Hội nhập quốc tế của ngành công nghiệp dầu mỏ của Việt Nam
Với việc Việt Nam gia nhập các nước ASEAN vào ngày
28/07/1995, sự kiện này được xem như là dấu mốc quan trọng ghi
nhận Việt Nam chính thức hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Song, nếu hiểu hội nhập quốc tế là một quá trình mà các quốc
gia tiến hành những hoạt động tăng cường, củng cố sự hợp tác, gắn
bó với nhau, thông qua việc tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu
vực dựa trên việc chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, nguồn lực, giá trị thì
có thể thấy được trong những thập kỷ vừa qua, ngành công nghiệp
khai thác dầu mỏ Việt Nam đã có những bước đi tiên phong trong
tiến trình hội nhập quốc tế từ rất sớm, thông qua việc Việt Nam và
Liên Xô ký kết việc thành lập Liên doanh dầu khí Việt - Xô (nay là
Liên doanh dầu khí Việt - Nga) vào ngày 19 tháng 11 năm 1981.
Đối với chiến lược đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam trong
lĩnh vực TDKT cũng đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, những
tấn dầu mỏ được khai thác từ nước ngoài đã đóng góp vào việc gia
tăng trữ lượng và sản lượng khai thác góp phần đảm bảo an ninh dầu
mỏ quốc gia và phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu, từng bước khẳng
định được vị thế của ngành công nghiệp dầu mỏ Việt Nam trên
trường quốc tế.
Hội nhập quốc tế về lĩnh vực dầu mỏ đã được Đảng Cộng sản
Việt Nam quan tâm từ lâu thông qua chủ trương đẩy mạnh hợp tác
quốc tế với nhiều đối tác chiến lược để tận dụng các nguồn lực từ bên
ngoài, cũng như học tập kinh nghiệm từ các quốc gia có nền công
nghiệp dầu mỏ tiên tiến đi trước để sớm xây dựng và phát triển ngành
công nghiệp khai thác dầu mỏ trong nước hiện đại, phù hợp với xu
thế hội nhập quốc tế, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên dầu mỏ15
trong nước kết hợp với đẩy mạnh việc khai thác dầu mỏ ở nước ngoài
một cách hợp lý, góp phần đảm bảo an ninh dầu mỏ quốc gia trong
bối cảnh Việt Nam tăng cường liên kết kinh tế khu vực và thế giới,
đồng thời gắn liền với giữ vững chủ quyền quốc gia, lãnh thổ.
27 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 501 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án An ninh dầu mỏ trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam từ 1995 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bảo an ninh dầu mỏ trong giai
đoạn Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới.
4. Đối tƣợng và phạmvi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu vấn đề đảm bảo an ninh dầu mỏ quốc gia
trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian:
Nghiên cứu tại Việt Nam có kết hợp khảo cứu kinh nghiệm của
một số nước trong khu vực và trên thế giới.
Về thời gian:
Nghiên cứu tập trung vào giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2017, là
giai đoạn hội nhập quốc tế của Việt Nam diễn ra sôi động, có nhiều
dấu mốc hội nhập quan trọng, trong đó có sự kiện Việt Nam chính thức
trở thành thành viên của ASEAN vào ngày 28/07/1995, bình thường
hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ tháng 7/1995 Đồng thời, đây cũng là
giai đoạn mà nền kinh tế Việt Nam và khu vực có nhiều biến động
7
thăng trầm, trong đó phải kể đến cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở
Châu Á năm 1997, điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến tăng trưởng
kinh tế Việt Nam, mà còn tác động trực tiếp đến lĩnh vực khai thác dầu
mỏ, cũng như vấn đề đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.
Về nội dung:
An ninh dầu mỏ là một khái niệm tương đối rộng và phức tạp.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận án này, an ninh dầu mỏ được
xem xét ở cấp độ vĩ mô, có ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh năng
lượng quốc gia.
Trong khuôn khổ của luận án này, tác giả tập trung phân tích về
vấn đề an ninh dầu mỏ dưới góc về quan hệ quốc tế, làm nổi bật vai trò
của việc đảm bảo an ninh dầu mỏ góp phần phát triển kinh tế - xã hội
đất nước cũng như giữ vững chủ quyền, lãnh thổ quốc gia trên biển
trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng.
