Những diễn biến phức tạp của các tội phạm về kinh tế và chức vụ trong những năm gần
đây cho thấy, vi phạm pháp luật về kinh tế, chức vụ và tham nhũng vẫn tiềm ẩn trong các
ngành, các cấp, các doanh nghiệp, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, đặc biệt trong khâu quản lý, sử
dụng đất đai, giải phóng mặt bằng, phê duyệt và triển khai các dự án xây dựng cơ bản. Bên cạnh
đó, vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thực hiện chính sách xã hội cũng khó
lường, gây thiệt hại lớn về tài sản của Nhà nước. Phương thức, thủ đoạn của các đối tượng được
che đậy kín kẽ hơn, nhiều vụ án còn có sự tiếp tay hoặc do sự vô trách nhiệm của một số cán bộ
nhà nước tạo thành đường dây khép kín, gây khó khăn trong công tác điều tra, phát hiện. Điều này
đã làm cho một số qui định của luật hình sự về tội phạm chức vụ nói chung và tội thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng nói riêng không đáp ứng được yêu cầu làm cơ sở pháp lý cho
hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm về chức vụ trong đội ngũ cán bộ công chức. Vì vậy,
việc hoàn thiện các qui định pháp luật về tội phạm chức vụ và tội thiếu trách nhiệm gây hậu
quả nghiêm trọng là hết sức cần thiết, nó sẽ góp phần tạo cơ sở pháp lý vững chắc để hoạt
động đấu tranh phòng chống tội phạm về chức vụ đạt hiệu quả cao hơn
20 trang |
Chia sẻ: lanphuong92 | Lượt xem: 623 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong Luật hình sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệm gây hậu quả nghiêm
trọng là hành vi nguy hiểm cho xã hội được qui định trong BLHS, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự do bổ nhiệm, bầu cử, do hợp đồng hoặc do
một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không được hưởng lương được giao một công vụ
nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thi hành công vụ đã không thực hiện hay thực
hiện không đúng nhiệm vụ được giao xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ
chức gây hậu quả nghiêm trọng.
Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng có một số đặc điểm cơ bản như sau:
Một là, tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là hành vi nguy hiểm cho xã hội
được qui định tại BLHS, xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức.
Hai là, tội phạm do người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự, do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện.
Ba là, tội phạm gây ra hậu quả nghiêm trọng do hành vi không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nhiệm vụ được giao của người có chức vụ, quyền hạn.
1.1.3. Ý nghĩa của việc qui định tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong
luật hình sự Việt Nam
Việc qui định tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng có ý nghĩa quan trọng trên
nhiều phương diện, cụ thể là:
Thứ nhất, qui định tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là sự ghi nhận và bảo
đảm sự hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, là một biểu hiện của bảo vệ pháp chế xã
hội chủ nghĩa.
Thứ hai, việc qui định tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng có ý nghĩa trong
việc nâng cao ý thức trách nhiệm của các cán bộ công chức khi thực hiện nhiệm vụ của mình,
góp phần xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Thứ ba, quy định về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là nội dung cụ thể
hóa nhiệm vụ của BLHS Việt Nam đã được ghi nhận tại Bộ luật này, đó là nhiệm vụ bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào
các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo
vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi
người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
6
1.2. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định pháp luật hình sự
Việt Nam từ thời kỳ phong kiến đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 về tội
thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
1.2.1. Giai đoạn từ thời kỳ phong kiến Việt Nam đến trước Cách mạng tháng Tám năm
1945
Tác giả luận văn trình bày khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định
pháp luật hình sự Việt Nam từ thời kỳ phong kiến đến trước khi ban hành BLHS năm 1999 về
tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, bao gồm:
- Thời kỳ nhà Lê
- Thời kỳ nhà Nguyễn
- Thời kỳ Pháp thuộc
1.2.2. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật
hình sự năm 1985
Tác giả luận văn đã điểm qua quá trình phát triển của các quy định pháp luật hình sự Việt
Nam giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự
năm 1985 về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.
1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ
luật hình sự năm 1999
BLHS năm 1985 qui định về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng tại Điều 220 như
sau: "Người nào vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ
đúng nhiệm vụ được giao gây hậu quả nghiêm trọng, nếu không thuộc trường hợp qui định ở các
điều 139, 193 và 237, thì bị cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba
năm".
