Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG
TRONG PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO
YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG
TRONG PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
2.1.1. Khái niệm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
2.1.1.1. Khái niệm nguyên tắc tranh tụng
Nguyên tắc, theo từ điển tiếng Việt, là “Điều cơ bản định ra, nhất thiết
phải tuân theo trong một loại việc làm”. Nguyên tắc cũng được xác định là
tư tưởng chỉ đạo, quy tắc cơ bản của một hoạt động nào đó. Trong khoa
học pháp lý, theo nghĩa chung nhất thì nguyên tắc của pháp luật là những
nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo cơ bản có tính chất xuất phát điểm, thể hiện tính
toàn diện, linh hoạt và có ý nghĩa bao trùm, quyết định nội dung và hiệu lực
của pháp luật. Nguyên tắc TTHS là những phương châm, định hướng chi
phối và giải quyết toàn bộ các giai đoạn TTHS hoặc một số giai đoạn TTHS
và mang tính chất định hướng cho mọi hoạt động và hành vi tố tụng.
Như vậy, nguyên tắc tranh tụng trong TTHS là định hướng cho tất cả
các chủ thể tiến hành tố tụng (THTT) và tham gia tố tụng trong mọi hoạt
động và hành vi tố tụng theo luật định được tranh tụng trên cơ sở bình
đẳng bằng lý lẽ dựa trên những chứng cứ, quy định pháp luật nhằm thực
hiện chức năng buộc tội hoặc chức năng bào chữa, là cơ sở để TA giữ vai
trò trung tâm, độc lập với chức năng tài phán ra phán quyết áp dụng pháp
luật có hiệu lực thi hành, kết thúc quá trình giải quyết vụ án hình sự cụ thể.
27 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 582 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ia tố tụng trong mọi hoạt
động và hành vi tố tụng theo luật định được tranh tụng trên cơ sở bình
đẳng bằng lý lẽ dựa trên những chứng cứ, quy định pháp luật nhằm thực
hiện chức năng buộc tội hoặc chức năng bào chữa, là cơ sở để TA giữ vai
trò trung tâm, độc lập với chức năng tài phán ra phán quyết áp dụng pháp
luật có hiệu lực thi hành, kết thúc quá trình giải quyết vụ án hình sự cụ thể.
2.1.1.2. Nội dung của nguyên tắc tranh tụng
Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS sự gồm hai nội dung: phân định rõ
chức năng buộc tội, gỡ tội và tài phán tương ứng thuộc về bên buộc tội,
bên bào chữa và Tòa án, trong đó chức năng tài phán không thể bao gồm
cả việc buộc tội hay bào chữa; bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội và
bên bào chữa trong địa vị tố tụng cũng như trong việc sử dụng các phương
tiện mà pháp luật cho phép để thực hiện chức năng của mình trong TTHS.
8
Những nội dung và đặc điểm của tranh tụng chỉ được thể hiện khi xuất
hiện chức năng tài phán của phía trọng tài trong phiên tòa xét xử.
2.1.1.3. Khái niệm phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Trong TTHS, giai đoạn xét xử được coi là trọng tâm, và trong các cấp
xét xử thì cấp sơ thẩm được xem là có vai trò quan trọng nhất bởi đây là
giai đoạn mà toàn bộ vụ án và mọi vấn đề liên quan đến vụ án được xem
xét lần đầu và quyết định. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn
của quá trình tố tụng, trong đó TA có thẩm quyền, sau khi nghiên cứu hồ
sơ vụ án, lần đầu tiên đưa vụ án hình sự ra xét xử bằng phiên tòa nhằm xác
định có hay không có tội phạm xảy ra, một người có phải là người phạm
tội để từ đó đưa ra phán quyết bằng bản án, quyết định. Xét xử sơ thẩm là
giai đoạn bắt buộc đối với quá trình giải quyết bất kỳ vụ án hình sự nào.
Như vậy, xét xử sơ thẩm là việc TA xét xử lần đầu đối với toàn bộ vụ
án, quyết định bị cáo có tội hay không có tội và áp dụng hình phạt, mức
bồi thương thiệt hại (nếu có).
