Để nâng cao hiệu quả của chức năng bào chữa, tạo được vị thế
mới của NBC và bảo đảm được quyền của người bị buộc tội thì việc hoàn
thiện pháp luật là điều không thể thiếu. Việc hoàn thiện các quy định của
pháp luật phải đảm bảo được những tiêu chí chung trong việc thưc hiện
chính sách hình sự, mục đích của TTHS, đồng thời phải có những tiêu chí
riêng để bảo đảm thực hiện chức năng bào chữa trên thực tế. BLTTHS năm
2015 đã thể hiện bước tiến bộ quan trọng so với BLTTHS năm 2003 trong
việc hoàn thiện pháp luật, trong đó có các quy định liên quan đến chức năng
bào chữa, bảo đảm các quyền của NBC cũng như người bị buộc tội
27 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 07/03/2022 | Lượt xem: 420 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rong TTHS Việt Nam - những vấn đề lý luận
và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Văn Hiển, năm 2010
1.2.2. Nhóm các công trình liên quan trực tiếp đến nội dung luận án
* Nhóm các công trình nghiên cứu về quyền bào chữa:
* Nhóm các công trình liên quan đến thực trạng, giải pháp hoàn
thiện chức năng bào chữa
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu
1.3.1. Các vấn đề lý luận về chức năng bào chữa trong tố tụng
hình sự
Trong các công trình nghiên cứu khoa học kể trên đã nêu lên được
khái niệm, vai trò, nội dung của chức năng bào chữa. Tuy nhiên: - Về cơ sở
quy định chức năng bào chữa : chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện
về nội dung này, một số rất ít công trình nghiên cứu về nguồn gốc, cơ sở
xuất hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự. - Về khái niệm chức
năng bào chữa: vẫn còn nhiều quan điểm và ý kiến khác nhau. - Về vai trò
của chức năng bào chữa : mới chỉ nêu lên một cách khái quát, chưa có sự
luận giải, phân tích; chưa đi sâu nghiên cứu về vai trò của chức năng bào
chữa. Các công trình nghiên cứu hầu như chưa có sự nhận thức mới về chức
năng bào chữa- là một trong ba chức năng cơ bản của TTHS. - Về nội dung
của chức năng bào chữa : mặc dù vẫn còn một vài quan điểm chưa thống
nhất về nội dung của chức năng bào chữa, nhưng hầu hết đều đã khẳng nội
dung của chức năng bào chữa chính là những hoạt động của chủ thể bào
chữa. - Về đặc điểm của chức năng bào chữa : vẫn chưa có công trình nào
khái quát được đặc điểm của chức năng bào chữa. - Về mối quan hệ giữa
các chức năng TTHS : Đa số các công trình nghiên cứu đều nêu lên được
mối quan hệ giữa các chức năng TTHS, đó là mối quan hệ giữa chức năng
buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Các chức năng này có
mối quan hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng tồn tại và phát triển.
Tuy nhiên, việc phân tích mối quan hệ của chức năng bào chữa so với hai
chức năng còn lại trong TTHS vẫn chưa được nghiên cứu sâu sắc, cụ thể,
mới chỉ dừng lại ở mức độ nêu khái quát, phân tích ngắn gọn...\
8
1.3.2. Về thực trạng của chức năng bào chữa trong tố tụng hình
sự Việt Nam
- Về thực trạng các quy định của pháp luật về chức năng bào chữa :
Một số công trình nghiên cứu đã nêu lên khái quát sự ra đời của chức năng
bào chữa và chức năng bào chữa thể hiện trong các giai đoạn lịch sử nhất
định. Đặc biệt, chức năng bào chữa thể hiện trong BLTTHS 2015 thì chưa
có công trình nào viết và nghiên cứu về vấn đề này. Đối với các quy định về
chức năng bào chữa ở nước ngoài, một số công trình nghiên cứu ở ngoài
nước và trong nước đã nêu được khái quát quyền bào chữa, người bào
chữa ở một số quốc gia như Nhật Bản, Pháp, Đức, Tuy nhiên, chưa có
công trình nào nghiên cứu sâu rộng về chức năng bào chữa ở một số quốc
gia nhất định.