Tuy nhiên điều luật chỉ qui định một khung hình phạt chưa thực sự phù hợp với tình hình
xét xử và thực tế tội phạm nên tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS được Quốc
hội thông qua ngày 12/8/1991, ngày 22/12/1992 đã sửa sửa đổi bổ sung Điều 220: "1. Người
nào vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao
gây hậu quả nghiêm trọng, nếu không thuộc trường hợp qui định ở các điều 139, 193 và 237, thì
bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2. Phạm tội trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ ba năm
đến mười hai năm".
1.3. Các quy định về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong luật hình
sự một số nước
Tác giả luận văn cũng đã nghiên cứu các quy định về tội thiếu trách nhiệm gây hậu
quả nghiêm trọng trong luật hình sự một số nước:
1.3.1. Luật hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
1.3.2. Luật hình sự của Liên bang Nga
1.3.3. Luật hình sự Bungary
7
Chương 2
TỘI THIẾU TRÁCH NHIỆM GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM TRỌNG THEO BỘ LUẬT
HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2011
2.1. Nhũng dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng theo Bộ luật hình sự năm 1999 và phân biệt tội này với một số tội phạm khác
2.1.1. Những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng theo Bộ luật hình sự năm 1999
Các dấu hiệu pháp lý của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng bao gồm:
* Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là hoạt động đúng đắn của cơ
quan, tổ chức bị tội phạm này xõm hại. Việc xâm phạm khách thể này là làm cho cơ quan, tổ chức
bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào chế độ; gây thất thoát, lãng phí nghiêm trọng
đến tài sản của cơ quan, tổ chức; làm cho cán bộ, công chức ở cơ quan, tổ chức mình bị thoái hóa,
biến chất.
* Mặt khách quan của tội phạm
+Hành vi khách quan: Người phạm tội chỉ có hành vi khách quan duy nhất là thiếu trách
nhiệm, bản thân của hành vi này đã phản ánh bản chất của tội phạm. Nhưng biểu hiện của
hành vi thiếu trách nhiệm lại không giống nhau, nó tùy thuộc vào nhiệm vụ được giao và tùy
thuộc vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra hậu quả.
Hành vi thiếu trách nhiệm trong công tác quản lý, điều hành của người có chức vụ quyền hạn
được biểu hiện như: vi phạm các nguyên tắc, chính sách, chế độ liên quan đến việc quản lý nhà
nước, quản lý con người, quản lý tài sản...
+ Hậu quả: Hậu quả của tội phạm này là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, là
một bộ phận hợp thành tội danh, đó là hậu quả nghiêm trọng. Nếu hậu quả gây ra rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
khoản 2 của điều luật.
* Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ quyền hạn trong
các cơ quan, tổ chức mới có thể là chủ thể của tội phạm này.
* Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến bên trong phản ánh trạng thái tâm lý của chủ thể
đối với hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi đó gây ra, bao gồm các dấu hiệu: lỗi, động cơ,
mục đích.
Về lỗi, tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được thực hiện do vô ý. Các dấu
hiệu về vô ý phạm tội được qui định tại Điều 10 BLHS.
* Trách nhiệm hình sự đối với trường hợp phạm tội cụ thể
8
Trách nhiệm hình sự đối với trường hợp phạm tội cụ thể được quy định trong điều 285
BLHS năm 1999.
2.1.2. Phân biệt tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng với một số tội phạm
khác
* Phân biệt tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng với tội thiếu trách nhiệm gây
thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước (Điều 144)
Hành vi "thiếu trách nhiệm" là hành vi không làm hoặc làm không hết trách nhiệm nên đã
để mất mát, hư hỏng, lãng phí gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước do mình
trực tiếp quản lý.
Điểm giống nhau cơ bản giữa hai tội phạm này là người phạm tội có hành vi khách quan
duy nhất là thiếu trách nhiệm.
Điểm khác nhau cơ bản giữa hai tội phạm này là khách thể của tội phạm, cụ thể: Tội thiếu
trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản nhà nước xâm phạm đến quyền sở hữu tài
sản của Nhà nước với đối tượng tác động là tài sản của Nhà nước bao gồm vật, tiền, giấy tờ có
giá và các quyền tài sản; còn tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng xâm phạm đến
hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức nhà nước.