2.1.1.4. Khái niệm tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự
Mặc dù trong thực tiễn và khoa học pháp lý có nhiều quan điểm khác
nhau về tranh tụng, song tranh tụng được thống nhất xem là một hoạt động
trong quá trình TTHS. Tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự là quá trình các bên tham gia tố tụng đưa ra quan điểm, chứng cứ
của mình và tranh luận để làm sáng tỏ sự thật của vụ án trên cơ sở những
chứng cứ không thể bác bỏ để hội đồng xét xử (HĐXX) phán quyết.
2.1.1.5. Khái niệm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên toà
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng nhằm bảo vệ quyền hạn và trách nhiệm
của các chủ thể tham gia tố tụng; bảo đảm cho các bên có thể chủ động dùng
các phương tiện pháp luật cho phép để thu thập và xuất trình chứng cứ chứng
minh cho quan điểm của mình; chủ động xác định các vấn đề cần tìm hiểu,
cần phải làm rõ để thuyết phục TA. Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng mở ra cơ
hội cho các bên tham gia tố tụng. Bên buộc tội, bên bào chữa đều có quyền
chủ động xác định các vấn đề cần chứng minh, trên cơ sở đó có thể tự tiến
hành điều tra, thu thập chứng cứ cần thiết, triệu tập nhân chứng để phản bác lại
quan điểm của phía đối phương và khẳng định lý lẽ của mình trước tòa.
Như vậy, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự là tạo các điều kiện cần và đủ nhằm bảo đảm hiện thực
hóa nguyên tắc tranh tụng một cách nghiêm túc, triệt để tại phiên tòa xét
9
xử sơ thẩm vụ án hình sự; tạo điều kiện cho các bên tham gia tố tụng đưa
ra quan điểm, chứng cứ và tranh luận để làm sáng tỏ sự thật của vụ án
trên cơ sở những chứng cứ không thể bác bỏ, nhằm mục đích xác định sự
thật khách quan của vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có
hành vi phạm tội, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác, bảo
vệ pháp chế, pháp luật, giám sát hoạt động tư pháp, bảo vệ công lý, tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật.
2.1.2. Đặc điểm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Mô hình TTHS ở nước ta về cơ bản là mô hình TTHS thẩm vấn. Tuy
nhiên, trong quá trình phát triển của nó, đã tiếp thu một số hạt nhân của mô
hình TTHS tranh tụng, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
của Việt Nam, cụ thể như sau:
Một là, TTHS Việt Nam không coi vụ án hình sự là tranh chấp, xung
đột giữa các bên, mà xem đó là hoạt động đã xâm hại đến trật tự công
cộng, lợi ích chung của toàn xã hội và Nhà nước phải có trách nhiệm giải
quyết ; tất cả các cơ quan và những người tham gia tố tụng đều có quyền
và nghĩa vụ xác định sự thật vụ án.
Hai là, TTHS Việt Nam xác định tìm kiếm sự thật vụ án bằng phương
pháp điều tra, thẩm vấn kết hợp với phương pháp tranh tụng.
Ba là, việc phân chia các chủ thể tố tụng dựa trên tiêu chí chức năng
cơ bản của TTHS: chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng
xét xử; trên cơ sở đó hình thành các bên trong quan hệ tố tụng: bên buộc
tội, bên bào chữa và bên trung lập.
Bốn là, trong TTHS luôn tồn tại ba chức năng cơ bản, đó là buộc tội,
bào chữa và xét xử. Vai trò, thẩm quyền của các chủ thể được phân định
theo chức năng tố tụng là điều kiện quan trọng bảo đảm mục tiêu và hiệu
quả của TTHS.
Năm là, trong TTHS Việt Nam luôn tồn tại hồ sơ vụ án hình sự, và hồ
sơ vụ án chỉ là căn cứ để buộc tội của bên buộc tội.
2.2. NỘI DUNG, VAI TRÒ, Ý NGHĨA BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH
TỤNG TRONG PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
2.2.1. Nội dung bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
2.2.1.1. Bảo đảm về mặt pháp lý
Bảo đảm về pháp lý từ Hiến pháp: Khoản 5, Điều 103 Hiến pháp 1992
sửa đổi, bổ sung năm 2013 đã quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử được bảo đảm”.