Về nội dung đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, trong đó
bao gồm các lĩnh vực như khí đốt, điện năng... Nhưng do hạn chế về
dung lượng trong khuôn khổ của luận án, cũng như tài liệu tham khảo
tiếp cận được, nên tác giả chỉ lựa chọn phân tích trong giới hạn về
khía cạnh đảm bảo an ninh dầu mỏ quốc gia của Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập quốc tế để phục vụ cho luận án nghiên cứu của mình.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam, cũng như kết hợp cách tiếp cận hệ thống, phương pháp nghiên
cứu đa ngành của khoa học xã hội và nhân văn như lịch sử, chính trị
học, quan hệ quốc tế... Ngoài ra, để thực hiện nội dung của luận án,
tác giả còn vận dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
Phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp so sánh,
phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương
pháp dự báo. Đặc biệt, tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu
trường hợp (case study) để phân tích những trường hợp tiêu biểu
phục vụ cho mục đích nghiên cứu của luận án.
8
Nguồn tài liệu chính được sử dụng trong quá trình nghiên cứu
đề tài được tham khảo từ các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VII năm 1991 đến nay, các Nghị quyết của Đảng, Chính phủ về
chủ trương hội nhập quốc tế, cũng như các văn bản về Chiến lược
phát triển Ngành dầu khí Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, luận án sử
dụng tài liệu, bài viết của nhiều tác giả về lĩnh vực an ninh năng
lượng, an ninh dầu mỏ đăng trên một số tạp chí có uy tín trong và
ngoài nước, một số công trình nghiên cứu về hội nhập quốc tế liên
quan tới lĩnh vực năng lượng và vấn đề an ninh dầu mỏ của một số cơ
quan quản lý nhà nước ở Việt Nam như Bộ Ngoại giao, Bộ Công
Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Viện Năng lượng, Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện Ngoại giao Việt Nam, Tập
đoàn Dầu khí Việt Nam.... Và sử dụng các nguồn thông tin tin cậy,
chính thống từ các trang website của các Tổ chức, các Viện nghiên
cứu có uy tín, hoặc số liệu được các hãng thông tấn báo chí lớn đã
công bố. Cuối cùng luận án cũng khai thác nguồn tài liệu phỏng vấn
các chuyên gia về lĩnh vực kinh tế dầu khí, các nhà ngoại giao, học
giả trong, ngoài nước.
6. Những đóng góp của Luận án
- Luận án bổ sung và làm mới một số khía cạnh lý luận về đảm
bảo an ninh dầu mỏ trong quá trình hội nhập quốc tế cấp độ quốc gia,
làm rõ hơn những vấn đề về an ninh dầu mỏ dưới góc độ kinh tế quốc
tế và quan hệ quốc tế, cụ thể là:
(i) làm rõ hơn nội hàm của khái niệm an ninh dầu mỏ, chỉ ra mối
quan hệ đan xen giữa lợi ích quốc gia và lợi ích quốc tế trong việc đảm
bảo an ninh dầu mỏ trong nước;
(ii) phân tích nội dung, các yếu tố ảnh hưởng tới công tác đảm
bảo an ninh dầu mỏ của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế
- Luận án phân tích kinh nghiệm công tác đảm bảo an ninh dầu
mỏ trong quá trình hội nhập quốc tế của một số quốc gia và bài học
rút ra cho Việt Nam, trong đó quan trọng nhất là bài học về xây dựng
chiến lược phát triển ngành công nghiệp khai thác dầu mỏ của Việt
9
Nam phù hợp với yêu cầu của hội nhập để giữ được trạng thái ổn
định cho nền kinh tế và là nền tảng quan trọng trong việc đảm bảo
chiến lược an ninh năng lượng quốc gia.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng đảm bảo an ninh dầu mỏ
trong quá trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam giai đoạn 1995 - 2017,
luận án khẳng định một số thành tựu quan trọng của Việt Nam đồng
thời chỉ ra những hạn chế và phân tích rõ để xác định nguyên nhân.