* Phân biệt tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng với tội thiếu trách nhiệm
trong việc giữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 235), tội
thiếu trách nhiệm để người đang bị giam, giữ trốn (Điều 301)
So sánh các tội phạm này thấy rằng: điểm giống nhau giữa ba loại tội này là đều có hành
vi khách quan là "thiếu trách nhiệm" và ý thức chủ quan của người phạm tội được thực hiện
với lỗi vô ý.
Điểm khác nhau giữa ba loại tội này là khách thể xâm phạm, chủ thể thực hiện tội phạm
và hậu quả.
Tội thiếu trách nhiệm trong việc giữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ gây hậu quả
nghiêm trọng là tội xâm phạm đến trật tự, an toàn cộng cộng, tính mạng, sức khỏe của công
dân, tài sản của Nhà nước, các tổ chức và công dân. Đối tượng tác động của tội phạm là vũ
khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ. Tội phạm được quy định nhằm đấu tranh phòng chống những
hành vi thiếu trách nhiệm trong việc giữ gìn vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, bảo đảm an
toàn xã hội, tính mạng, sức khỏe của nhân dân, bảo vệ tài sản nhà nước, các tổ chức và công
dân. Tội thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn là tội xâm phạm đến hoạt động tư pháp
nên khách thể của nó là sự xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của của cơ quan tư pháp, gây
tác hại trực tiếp đến uy tín cũng như việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tư
pháp mà còn xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, công dân.
2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội trong 11 năm
(2001-2011)
2.2.1. Khái quát tình hình xét xử các tội phạm hình sự của Tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội trong 11 năm (2001-2011)
Bảng 2.1: Số liệu các vụ án toàn ngành TAND thành phố Hà Nội
đã xét xử trong 11 năm (2001 - 2011)
Năm 200 200 200 200 200 200 200 200 200 201 201
9
1 2 3 4 5 6 7 8 9 0 1
Hình
sự sơ
thẩm
487
5
512
6
505
8
498
6
511
34
542
3
524
9
671
5
698
2
683
9
679
3
Hình
sự
phúc
thẩm
457 512 496 534 569 608 649 718 935
114
5
120
9
Nguồn: TAND thành phố Hà Nội.
Bảng 2.2: Số liệu các nhóm tội phạm đã xét xử tại TAND thành phố Hà Nội trong 11 năm
(2001 - 2011)
Các
nhóm
tội
phạm
Năm
Nhóm
tội
phạm
xâm
phạm
tính
mạng
.con
người
Nhóm
tội
phạm
xâm
phạm
sở hữu
Nhóm
tội
phạm
xâm
phạm
ma túy
Nhóm
tội
phạm
chức
vụ
Nhóm
tội
phạm
xâm
phạm
trật tự
quản lý
kinh tế
Nhóm
tội
phạm
xâm
phạm
an toàn
công
cộng
2001 124 248 490 12 5 196
2002 129 313 642 10 11 183
2003 130 331 650 18 21 106
2004 156 285 353 20 15 153
2005 114 213 181 17 13 112
2006 130 245 180 26 20 97
2007 134 254 125 30 21 60
2008 150 254 142 30 23 62
2009 128 242 111 26 34 60
2010 142 234 48 18 11 57
2011 151 236 42 16 25 59
Nguồn: TAND thành phố Hà Nội.
Bảng số liệu chỉ nêu một số nhóm tội phạm thường xuyên xét xử tại TAND thành phố Hà
Nội. Qua bảng số liệu có thể phân tích được diễn biến tình hình phát triển tội phạm theo từng
năm và từng loại tội phạm.
2.2.2. Thực tiễn xét xử tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng của Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội trong 11 năm (2001-2011)
Từ năm 2001 đến 2011, trong số 12.634 vụ án mà TAND thành phố Hà Nội đã xét xử, có
415 vụ án/963 bị cáo thuộc các tội phạm về chức vụ, chiếm 0,3% số lượng án xét xử.