10
Bảo đảm về pháp lý từ pháp luật TTHS: Pháp luật TTHS quy định rõ
những nguyên tắc cơ bản của quá trình tố tụng; vai trò, vị trí, chức năng của
các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) và những người tham gia tố tụng
tạo cơ sở pháp lý cho bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong TTHS.
2.2.1.2. Bảo đảm về cơ chế xét xử
Bảo đảm cơ chế xét xử là bảo đảm hữu hiệu cho Tòa án THTT độc lập
với các yếu tố bên ngoài để đưa ra phán quyết của mình một cách độc lập
căn cứ vào các quy định cảu pháp luật và các chứng cứ đã được xem xét
tại tòa; nhằm loại trừ tất cả các trường hợp gây tác động ảnh hưởng tới quá
trình áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ án hình sự.
2.2.1.3. Bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa
trong tranh tụng
Trong TTHS, các chủ thể thuộc các bên khi tham gia tố tụng có trách
nhiệm pháp lý và hành vi tương đương nhau. Địa vị ngang bằng giữa các
bên được quy định chặt chẽ trong các quy phạm pháp luật TTHS; các bên
được tham gia vào quá trình giải quyết vụ án ngay khi họ muốn và có được
những phương tiện mà pháp luật cho phép như sự bảo đảm về khả năng trong
việc thực hiện quyền của mình. Có sự bảo đảm đó mới có được sự bảo đảm
duy trì công lý, bảo đảm các quyền cơ bản của từng chủ thể trong quá trình
tham gia TTHS. Việc quy định chính xác và đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng
của từng chủ thể của các bên cùng các điều kiện bảo đảm cho chúng được
thực hiện là một trong những cơ chế bảo đảm nguyên tắc tranh tụng được tồn
tại và thực hiện. Bảo đảm mọi người đều có quyền và nghĩa vụ như nhau khi
tham gia tố tụng với cùng một tư cách, có nghĩa là sự bảo đảm cho tất cả
những người tham gia tố tụng đều có quyền tham gia tố tụng để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình trong vụ án hình sự và đều phải gánh vác những
nghĩa vụ như nhau, không có sự phân biệt vai trò, vị trí, địa vị pháp lý.
2.2.1.4. Bảo đảm quyền bào chữa của bên gỡ tội
Trong TTHS, quyền bào chữa (QBC) là toàn bộ các hành vi tố tụng
của người bị buộc tội nhằm đưa ra các chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình được thực hiện trên cơ sở phù hợp với các quy định
của pháp luật tố tụng. QBC của bị cáo cần được bảo đảm và tạo điều kiện
để được thực hiện thông qua những quy định về quyền năng cụ thể cho
người bị buộc tội trong Luật TTHS. Bảo đảm QBC của bên gỡ tội là một
nội dung không thể thiếu trong bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong TTHS
mà cụ thể là trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
2.2.1.5. Bảo đảm hoạt động của tất cả những người tham gia tố tụng
Mọi hoạt động của các chủ thể tham gia tố tụng đều nhằm xác định sự thật
khách quan trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Chính vì vậy, cần thiết phải
11
tạo điều kiện đầy đủ về pháp lý như sự phân định rõ ràng thẩm quyền, trách
nhiệm, nghĩa vụ của các chủ thể và những thủ tục tố tụng bình đẳng cũng như
những bảo đảm về cơ sở vật chất để họ thực hiện các hoạt động theo đúng chức
năng của mình theo quy định của pháp luật TTHS. Tạo điều kiện cho tất cả các
chủ thể tham gia tố tụng đưa ra các luận điểm, chứng cứ, lý lẽ để chứng mình
cho quan điểm của mình một cách công bằng trong tất cả các giai đoạn của quá
trình tố tụng, đặc biệt là giai đoạn xét xử tại TA. Bên cạnh đó, cần bảo đảm để
các chủ thể tham gia TTHS nhận thức rõ tính khách quan, tính chi phối của tranh
tụng trong TTHS bởi đó chính là phương pháp tối ưu để tìm ra công lý.