- Luận án đã nêu lên một số quan điểm cơ bản của về đảm bảo
an ninh dầu mỏ trong quá trình hội nhập, trong đó nhấn mạnh đảm
bảo an ninh dầu mỏ phải dựa trên cơ sở phát huy tối đa nội lực và
khai thác tốt ngoại lực trong bối cảnh hội nhập; từ đó đề xuất các
nhóm giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục đảm bảo an ninh dầu mỏ cho
quá trình hội nhập của Việt Nam trong bối cảnh mới của hội nhập
kinh tế quốc tế đến năm 2030.
7. Kết cấu của luận án
Luận án bao gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục. Phần nội dung gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Chương 2: Vai trò và thực trạng của an ninh dầu mỏ đối
với Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Chương 3: Giải pháp đảm bảo an ninh dầu mỏ của Việt
Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế tới năm 2030
CHƢƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm về an ninh và an ninh dầu mỏ
1.1.1. Khái niệm về an ninh
An ninh là một khái niệm cơ bản thường được sử dụng trong
ngôn ngữ và thực tiễn chính trị quốc tế. An ninh là nhu cầu đầu tiên,
thiết yếu của mỗi con người, mỗi quốc gia và toàn nhân loại. Đồng
thời, an ninh cũng là điều kiện cơ bản và quan trọng số một để đảm
10
bảo cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, hiểu theo nghĩa
chung nhất của ngôn ngữ chính trị quốc tế, “An ninh” là khái niệm
dùng để chỉ “trạng thái ổn định, an toàn, không có dấu hiệu nguy
hiểm đe dọa sự tồn tại và phát triển bình thường của cá nhân, của
từng tổ chức, của từng lĩnh vực hoạt động xã hội hoặc của toàn xã
hội”. Trong giai đoạn hiện nay, an ninh được chia thành hai loại đó là
“an ninh truyền thống” và “an ninh phi truyền thống”.
An ninh truyền thống (ANTT): Là khái niệm đã có từ thời chiến
tranh lạnh, đồng nghĩa với khái niệm an ninh quốc gia, đề cập tới an
ninh quốc gia cũng chính là an ninh truyền thống. Nội dung cơ bản
của an ninh quốc gia là bảo vệ lợi ích của đất nước, loại trừ những
nguy cơ đe doạ đối với lợi ích cơ bản đó.
An ninh phi truyền thống (ANPTT): Xuất hiện khá lâu sau khái
niệm ANTT. Từ năm 90 thế kỷ XX, tức là sau khi chiến tranh lạnh
kết thúc, các học giả trên thế giới mới đề xuất khái niệm này. Từ đó
đến nay, ANPTT trở thành mối quan tâm lớn của các quốc gia, dân
tộc trên toàn thế giới, là một trong những chủ đề quan trọng được các
nhà khoa học nghiên cứu và là vấn đề nóng hổi được bàn luận trên
nhiều diễn đàn khu vực, quốc tế, cũng như trong nhiều nội dung của
các quan hệ song phương và đa phương.
1.1.2. Khái niệm về dầu mỏ và an ninh dầu mỏ
Khái niệm cơ bản về dầu mỏ: Theo Luật Dầu khí Việt Nam
(1993) “Dầu khí” bao gồm dầu mỏ, khí đốt và hydrocarbon ở thể khí,
lỏng hoặc rắn trong trạng thái tự nhiên nhưng không kể than, đá
phiến sét, bitum hoặc các khoáng sản khác có thể chiết xuất được
dầu. “Hoạt động dầu mỏ” là hoạt động tìm kiếm thăm dò, phát triển
và khai thác dầu mỏ, kể cả các hoạt động phục vụ trực tiếp cho các
hoạt động này.
“An ninh dầu mỏ là quá trình đảm bảo khả năng cung ứng
dầu mỏ với một mức giá hợp lý theo phương thức bền vững. Mức giá
hợp lý trong định nghĩa này có hàm ý phải dựa vào chức năng cơ bản
của thị trường (do thị trường xác định giá) có tính đến nhu cầu
11
không thể thay thế và nguồn cung của các nước khác nhau trong mối
liên hệ với những vấn đề như quan hệ nhà nước và xã hội, chi phí
môi trường và điều tiết thị trường”.