10
Bảng 2.3: Số liệu tội phạm về chức vụ đã xét xử tại TAND thành phố Hà Nội trong 11 năm
(2001 - 2011)
Năm
Các
tội
phạm về
chức vụ
200
1
200
2
200
3
200
4
200
5
200
6
200
7
200
8
200
9
201
0
201
1
Điều 278 9 9 12 15 16 22 15 20 14 15 13
Điều 279 1 4 3 2 3 1 2 6 1
Điều 280 1 2 1 6 3 6 4 2
Điều 281 1 2 1 4 4 3 2
Điều 282
Điều 283 2
Điều 284
Điều 285 1 1
Điều 286 1 1 2
Điều 287
Điều 288
Điều 289 1 1
Điều 290 1
Điều 291
Nguồn: TAND thành phố Hà Nội.
Bảng số liệu trên cho thấy một đặc điểm của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
được xét xử tại TAND thành phố Hà Nội là tuy nằm ở trong nhóm những tội phạm về chức vụ
nhưng sẽ có những bị cáo bị truy tố về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được xét xử
trong những vụ án thuộc chương các tội phạm về kinh tế, vậy nên khi thống kê theo các vụ án sẽ
không thể hiện tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng tại chương các tội phạm về chức
vụ, mặc dù thực tế TAND thành phố Hà Nội xét xử rất nhiều về tội phạm này.
Bảng 2.4: Bảng số liệu so sánh việc xét xử các tội thuộc nhóm tội phạm
về chức vụ của TAND thành phố Hà Nội với toàn quốc
Năm Toàn quốc TAND thành phố Hà
Nội
2005 418 17
2006 539 26
2007 622 30
2008 582 30
2009 524 26
11
2010 437 31
2011 514 16
Nguồn: TANDTC.
Nhận xét về các vụ án về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng đã được xét xử tại
TAND thành phố Hà Nội, chúng tôi thấy có đặc điểm sau:
Thứ nhất, tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng không tồn tại thành một vụ án
độc lập (như các tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản nhà nước, tội
thiếu trách nhiệm để người giam giữ trốn...) mà thường đi cùng với các tội phạm khác.
Thứ hai, đây là loại tội phạm xảy ra trên rất nhiều lĩnh vực, liên quan đến nhiều ngành
nghề khác nhau như quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, xây dựng, kế toán, đấu thầu, thương
mại quốc tế, phòng cháy chữa cháy...
Thứ ba, phần lớn các bị cáo bị truy tố, xét xử về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng tại TAND thành phố Hà Nội đều là những người giữ chức vụ quản lý.
Thứ tư, đôi khi tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng xuất hiện trong những vụ
án nằm trong nhóm tội xâm phạm sở hữu như tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Qua nghiên cứu thực tế xét xử một số vụ án điển hình về tội thiếu trách nhiệm gây hậu
quả nghiêm trọng tại TAND thành phố Hà Nội, thấy rằng tội phạm này thường xảy ra trong
các lĩnh vực sau:
a) Hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong lĩnh vực thuế:
b) Hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong lĩnh vực giao dịch thương
mại quốc tế qua ngân hàng
c) Hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong lĩnh vực phòng cháy chữa
cháy
d) Hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong lĩnh vực quản lý nhà nước
đ) Hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong lĩnh vực quản lý kinh tế
e) Hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong lĩnh vực quản lý đất đai
g) Hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong lĩnh vực xuất khẩu lao
động
h) Hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong lĩnh vực tài chính - kế toán
i) Hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong lĩnh vực giáo dục
2.3. Những tồn tại, hạn chế trong xét xử tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và những nguyên nhân của nó
2.3.1. Một số tồn tại, hạn chế trong xét xử tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội trong thời gian qua
Bên cạnh những kết quả đạt được trong công tác đảm bảo xét xử nghiêm minh, kịp thời
và đúng pháp luật các bị cáo phạm tội trong Chương các tội phạm về chức vụ nói chung và tội
thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng nói riêng thì trong công tác xét xử cũng gặp một
số tồn tại, hạn chế từ những qui định của Bộ luật tố tụng hình sự đến thực tiễn xét xử tội thiếu
trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng:
12
Một là, việc định tội danh giữa tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng và tội
thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản nhà nước, tội cố ý làm trái các qui định của Nhà
nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng đôi khi còn nhầm lẫn.