2.2.1.6. Bảo đảm về các hoạt động hỗ trợ tư pháp
Trong xu thế phát triển chung của xã hội, nhu cầu hỗ trợ pháp lý của
người dân nói chung và nhu cầu được hỗ trợ pháp lý trong TTHS nói riêng
của người dân ngày càng tăng lên. Để thực hiện nội dung bảo đảm các hoạt
động hỗ trợ tư pháp, trước hết, cần tạo điều kiện cho việc tăng cường
mạng lưới trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật miễn phí cho người nghèo và
nhóm đối tượng chính sách; mở rộng phạm vi bào chữa để đảm bảo các
phiên tòa có sự tham gia của NBC ngày càng nhiều; mở rộng phạm vi các
đối tượng được trợ giúp pháp lý miễn phí. Mặt khác, để bảo đảm tốt hơn
quyền và lợi ích hợp pháp của nhóm người yếu thế trong xã hội, Nhà nước
cũng nên có những chính sách cụ thể và khả thi hơn trong việc xã hội hóa
hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí cho họ; quy định rõ trách nhiệm của
các Luật sư, văn phòng luật sư trong việc tham gia trợ giúp pháp lý cho
người nghèo và nhóm đối tượng chính sách; tạo môi trường và cung cấp
phương tiện làm việc hiệu quả ngày càng cao cho đội ngũ cộng tác viên
tham gia trợ giúp pháp lý; đầu tư nghiên cứu cho phép các tổ chức chính
trị xã hội thành lập các trung tâm trợ giúp pháp lý miễn phí cho người
nghèo, đối tượng chính sách; đồng thời đầu tư phát triển ứng dụng phương
tiện kỹ thuật cao và tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực hỗ trợ tư pháp
theo hướng chuyên trách, chuyên nghiệp và tăng cường vai trò điều tiết
của Nhà nước trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý.
2.2.2. Vai trò, ý nghĩa của việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
2.2.2.1. Vai trò của việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên
tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Vai trò của bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong TTHS được xem xét
thông qua ba quy tắc cơ bản định hình cho mọi thủ tục trong hệ thống
tranh tụng. Đó là:
12
- Quy tắc thủ tục bao gồm một loạt các quy định giúp các bên chuẩn bị
chứng cứ trước khi bước vào xét xử và là thủ tục tư pháp hành chính để
Tóa án xem xét các chứng cứ đã đủ cho việc mở phiên tòa xét xử sơ thẩm
chính thức hay chưa nhằm tránh những thủ tục điều tra có thể không cần
thiết tại tòa.
- Quy tắc về chứng cứ nhằm bảo đảm sự thống nhất của các yếu tố
trong hệ thống tranh tụng; ngăn chặn việc sử dụng những chứng cứ không
đáng tin cậy gây tác động tiêu cực tới phán quyết của Tòa án trên cơ sở
thông tin sai lệch.
- Quy tắc điều chỉnh về đạo đức ứng xử của Luật sư, Thẩm phán, Bồi
thẩm đoàn và những người có nghĩa vụ liên quan nhằm kiểm soát đội ngũ
Luật sư của các bên và đội ngũ Thẩm phán, Điều tra viên trong khi áp
dụng nguyên tắc tranh tụng.
Như vậy, có thể khẳng định vai trò của bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
trong TTHS bao gồm:
Một là, bảo đảm quyền con người, quyền công dân một cách tối đa.
Hai là, bảo đảm cho hoạt động xét xử của Tòa án công khai, minh
bạch, đúng người, đúng tội.
Ba là, bảo đảm sự bình đẳng và tính hiệu quả trong hoạt động tranh tụng.
2.2.2.2. Ý nghĩa của việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong
phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
a. Ý nghĩa chính trị của việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong
phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Thứ nhất, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự chứng tỏ quyền dân chủ của công dân và cơ chế tự do
dân chủ ngày càng phát triển và mở rộng ở nước ta.
Thứ hai, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Thứ ba, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự là bảo đảm nguyên tắc của hoạt động tư pháp Nhà nước
pháp quyền XHCN.
b. Ý nghĩa xã hội của việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên
tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự còn
mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, nó thể hiện chính sách nhân văn của Nhà
nước ta trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự nói riêng. Cụ thể như sau:
13
Thứ nhất, nó biểu hiện tính nhân văn XHCN.