- Về thực trạng thực hiện chức năng bào chữa: Các công trình
nghiên cứu đều đã nêu lên được thực trạng thực hiện quyền bào chữa, thực
trạng hoạt động bào chữa của người bào chữa trong các giai đoạn TTHS
như trong giai đoạn điều tra, giai đoạn xét xử tại thời điểm áp dụng
BLTTHS 2003. Đa số đều chỉ ra thực trạng thực hiện quyền bào chữa như:
Thực trạng của việc cấp giấy chứng nhận bào chữa; Thực trạng trong việc thu
thập tài liệu, đồ vật, tình tiết của người bào chữa; Thực trạng trong việc luật sư
tiếp xúc với người bị buộc tội, bị can, bị cáo; Thực trạng của luật sư tại phiên
tòa xét xử sơ thẩm, đặc biệt trong phần tranh luận, đối đáp với đại diện VKS
Đa số các công trình đều viết về thực trạng thực hiện dưới góc độ quyền bào
chữa là chủ yếu. Rất ít các công trình viết về thực trạng hoạt động bào chữa của
người bào chữa, đặc biệt thực trạng của những người bào chữa khác như : bào
chữa viên nhân dân, đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo rất hiếm. Đặc biệt,
chưa có công trình nào viết về thực trạng thực hiện chức năng bào chữa của
người bào chữa và người bị buộc tội theo BLTTHS 2015.
1.3.3. Về các giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực
hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Các công trình nghiên cứu đã nêu lên được một số biện pháp hoàn
thiện các quy định về quyền bào chữa, nâng cao hiệu quả hoạt động bào
9
chữa của người bào chữa. Ví dụ: Bổ sung một số quyền và cơ chế để bảo
đảm cho người bào chữa thực hiện tốt các quyền luật định;Mở rộng một số
quyền năng của người bào chữa như quyền thu thập chứng cứQuy định
trách nhiệm của các cơ quan và người tiến hành tố tụng phải tôn trọng kết
quả bào chữa, trách nhiệm trong việc bảo đảm thực hiện quyền của người
bào chữa, biện pháp xử lý trong trường hợp vi phạm; Sửa đổi, bổ sung các
quy định để tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa nhanh chóng tham
gia tố tụng, tiếp cận với quá trình giải quyết vụ án theo hướng đơn giản hóa
các thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa và các thủ tục tham gia bào
chữaTuy nhiên, việc đánh giá các quy định của BLTTHS 2015 về chức
năng bào chữa, những nội dung chưa hợp lý về chức năng bào chữa được
pháp điển hóa trong BLTTHS 2015 thì chưa có công trình khoa học nào
nghiên cứu về vấn đề này. Từ đó, việc đưa ra các biện pháp nhằm bảo đảm
thực hiện chức năng bào chữa và hoàn thiện các quy định của pháp luật về
chức năng bào chữa trong BLTTHS 2015 cũng chưa được nghiên cứu một
cách toàn diện.
1.3.4. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Thứ nhất : Luận án cần tiếp tục nghiên cứu một số vấn đề về lý
luận như : khái niệm chức năng bào chữa tuy đã đươc một số nhà nghiên cứu
trong nước sử dụng, đề cập nhưng lại chưa có sự thống nhất và chưa nghiên
cứu luận giải để đưa ra khái niệm và phân tích nội hàm của khái niệm này; Đặc
điểm của chức năng bào chữa trong TTHS cũng chưa có công trình nghiên cứu
khoa học nào đề cập đến.Vai trò của chức năng bào chữa được nhắc đến thông
qua vai trò của chức năng TTHS nói chung, do đó, vẫn chưa có sự khái quát và
phân tích sâu hơn về nội dung này. Một số vấn đề lý luận đã có công trình
nghiên cứu đề cập đến nhưng chưa có sự phân tích, luận giải chuyên sâu như:
Hình thức thực hiện chức năng bào chữa trong TTHS ; Sự tồn tại của chức
năng bào chữa trong các mô hình tố tụng hình sự được nhắc đến thông qua việc
phân tích chức năng TTHS trong các mô hình TTHS nhưng còn mờ nhạt; mối
quan hệ giữa chức năng bào chữa với chức năng buộc tội và chức năng xét xử.