Hai là, đây là loại tội xảy ra trên rất nhiều lĩnh vực như quản lý kinh tế, quản lý nhà nước,
quản lý đất đai, quản lý thuế, xây dựng, đấu thầu, y tế, giáo dục, ngân hàng, phòng cháy chữa
cháy, giao thông vận tải... Do vậy khi nghiên cứu hồ sơ, các thẩm phán phải tìm hiểu kỹ lĩnh
vực tội phạm thực hiện, nghiên cứu đầy đủ các văn bản qui phạm pháp luật liên quan. Có
những lĩnh vực khó, được qui định bằng nhiều loại văn bản chồng chéo dẫn đến khó khăn
trong việc nghiên cứu, sưu tầm tài liệu. Nhiều vụ án phức tạp, Tòa án phải trả hồ sơ điều tra
bổ sung nhiều lần để làm rõ hành vi phạm tội của các bị cáo, tìm ra những đồng phạm khác,
làm sáng tỏ động cơ, mục đích để định tội danh và quyết định hình phạt được chính xác,
khách quan và đúng pháp luật dẫn đến tình trạng vụ án bị kéo dài nhiều năm không thể xét xử
được.
Ba là, vấn đề xác định thế nào là "hậu quả nghiêm trọng" để xác định tội danh và quyết
định hình phạt đối với các bị cáo. "Hậu quả nghiêm trọng" là dấu hiệu định lượng thường gặp
trong các điều luật của BLHS, không chỉ là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự, mà còn là
cơ sở để định khung hình phạt tăng nặng. Tuy nhiên, đối với tội thiếu trách nhiệm gây hậu
quả nghiêm trọng thì dấu hiệu để truy cứu trách nhiệm hình sự thì lại chưa rõ ràng, trong khi
chưa có hướng dẫn nào của Hội đồng thẩm phán TANDTC về loại tội này. Thực tế xét xử
TAND thành phố Hà Nội gặp không ít khó khăn trong việc xem xét bị cáo có phạm tội hay
không vì hậu quả bị cáo gây ra có phải là "gây hậu quả nghiêm trọng" hay không.
2.3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong xét xử tội thiếu trách nhiệm gây hậu
quả nghiêm trọng của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
Như vậy, từ những hạn chế, tồn tại trên đây cho thấy một số nguyên nhân cơ bản để xảy
ra tội phạm này và hạn chế trong thực tiễn xét xử là do các nguyên nhân cơ bản sau đây:
Thứ nhất, do các qui định của BLHS nói chung và về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng nói riêng còn một số thiếu sót, vướng mắc cần tiếp tục được hoàn thiện.
Thứ hai, sự hướng dẫn, giải thích pháp luật của TANDTC chưa đầy đủ và chưa kịp thời.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, đặc biệt là đối với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là loại tội có
thể phát sinh trên nhiều lĩnh vực, liên quan đến nhiều ngành nghề, phải cập nhật nhiều loại văn
bản.
Chương 3
NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VỀ TỘI THIẾU TRÁCH NHIỆM GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM TRỌNG VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM
NÀY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Những yêu cầu hoàn thiện các quy định về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng trong pháp luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm này
13
Những diễn biến phức tạp của các tội phạm về kinh tế và chức vụ trong những năm gần
đây cho thấy, vi phạm pháp luật về kinh tế, chức vụ và tham nhũng vẫn tiềm ẩn trong các
ngành, các cấp, các doanh nghiệp, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, đặc biệt trong khâu quản lý, sử
dụng đất đai, giải phóng mặt bằng, phê duyệt và triển khai các dự án xây dựng cơ bản. Bên cạnh
đó, vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thực hiện chính sách xã hội cũng khó
lường, gây thiệt hại lớn về tài sản của Nhà nước. Phương thức, thủ đoạn của các đối tượng được
che đậy kín kẽ hơn, nhiều vụ án còn có sự tiếp tay hoặc do sự vô trách nhiệm của một số cán bộ
nhà nước tạo thành đường dây khép kín, gây khó khăn trong công tác điều tra, phát hiện. Điều này
đã làm cho một số qui định của luật hình sự về tội phạm chức vụ nói chung và tội thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng nói riêng không đáp ứng được yêu cầu làm cơ sở pháp lý cho
hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm về chức vụ trong đội ngũ cán bộ công chức. Vì vậy,
việc hoàn thiện các qui định pháp luật về tội phạm chức vụ và tội thiếu trách nhiệm gây hậu
quả nghiêm trọng là hết sức cần thiết, nó sẽ góp phần tạo cơ sở pháp lý vững chắc để hoạt
động đấu tranh phòng chống tội phạm về chức vụ đạt hiệu quả cao hơn.