Thứ hai, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự là biểu hiện của việc thực hiện dân chủ trong BLTTHS.
Thứ ba, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự của bị cáo góp phần tích cực vào việc bảo vệ pháp chế
XHCN; giúp TA ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh
được việc chỉ thiên về buộc tội và xem xét một chiều, nâng cao uy tín của
CQTHTT, củng cố lòng tin của nhân dân vào hệ thống tư pháp hình sự của
Nhà nước ta.
Thứ tư, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự góp phần vào việc giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật của
bị cáo; những người tiến hành và tham gia tố tụng nói riêng cũng như quần
chúng nhân dân nói chung.
c. Ý nghĩa pháp lý của việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong
phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa chính trị, xã hội mà nó còn
mang ý nghĩa pháp lý. Điều này được thể hiện ở những vấn đề sau:
Thứ nhất, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự là thực hiện nguyên tắc cơ bản của BLTTHS, Nghị
quyết số 08 và số 49, Hiến pháp 1992, sửa đổi bổ sung năm 2013.
Thứ hai, bảo đảm tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo đảm trong quá trình tố
tụng này sẽ không được lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo
đảm điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Thứ ba, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự là thức hiện chức năng cơ bản của BLTTHS.
2.3. CẢI CÁCH TƯ PHÁP VÀ YÊU CẦU, ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM
NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ
ÁN HÌNH SỰ
2.3.1. Cải cách tư pháp và yêu cầu bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
2.3.1.1. Quan điểm, chủ trương cải cách tư pháp của Đảng
Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là một trong những mục tiêu
quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, điều này đã được Hiến pháp 1992
(sửa đổi, bổ sung năm 2013) khẳng định rõ tại Điều 2: “Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Nhà nước pháp quyền XHCN
14
Việt Nam cần đáp ứng những yêu cầu chung của một nhà nước pháp
quyền như: Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và theo pháp luật; nội
dung của pháp luật phải mang tính nhân văn sâu sắc, pháp luật phải vì
con người, vì sự tiến bộ của xã hội, phản ánh và phù hợp với các quy
luật phát triển khách quan của tự nhiên, xã hội và con người. Trong nhà
nước pháp quyền, pháp luật giữ vị trí ngự trị trong tất cả các hoạt động
của Nhà nước; quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; sự tôn trọng và
bảo vệ các quyền và tự do của con người được xem là giá trị cao quý
nhất; tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc phân công, phối hợp và
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN phải bảo đảm giữ vững và phát huy bản
chất dân chủ, vì còn người và bảo vệ quyền con người của các cơ quan
thực hiện quyền tư pháp.
Trong yêu cầu cải cách tư pháp đối với hoạt động TTHS, bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng được xem là một trong những yêu cầu cải cách có
tính đột phá. Việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng cần bám sát các quan
điểm, chủ trương cải cách tư pháp trong các Nghị quyết của Đảng.
2.3.1.2. Yêu cầu bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự phải đáp ứng được các yêu cầu sau đây:
Một là: Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng đòi hỏi các quy định pháp luật
phải xác định rõ ràng địa vị pháp lý của các bên tham gia tố tụng.
Hai là: Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong TTHS đòi hỏi hoàn thiện
các quy định về thủ tục TTHS bảo đảm cho các bên tham gia tranh tụng
quyền bình đẳng, các bên có quyền xét hỏi, tranh luận một cách khách
quan, công bằng và bình đẳng.
Ba là: Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng đặt ra yêu cầu tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện các cơ quan tiến hành tố tụng, các cơ quan bổ trợ tư pháp với
chức năng phù hợp với nguyên tắc tranh tụng.
Bốn là: Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong TTHS đặt ra nhiệm vụ
phải tiếp tục nâng cao trình độ, nhận thức của người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng, bảo đảm cho họ có đủ năng lực chuyên môn thực
hiện tốt việc tranh tụng tại phiên toà.
Năm là: Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong TTHS đòi hỏi phải có
những bảo đảm vật chất cho quá trình tranh tụng.