10
Thứ hai: Các quy định thể hiện chức năng bào chữa trong từng giai
đoạn lịch sử nhất định cần được phân tích và luận giải sâu sắc hơn, đặc biệt là
việc đánh giá các quy định của BLTTHS năm 2015 về chức năng bào chữa.
Việc nghiên cứu thực trạng thực hiện chức năng bào chữa theo BLTTHS năm
2015 cần tiến hành trên cơ sở thu thập số liệu báo cáo từ các cơ quan tiến hành
tố tụng, liên đoàn luật sư Việt Nam và tiến hành khảo sát, phỏng vấn môt số
luật sư ở Hà Nội và địa phương.
Thứ ba: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp tổ chức thực
hiện chức năng bào chữa trong TTHS phù hợp với tình hình Việt Nam hiện nay
và phù hợp với quan điểm của Đảng, Nhà nước về bảo đảm thực hiện chức
năng bào chữa trong TTHS định hướng phát triển đến năm 2030.
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG BÀO CHỮA
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
2.1. Khái niệm, đặc điểm của chức năng bào chữa trong tố tụng
hình sự
2.1.1. Khái niêṃ chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
* Nhận thức về chức năng
Chức năng TTHS là một bộ phận hợp thành TTHS. Do đó, cần nhận
thức các chức năng của TTHS nói chung và chức năng bào chữa trong
TTHS nói riêng dựa trên nền tảng chức năng luận để luận giải sâu sắc hơn
vấn đề nghiên cứu.
* Khái niệm chức năng tố tụng hình sự
*Khái niệm chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
Cơ sở hình thành chức năng bào chữa trong TTHS: Sự xuất hiện và
ra đời của chức năng bào chữa trong TTHS là một tất yếu khách quan. Có
thể nói, bản chất dân chủ, nhân văn của chế độ xã hội là cơ sở để xuất hiện
chức năng bào chữa trong TTHS. Bản chất của xã hội dân chủ cho thấy, nếu
có chức năng buộc tội thì phải có chức năng gỡ tội – bào chữa để đảm bảo
một sự vật, hiện tượng, một hành vi được đánh giá nhiều chiều khác nhau,
để xác định sự thật khách quan, không làm oan người vô tội; đồng thời,
11
đảm bảo tính công minh trong việc áp dụng pháp luật. Trong thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự, không phải lúc nào việc áp dụng pháp luật của các
cơ quan THTT cũng đúng và sự nhận thức về nội dung các điều luật không
phải lúc nào cũng được hiểu một cách thống nhất. Điều đó sẽ ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người bị buộc tội. Do vậy, chức
năng bào chữa xuất hiện với mục đích cao cả là bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền và lợi ích của người bị buộc tội; với mong muốn là quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị buộc tội không bị vi phạm hoặc được khoan hồng
theo quy định cua pháp luật.
Dưới góc độ là chức năng tố tụng, chức năng bào chữa có phạm vi
rộng hơn và phức tạp hơn. Về mặt lý luận, chức năng pháp luật được phân
loại thành chức năng điều chỉnh và chức năng bảo vệ. “Chức năng bảo vệ
của hệ thống pháp luật được xác định bởi sự cần thiết trong việc bảo vệ
quan hệ xã hội, bảo vệ các lợi ích của công dân, của nhóm xã hội, của các
tầng lớp, giai cấp và toàn xã hội” [78, tr.108]. Đặc trưng cơ bản của các
quan hệ xã hội bảo vệ là ở trong phạm vi của các quan hệ đó các biện pháp
cưỡng chế nhà nước được áp dụng, trách nhiệm pháp lý được thực hiện.