3.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội thiếu
trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của BLHS năm 1999, đánh giá thực tiễn xét xử loại tội
phạm này trên địa bàn thành phố Hà Nội, chỉ ra một số hạn chế, thiếu sót trong các quy định
của pháp luật, cũng như các nguyên nhân của nhưng khó khăn, vướng mắc đó. Tác giả luận
văn mạnh dạn đề xuất một số giải pháp đề khắc phục như sau:
Thứ nhất, tăng cường công tác hướng dẫn của cơ quan chức năng về những qui định của pháp
luật hình sự về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung Điều 285 BLHS năm 1999.
Điều 285 BLHS năm 1999 thể hiện nhược điểm của kỹ thuật lập pháp là: Một là, trong
khung hình phạt có hai loại hình phạt có tính chất khác hẳn nhau: cải tạo không giam giữ và tù có
thời hạn rất dễ đến lạm quyền từ phía người áp dụng pháp luật; Hai là, việc qui định hai tình tiết
có nội dung như nhau nhưng có tính chất và mức độ nghiêm trọng khác nhau là yếu tố định khung
hình phạt trong cùng một khung tăng nặng thể hiện sự bất hợp lý và chưa khoa học.
Vì vậy, chúng tôi xin đề xuất sửa đổi bổ sung Điều 285 BLHS năm 1999 về tội thiếu
trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng như sau:
1. Người nào vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm
vụ được giao gây hậu quả nghiêm trọng, nếu không thuộc trường hợp được qui định tại các
điều 144, 235 và 301 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000
đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười hai
năm.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định từ một năm đến năm năm.
Thứ ba, mở rộng diện miễn trách nhiệm hình sự đối với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng.
14
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với tội thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
Áp pháp luật vừa là hình thức thực hiện pháp luật, vừa là một giai đoạn của thực hiện
pháp luật. Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan bảo vệ pháp luật đối với tội
thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là hoạt động mang tính chất luật trong công tác
điều tra, truy tố, xét xử tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng cần chú ý một số yêu
cầu:
Thứ nhất, các cơ quan bảo vệ pháp luật phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước trong từng giai đoạn, từ đó vận dụng linh hoạt vào công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm nói chung, tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng nói riêng.
Thứ hai, các cơ quan bảo vệ pháp luật phải có sự thống nhất về quan điểm trong việc lựa
chọn các qui phạm pháp luật hình sự. Đây là điều kiện rất quan trọng để nâng cao hiệu quả của
trách nhiệm hình sự, khắc phục được tình trạng không thống nhất trong áp dụng pháp luật giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng.
Thứ ba, việc điều tra, truy tố, xét xử tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng phải
lựa chọn đúng các qui phạm pháp luật để áp dụng một cách mềm dẻo, linh hoạt. Xử lý những
người phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng phải tuân thủ trình tự, thủ tục do
pháp luật quyết định.
Thứ tư, các cơ quan bảo vệ pháp luật cần nghiêm chỉnh thực hiện Nghị quyết số 08/ NQ-
TW ngày 02/02/2002 và Nghị quyết số 49/ NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về định
hướng cải cách tư pháp đến năm 2020.
3.4. Một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng
Thứ nhất: Giải pháp phòng ngừa
Từ thực tiễn đấu tranh chống tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng có thể đề
xuất những yêu cầu để thực hiện giải pháp phòng ngừa sau:
Một là, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân thực hiện có
hiệu quả nghị quyết của Bộ Chính trị về an ninh quốc gia, chương trình quốc gia phòng,
chống tội phạm của Chính phủ.
Hai là, hoàn thiện các hình thức và nội dung tuyên truyền giáo dục pháp luật nói chung và
tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng nói riêng nhằm thu hút sự quan tâm của xã
hội vào cuộc đấu tranh chống tội phạm.
Ba là, thường xuyên bổ sung, điều chỉnh tổ chức, bộ máy cán bộ đấu tranh đối với các tội
phạm về chức vụ nói chung và tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng nói riêng cho
phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới.
Thứ hai: Giải pháp chủ động và kịp thời phát hiện, đấu tranh chống tội thiếu trách
nhiệm gây hậu quả ng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 00050001590_5902_2009919.pdf