15
2.3.2. Các điều kiện bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên
tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
2.3.2.1. Bảo đảm về mặt pháp lý
Thứ nhất, phải có các quy định pháp luật thể hiện một cách đầy đủ,
nhất quán, rõ ràng trong phân định quyền và trách nhiệm, nghĩa vụ của các
chủ thể tham gia tố tụng phù hợp với vị trí, vai trò theo yêu cầu tranh tụng.
Thứ hai, các quy định thủ tục tố tụng bình đẳng, đặc biệt là tại phiên
tòa, tạo điều kiện cho các bên tham gia tố tụng được xét hỏi, tranh luận
một cách khách quan, công bằng và mở rộng phạm vi các vụ án có sự tham
gia bắt buộc của luật sư.
Thứ ba, quy định về khiếu nại, kháng cáo bản án, quyết định của các
bên có hiệu lực như nhau.
2.3.2.2. Bảo đảm về mặt tổ chức
Phân định rõ ràng chức năng của cơ quan điều tra (CQĐT), KSV
(công tố) và TA, tạo điều kiện phát triển các tổ chức bổ trợ với chức năng
hợp lý phù hợp với cơ chế tranh tụng.
2.3.2.3. Bảo đảm cơ sở vật chất, kinh phí cho quá trình tranh tụng
Phòng xử án phải có cấu trúc phù hợp với mô hình tranh tụng với đầy
đủ các thiết bị âm thanh, ánh sáng, hệ thống thông tin liên lạc, và cách bố
trí, sắp xếp vị trí của các bên tại phiên tòa phù hợp bảo đảm không khí tố
tụng bình đẳng, khách quan; tạo điều kiện cho các bên dễ dàng tiếp xúc
trong quá trình tố tụng; cùng với hệ thống âm thanh, hình ảnh sao cho
thuận tiện cho việc theo dõi phiên tòa.
2.3.2.4. Trình độ, năng lực, phẩm chất và trách nhiệm của Thẩm
phán và những người tiến hành tố tụng
Trình độ, năng lực, phẩm chất và trách nhiệm của Thẩm phán (TP) và những
người tiến hành tố tụng là yếu tố bảo đảm cho cán cân đối tụng, bảo đảm giải quyết,
xét xử các vụ án được giao theo thẩm quyền đúng đắn và khách quan.
2.3.2.5. Trình độ, năng lực, phẩm chất và trách nhiệm của luật sư
và những người tham gia tố tụng khác
Đội ngũ Luật sư đủ về số lượng và trình độ là điều kiện hết sức quan
trọng bởi vì trong mô hình tố tụng tranh tụng, Luật sư có vai trò rất lớn, một
mặt tham gia vào việc thu thập chứng cứ, góp phần tìm sự thật khách quan
của vụ án, một mặt giúp bảo đảm các quyền cơ bản của bị can, bị cáo trong
suốt quá trình tố tụng vụ án. Bên cạnh năng lực cần thiết, Luật sư còn phải có
tư cách đạo đức tốt và tư cách đạo đức đó phải được bảo đảm duy trì bởi một
chế định về đạo đức nghề nghiệp Luật sư hợp lý và có tính khả thi cao. Đây
16
cũng chính là yếu tố hết sức quan trọng bởi lẽ trong mô hình tố tụng tranh
tụng, sự tác động của Luật sư tới kết quả của vụ án là rất lớn.
2.4. BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG PHIÊN TÒA
XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở MỘT SỐ NƯỚC VÀ NHỮNG GỢI
MỞ CHO VIỆT NAM
Sự khảo sát vấn đề bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Hoa Kỳ, Cộng hòa Pháp và Liên bang Nga
cho thấy, trên thế giới hiện nay có hai xu hướng ngược nhau trong quan
niệm về vai trò của TA. Có thể thấy rằng luật TTHS trên thế giới hiện nay
khá đa dạng và có sự khác biệt rõ rệt, tuy nhiên, cùng với xu hướng hợp
tác và hội nhập quốc tế sâu rộng thì các mô hình tố tụng dường như có xu
hướng xích lại gần nhau, tiếp thu các giá trị tích cực của nhau; tạo ra các
mô hình tố tụng linh hoạt, hiện đại; bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền
và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan trong TTHS; và việc phân biệt
các mô hình tố tụng chỉ mang tính tương đối.