Ngày nay, thế giới khi nói đến an ninh năng lượng thì mọi người
thường gắn liền với vấn đề an ninh dầu mỏ, bởi dầu mỏ đã dần thay
thế than đá để thành nguồn năng lượng chủ yếu của nhân loại. Cơ
quan Năng lượng Quốc tế (IEA) đưa ra khái niệm về đảm bảo an
ninh năng lượng với trọng tâm là ổn định nguồn cung và giá dầu mỏ.
1.2. Tình hình an ninh dầu mỏ thế giới trƣớc thập kỷ 1990
Vào những năm của thập niên 70 và 80 của thế kỷ trước, nhu
cầu về năng lượng của các quốc gia nhìn chung được bảo đảm tương
đối ổn định thông qua thị trường. Song có một thực tế là các sản
phẩm công nghiệp chế biến luôn có giá so sánh cao hơn giá nguyên
nhiên liệu trên thị trường, vì vậy các nước phát triển luôn có lợi thế
và giành được nguồn lợi từ chính tình trạng này. Với sự phát triển
mạnh mẽ của phong trào độc lập dân tộc, việc khai thác thuộc địa trở
nên khó khăn, việc tranh chấp các nguồn tài nguyên ngày càng quyết
liệt. Mặc dù các quốc gia đã có sự điều chỉnh trong cơ cấu kinh tế,
song cùng với sự gia tăng về tổng lượng kinh tế, mức tiêu dùng dầu
mỏ của nhân loại tăng lên nhanh chóng trong những thập niên vừa
qua. Kể từ những năm 1990 đến nay, mỗi năm bình quân một người
tiêu thụ khoảng 1,6 tấn dầu mỏ quy đổi.
Nhận thức được tầm quan trọng của dầu mỏ đối trong việc đảm
bảo an ninh năng lượng quốc gia, nên hầu hết các nước đều xây dựng
cho mình một chiến lược về an ninh dầu mỏ phù hợp, lâu dài và coi
đó là một khía cạnh của an ninh quốc gia. Từ đó đã xuất hiện một xu
thế mới trong quan hệ quốc tế hiện đại, đó là “ngoại giao dầu mỏ”
hay “ngoại giao năng lượng,” đây được xem là một kim chỉ nam
trong chính sách đối ngoại của nhiều quốc gia. Tuy nhiên, xuất phát
từ nhu cầu sử dụng dầu mỏ thực tế, cũng như nội lực trong nước, mỗi
quốc gia sẽ lựa chọn hướng đi và cách thức phù hợp để thực thi chính
sách ngoại giao dầu mỏ của mình.
12
1.3. Tầm quan trọng của an ninh dầu mỏ trong đời sống quốc tế
1.3.1. Vấn đề dầu mỏ trên thế giới hiện nay
Đây là vấn đề quan tâm hàng đầu đối với nhiều quốc gia trên
thế giới, bởi nó không chỉ liên quan đến lĩnh vực kinh tế mà còn làm
đảo lộn nhiều mối tương quan chiến lược, gây ra những biến động
mới trong đời sống quan hệ quốc tế. Sự khan hiếm nguồn năng lượng
hóa thạch này, cùng với sự phân bố không đồng đều của chúng là
một trong những nguyên nhân chính dẫn đến nhiều cuộc xung đột,
chiến tranh liên quan đến tranh chấp các nguồn dầu mỏ, tác động trực
tiếp đến sự điều chỉnh chiến lược, chính sách của các nước xoay
quanh bài toán an ninh năng lượng quốc gia, cũng như nguồn lợi
nhuận do dầu mỏ đem lại. Trong xu hướng toàn cầu hoá ngày nay,
dầu mỏ đã dần trở thành yếu tố hàng đầu quyết định sự đến sự ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước.
