo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Cách Trung tâm thành phố Long Xuyên khoảng 90km theo Quốc lộ 91 đến Châu Đốc rồi đi Tịnh Biên. Núi Cấm uy nghi, hùng vĩ mọc lên giữa vùng đồng bằng sông Cửu Long. Núi có độ cao 710m, từ trên Vồ Bò Hong nhìn xuống chùa Phật Lớn (thuộc ấp An Bình, xã An Hảo), du khách thấy như một lòng chảo lớn bao quanh bởi các ngọn núi trập trùng thuộc Thiên Cấm Sơn như : Võ Đầu, Vồ Bò Hong, Vồ Thiên Tuế, Nơi đây, nhiệt độ bình quân từ 18 đến 24oC nên khí hậu mát mẽ quanh năm cùng nhiều thắng cảnh thiên nhiên độc đáo, hiếm có thu hút khách du lịch, khách hành hương với nhiều huyền thoại, truyền thuyết đầy lý thú và tình người. Dưới chân núi về phía Đông là khu du lịch Lâm Viên Núi Cấm có diện tích khoảng 100ha với các dịch vụ giải trí đa dạng, có nhà hàng Kaolin phục vụ các món ăn đặc sản vùng sơn cước. Từ Lâm Viên có lối mòn lên núi, du khách có thể ghé tắm suối Thanh Lo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfXT1241.pdf
Tài liệu liên quan