Từ việc tìm hiểu vấn đề bảo đảm nguyên tắc tranh tụng của một số nước
trên thế giới, có thể rút ra cho Việt Nam những bài học có giá trị tham khảo
như: phát triển đội ngũ Luật sư, Công tố viên KSV và Điều tra viên (ĐTV) có
năng lực; đồng thời xây dựng khung pháp lý rõ ràng, cụ thể và minh bạch trong
điều chỉnh các vấn đề, các bước liên quan đến quá trình TTHS.
Chương 3
THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG
PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ THEO YÊU
CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM
3.1. KHÁI QUÁT QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM LIÊN QUAN ĐẾN BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG
TRONG PHIÊN TÒA XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
3.1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự trước khi ban hành
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
Từ khảo sát quá trình hình thành và phát triển về nguyên tắc tranh tụng
và bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự; đánh giá những thành tựu, ưu điểm và tồn tại, hạn chế của pháp
luật về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng nhìn từ góc độ xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN, có thể khẳng định rằng: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhà
nước đã rất quan tâm đến việc xây dựng hệ thống văn bản pháp luật trong
đó có lĩnh vực TTHS. Sự ra đời của Hiến pháp 1946 và các sắc lệnh, pháp
17
lệnh sau này với những chế định, quy định trực tiếp cơ chế bảo đảm quyền
bào chữa của bị can, bị cáo và nhiệm vụ của CQĐT, VKS, TA trong quá
trình TTHS, thể hiện rõ sự tiến bộ rõ nét của pháp luật TTHS Việt Nam.
Đó cũng là yếu tố góp phần mở rộng cơ chế dân chủ trong TTHS cũng như
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo.
3.1.2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 liên quan đến
bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
3.1.2.1. Những ưu điểm, kết quả đạt được
Bên cạnh việc kế thừa các quy định tiến bộ tại BLTTHS năm 1988,
BLTTHS năm 2003 đã hoàn thiện dần các quy định bảo đảm tranh tụng
trong TTHS.
Thứ nhất, phân định cụ thể hơn về chức năng, nhiệm vụ của
CQTHTT, khẳng định chức năng công tố của VKS, nhiệm vụ cụ thể của
từng người THTT, quy định mới về nhiệm vụ quyền hạn trách nhiệm của
Chánh án, Phó chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký tòa án.
Thứ hai, bổ sung đầy đủ hơn các quyền và nghĩa vụ của người tham
gia tố tụng. Bên cạnh đó, BLTTHS năm 2003 cũng đã quy định bổ sung
nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của CQĐT, VKS, TA đối với những
người tham gia tố tụng.
Thứ ba, BLTTHS năm 2003 đã quy định mở rộng quyền bào chữa của
bị can, bị cáo về thời điểm NBC được tham gia tố tụng cũng như mở rộng
quyền năng của NBC.
Thứ tư, thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa được sửa đổi theo
hướng cụ thể, chặt chẽ và đầy đủ hơn theo hướng nâng cao trách nhiệm
của KSV thực hiện quyền công; mở rộng quyền của những người tham gia
tố tụng bảo đảm việc tranh luận dân chủ, bình đẳng.
Thứ năm, BLTTHS đã có những quy định mới nhằm bảo đảm tranh
tụng bằng chính nghĩa vụ của CQTHTT và NBC.
3.1.2.2. Những điểm bất cập của pháp luật hiện hành về bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, pháp luật TTHS hiện hành vẫn
còn bộc lộ nhiều bất cập, chưa tạo điều kiện bảo đảm nguyên tắc tranh
tụng trong TTHS, gây ảnh hưởng không nhỏ tới phán quyết của TA.
Một là, các nguyên tắc đặc trưng của thủ tục xét xử sơ thẩm còn những
hạn chế.
Hai là, sự có mặt của các bên tại phiên tòa còn bộc lộ một số tồn tại,
làm giảm hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa.
18
Ba là, quy đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tt_bao_dam_nguyen_tac_tranh_tung_trong_phien_toa_xet_xu_so_tham_vu_an_hinh_su_theo_yeu_cau_cai_cach.pdf