1.3.2. Sự cạnh tranh về dầu mỏ trong quan hệ quốc tế
Nhu cầu cấp thiết về dầu mỏ đã tác động mạnh mẽ đến quan hệ
quốc tế, làm thay đổi quan niệm về chính sách đối ngoại và các mối
quan hệ giữa các quốc gia. Các nước lớn trên thế giới như Mỹ, Trung
Quốc, Nga, Nhật Bản, EU đều tìm cách nắm giữ hoặc gây ảnh
hưởng tối đa tại những khu vực giàu trữ lượng dầu mỏ lớn như Trung
Đông, Trung Á, Bắc Phi, Đông Nam Á Cuộc chạy đua tranh giành
ảnh hưởng ở các khu vực này, cũng như tham vọng độc chiếm được
nguồn dầu mỏ ở đây là một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn đến
một số cuộc chiến tranh, bất ổn về chính trị ở những quốc gia dầu mỏ
trong thời gian gần đây, đồng thời tác động tới đời sống quan hệ quốc
tế ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp đan xen lẫn nhau, nhất là khi lợi
ích quốc gia luôn được đặt lên hàng đầu.
1.3.3. An ninh dầu mỏ trong chính sách đối ngoại của các quốc gia
Dầu mỏ từ lâu đã là tâm điểm của các chính sách đối ngoại, thậm
chí là nguyên nhân của cuộc xung đột và chiến tranh. Giờ đây, khi nguy
cơ cạn kiệt các nguồn dầu mỏ có thể trở thành hiện thực sau vài chục
năm nữa, các cuộc săn lùng thứ nhiên liệu quý từ lòng đất này gần đây
13
đang được tiến hành gắt gao hơn bao giờ hết. Điều này làm gia tăng sự
cạnh tranh vốn đã quyết liệt giữa các nước phụ thuộc lớn vào dầu mỏ,
nay dần hình thành nên các mối quan hệ phụ thuộc đan xen lẫn nhau,
báo hiệu sẽ có những va chạm về lợi ích giữa các quốc gia.
Với vai trò không thể phủ nhận, dầu mỏ được xem là có những
tác động không nhỏ đến các mối quan hệ quốc tế và bàn cờ chính trị
thế giới, vì vậy mỗi quốc gia cần hoạch định, xây dựng chính sách về
an ninh dầu mỏ cho phù hợp xu thế của thời đại.
CHƢƠNG 2 : VAI TRÒ VÀ THỰC TRẠNG CỦA
AN NINH DẦU MỎ ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH
HỘI NHẬP QUỐC TẾ
2.1. Hội nhập quốc tế và hội nhập quốc tế của ngành công nghiệp
dầu mỏ
2.1.1. Những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về hội
nhập quốc tế
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định rõ nguyên tắc cơ bản và
bao trùm là bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng XHCN,
bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Giữ vững độc lập tự chủ thể hiện trước hết trong quyết sách hội nhập
nhằm khai thác tối đa các lợi thế, đối phó thắng lợi với các thách thức
đặt ra của quá trình hội nhập, chủ động lựa chọn các tổ chức tham
gia, các đối tác và hình thức quan hệ, thời điểm tham gia hội nhập,
xây dựng lộ trình hội nhập hợp lý trong khuôn khổ quy định chung,
chủ động điều chỉnh chính sách cho phù hợp với mục tiêu và yêu cầu hội
nhập. Đường lối và chính sách đối ngoại rộng mở luôn dựa trên sự
kiên trì giữ vững nguyên tắc đối ngoại cơ bản, bao trùm là vì hoà
bình, độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội. Trong phát triển quan
hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam còn nêu
rõ bốn nguyên tắc cụ thể:
14
(i) tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau
(ii) không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực
(iii) giải quyết các bất đồng, tranh chấp thông qua thương
lượng hoà bình
(iv) tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
2.1.2. Hội nhập quốc tế của ngành công nghiệp dầu mỏ của Việt Nam
Với việc Việt Nam gia nhập các nước ASEAN vào ngày
28/07/1995, sự kiện này được xem như là dấu mốc quan trọng ghi
nhận Việt Nam chính thức hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Song, nếu hiểu hội nhập quốc tế là một quá trình mà các quốc
gia tiến hành những hoạt động tăng cường, củng cố sự hợp tác, gắn
bó với nhau, thông qua việc tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu
vực dựa trên việc chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, nguồn lực, giá trị thì
có thể thấy được trong những thập kỷ vừa qua, ngành công nghiệp
khai thác dầu mỏ Việt Nam đã có những bước đi tiên phong trong
tiến trình hội nhập quốc tế từ rất sớm, thông qua việc Việt Nam và
Liên Xô ký kết việc thành lập Liên doanh dầu khí Việt - Xô (nay là
Liên doanh dầu khí Việt - Nga) vào ngày 19 tháng 11 năm 1981.
Đối với chiến lược đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam trong
lĩnh vực TDKT cũng đạt được những thành tựu đáng ghi nhận, những
tấn dầu mỏ được khai thác từ nước ngoài đã đóng góp vào việc gia
tăng trữ lượng và sản lượng khai thác góp phần đảm bảo an ninh dầu
mỏ quốc gia và phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu, từng bước khẳng
định được vị thế của ngành công nghiệp dầu mỏ Việt Nam trên
trường quốc tế.
Hội nhập quốc tế về lĩnh vực dầu mỏ đã được Đảng Cộng sản
Việt Nam quan tâm từ lâu thông qua chủ trương đẩy mạnh hợp tác
quốc tế với nhiều đối tác chiến lược để tận dụng các nguồn lực từ bên
ngoài, cũng như học tập kinh nghiệm từ các quốc gia có nền công
nghiệp dầu mỏ tiên tiến đi trước để sớm xây dựng và phát triển ngành
công nghiệp khai thác dầu mỏ trong nước hiện đại, phù hợp với xu
thế hội nhập quốc tế, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên dầu mỏ
15
trong nước kết hợp với đẩy mạnh việc khai thác dầu mỏ ở nước ngoài
một cách hợp lý, góp phần đảm bảo an ninh dầu mỏ quốc gia trong
bối cảnh Việt Nam tăng cường liên kết kinh tế khu vực và thế giới,
đồng thời gắn liền với giữ vững chủ quyền quốc gia, lãnh thổ.
2.1.3. Tác động của hội nhập quốc tế đến an ninh dầu mỏ của
Việt Nam
Tiến trình hội nhập quốc tế đem đến nhiều cơ hội và thách thức
cho mỗi quốc gia, đó là tiếp thu những thành tự về khoa học - công
nghệ, kỹ năng quản lý và quản trị nguồn nhân lực để có khả năng
tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và nâng cao năng lực cạnh tranh khi
tham gia hội nhập quốc tế. Việt Nam là quốc gia cũng không nằm ngoài
các yêu cầu thực tế nói trên trong việc triển khai các chính sách về an
ninh dầu mỏ, đồng thời phải ứng phó với các tình huống khủng hoảng,
rủi ro do hội nhập mang đến. Mặc dù là nước đi sau nhiều quốc gia
trên thế giới trong ngành công khai thác dầu mỏ, nhưng Việt Nam có
lợi thế được thừa hưởng những thành tựu về khoa học, công nghệ
trong lĩnh vực dầu mỏ. Điều này đòi hỏi Việt Nam cần xây dựng
được một lộ trình hội nhập phù hợp để nâng cao khả năng cạnh tranh
trên thị trường quốc tế, bên cạnh đó tìm ra giải pháp để đối phó với
những rào cản về năng lực cạnh tranh, quá trình thực thi luật pháp để
tránh các điều khoản không tương thích hoặc những cam kết gây bất
lợi cho Việt Nam do quá trình hội nhập quốc tế đem lại.
2.2. Vai trò của an ninh dầu mỏ đối với sự nghiệp công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nƣớc
Vai trò của dầu mỏ trong suốt thời gian quá đã góp phần giúp
Việt Nam chủ động đảm bảo cung cấp nhiên liệu cho các ngành kinh tế
quốc dân, vượt qua các giai đoạn khủng hoảng về kinh tế, năng lượng,
đem lại nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước góp phần đáng kể vào ngân
sách quốc gia, làm cân đối hơn cán cân xuất, nhập khẩu thương mại
quốc tế. Ngoài ra, việc tăng cường thăm dò, khai thác dầu mỏ còn đóng
vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế biển, góp phần bảo
vệ chủ quyền quốc gia trên các vùng biển của Việt Nam.
16
2.2.1. An ninh dầu mỏ trong an ninh năng lượng quốc gia
Trong cơ cấu năng lượng hiện nay, dầu mỏ đang chiếm tới 1/3
trong tổng tiêu thụ năng lượng của nền kinh tế Việt Nam. Do đó, cần
chú trọng việc đầu tư phát triển cho ngành công nghiệp mũi nhọn này,
an ninh dầu mỏ đóng vai trò then chốt đối với việc bảo đảm an ninh
năng lượng quốc gia, nhất là khi các ngành khai khoáng khác gặp nhiều
khó khăn. Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng,
song song với việc đẩy mạnh hợp tác với các công ty dầu mỏ nước ngoài
để triển khai các dự án thăm dò, khai thác dầu mỏ trong nước, Việt Nam
cũng cần chủ động xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế
trong lĩnh vực năng lượng để có các chính sách, cơ chế khuyến khích và
thúc đẩy việc đầu tư ra nước ngoài tìm kiếm các dự án khai thác dầu mỏ
mới để bổ sung cho nguồn dầu mỏ trong nước đang bị thiếu hụt, góp
phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc một cách bền vững, lâu dài.
2.2.2. Hoạt động thăm dò, khai thác dầu mỏ góp phần bảo vệ chủ
quyền quốc gia trên biển
Tình hình Biển Đông có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường,
Việt Nam luôn quán triệt, chỉ đạo việc thăm dò, khai thác dầu mỏ trên
biển phải gắn liền với ổn định về chính trị, giữ vững chủ quyền quốc
gia và bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, đây là nhiệm vụ quan trọng
không kém so với nhiệm vụ phát triển kinh tế. Các hoạt động thăm dò,
khai thác dầu mỏ đi song hành với nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an
ninh và bảo vệ toàn vẹn chủ quyền quốc gia trên biển và nguồn tài
nguyên dầu mỏ. Việt Nam tăng cường hội nhập quốc tế để kêu gọi
công ty dầu khí nước ngoài đến đầu tư, khai thác chung dầu mỏ ở
thềm lục địa Việt Nam, một mặt vừa để bảo vệ, giữ vững chủ quyền
quốc gia, mặt khác gia tăng trữ lượng khai thác dầu góp phần đảm
bảo an ninh dầu mỏ trong nước
2.2.3. An ninh dầu mỏ đóng vai trò thúc đẩy hội nhập quốc tế của
Việt Nam
Nhận thức được tầm quan trọng của dầu mỏ, cũng như giải bài
toán về vấn đề an ninh dầu mỏ trong những năm tới, Việt Nam cần
17
triển khai nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế
đi vào hiệu quả, thực chất hơn trong việc thu hút các nguồn vốn đầu
tư, công nghệ tiên tiến từ nước ngoài vào thăm dò, khai thác dầu mỏ
ở Việt Nam. Trong giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2015, Việt Nam
đã mở cửa cho nhiều công ty dầu mỏ quốc tế đến từ Mỹ, Nhật Bản,
Nga, Anh, Malaysia, Canada, Australia, Pháp, Kuwait vào đầu tư
thông qua các loại hình hợp đồng dầu mỏ khác nhau. Với những
thành công bước đầu của quá trình hội nhập quốc tế đã giúp Việt
Nam dần tiếp cận và nhận chuyển giao nhiều loại hình công nghệ
hiện đại, đồng thời học hỏi được những phương thức quản lý tiên tiến
áp dụng vào hoạt động quản trị doanh nghiệp trong lĩnh vực khai thác
dầu mỏ. Đây là những bước tiến quan trọng để giúp Việt Nam sớm
bắt nhịp với thị trường dầu mỏ toàn cầu, tăng cường hội nhập quốc tế
một cách hiệu quả và toàn diện.
2.3. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dầu mỏ của Việt Nam
2.3.1. Sự cần thiết của hợp tác quốc tế về thăm dò khai thác dầu mỏ
Với mục tiêu đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, phục vụ
cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, cũng như cân đối được
sản lượng dầu mỏ khai thác để bù đắp cho những ngành công nghiệp
khác đang thiếu hụt trong những năm gần đây, Việt Nam không ngừng
đẩy mạnh hội nhập quốc tế để mở rộng các hoạt động đầu tư trong lĩnh
vực khai thác dầu mỏ ở nước ngoài, việc đầu tư này không chỉ cung cấp
nguồn dầu mỏ bổ sung lâu dài cho nhu cầu phát triển của đất nước, mà
còn mang về một nguồn thu ngoại tệ đáng kể, góp phần vào việc duy trì
ổn định nền kinh tế quốc gia và nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành
công nghiệp dầu mỏ của Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Với đặc thù là lĩnh vực luôn cần có nguồn vốn đầu tư lớn và
mức độ rủi ro cao, việc mở rộng hợp tác đầu tư trong các hoạt động
dầu mỏ ở nước ngoài của Việt Nam còn nhằm mục đích chia sẻ rủi
ro, cũng như huy động được nguồn vốn đầu tư lớn, đa dạng và có thể
đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho các dự án về thăm dò, khai thác
dầu mỏ, đồng thời tranh thủ ứng dụng, chuyển giao các công nghệ
18
tiên tiến và kinh nghiệm quản lý của các nước có ngành công nghiệp
dầu mỏ phát triển đi trước.
2.3.2. Quá trình hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thăm dò, khai thác
dầu mỏ
Ngay sau khi thống nhất hai miền đất nước, ngày 09/08/1975,
Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra Nghị quyết 244-NQ/TW
về công tác dầu mỏ/khí đốt, trong đó cho phép hợp tác đa phương với
nước ngoài, để sớm khai thác nguồn tài nguyên dầu mỏ/khí đốt phục
vụ phát triển kinh tế đất nước. Thời điểm đó Việt Nam nằm trong
khối các nước XHCN, kinh tế bị bao vây, cấm vận thì một quyết
định cho hợp tác với công ty tư bản vào thời điểm đó hết sức khó
khăn và gặp nhiều trở ngại.
Kể từ năm 1995, Việt Nam đã kêu gọi được nhiều công ty dầu
quốc tế đầu tư vào lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu mỏ cả trên đất liền
và toàn thềm lục địa. Cho đến nay gần 100 hợp đồng dầu mỏ đã được
ký kết với đủ các tập đoàn, công ty tầm cỡ quốc tế thuộc 22 nước và
vũng lãnh thổ trên thế giới, trải khắp trên năm châu lục, trong đó có
các công ty dầu khí quốc gia như: ONGC (Ấn Độ), Petronas
(Malaysia), KNOC (Hàn Quốc), StatOil (Nauy), CPC (Đài Loan),
PetroCanada (Canada), OMV (Áo), Repsol (Tây Ban Nha), NOC
(Iran)...và các Tập đoàn dầu khí xuyên quốc gia như Shell (Hà Lan),
Total (Pháp) BP (Anh), Gazprom (Nga), ConocoPhilipps,
ExxonMobil (Mỹ).... Đến cuối năm 2015, gần 40 hợp đồng đã chấm
dứt, nhưng Việt Nam vẫn ký được nhiều hợp đồng bổ sung mới, nên
hoạt động thăm dò, khai thác dầu mỏ tại thềm lục địa Việt Nam vẫn
giữ mức ổn định với hơn 60 hợp đồng còn hiệu lực.
Đến nay, từng bước Việt Nam đã xây dựng được chiến lược
đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu mỏ cụ thể
được phân ra thành 3 giai đoạn như sau:
- Giai đoạn 1995 - 2005: Đây là giai đoạn mà chủ trương đầu
tư ra nước ngoài trong dầu mỏ đã được xác định:
- Giai đoạn 2006 - 2010: Là giai đoạn Việt Nam tích cực triển
19
khai các hoạt động đầu tư thăm dò, khai thác dầu mỏ ra nước ngoài,
đồng thời xây dựng các chính sách thông thoáng cho việc mở rộng
hợp tác với nhiều đối tác dầu mỏ quốc tế.
- Giai đoạn 2011- 2015: Là giai đoạn Việt Nam tích cực triển
khai nhiều dự án thăm dò, khai thác dầu mỏ ở nước ngoài, nhằm sớm
đưa các dự án này vào vận hành
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_an_ninh_dau_mo_trong_tien_trinh_hoi_nhap_quo.pdf