Theo PGS.TS Võ Khánh Vinh, trong lĩnh vực các quan hệ TTHS, chức
năng bảo vệ của pháp luật thể hiện ở ba dạng của việc thực hiện trách
nhiệm: ở dạng các biện pháp bảo đảm, các biện pháp bảo vệ, các biện pháp
phục hồi. Từ sự phân tích trên có thể thấy, chức năng bào chữa trong TTHS
thuộc chức năng bảo vệ. Chức năng bào chữa xuất hiện là một tất yếu khách
quan với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích của người bị buộc tội, bảo vệ
chủ thể yếu thế trong xã hội trước những quyết định mang tính quyền lực
nhà nước và bảo đảm cho quyền của người bị buộc tội được thực thi trên
thực tế. Khía cạnh bảo vệ trong chức năng bào chữa được thể hiện ở chỗ chỉ
ra các phương án cho các hoạt động bào chữa, bảo vệ và việc thực hiện các
hoạt động này mang tính lợi ích chung, phòng ngừa các vi phạm pháp luật
đến từ những người tiến hành tố tụng, đặc biệt là các chủ thể buộc tội.
Để hiểu rõ hơn về chức năng bào chữa trong TTHS cần phải đặt nó
trong mối quan hệ với mục đích, nhiệm vụ của TTHS, nguyên tắc TTHS.
Về khái niệm chức năng bào chữa trong TTHS vẫn chưa có sự
thống nhất và hiện nay còn nhiều ý kiến khác nhau. Có thể thấy rằng, tố
12
tụng hình sự là tổng hợp hoạt động của nhiều nhóm chủ thể khác nhau như
cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án, người bào chữa. Các chủ thể này khi
tham gia vào TTHS bị chi phối bởi nhiệm vụ và lợi ích khác nhau nên định
hướng hoạt động của họ cũng khác nhau. Hoạt động TTHS của các chủ thể
này có sự ràng buộc và liên kết với nhau bởi mục đích chung của TTHS và
mang tính thống nhất với nhau. Chức năng bào chữa là một trong các chức
năng cơ bản của TTHS, do đó, xuất phát từ cách tiếp cận chức năng TTHS
như đã phân tích ở trên, tác giả cho rằng “chức năng bào chữa là những
phương diện hoạt động mang tính định hướng lớn, cơ bản của tố tụng hình
sự được pháp luật ghi nhận và bảo đảm cho bên bị buộc tội khả năng đưa
ra chứng cứ và lý lẽ chống lại sự buộc tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, pháp nhân thương mại
phạm tội, giúp vụ án được giải quyết khách quan, toàn diện và đầy đủ”.
2.1.2. Đặc điểm của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
- Chủ thể thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự:
Chủ thể thực hiện chức năng bào chữa cũng có những đặc thù nhất
định, với mục đích là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buôc
tội. Khác với chủ thể của quyền bào chữa, chủ thể thực hiện chức năng bào
chữa là: Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Người bị buộc tội và
Người bào chữa.
- Phạm vi của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự:
Chức năng bào chữa xuất hiện từ khi có người hoặc pháp nhân
thương mại phạm tội bị buộc tội.
Thời điểm kết thúc chức năng bào chữa được xác định khi không
còn sự buộc tội. Trong một số trường hợp đặc biệt, khi những căn cứ của
việc buộc tội không còn, chủ thể có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ vụ
án thì chức năng bào chữa sẽ kết thúc sớm hơn. Hoặc trong trường hợp
phán quyết đã có hiệu lực pháp luật bị xem xét, giải quyết lại theo thủ tục
phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì chức năng bào chữa lại xuất
hiện cho đến khi có một phán quyết có hiệu lực pháp luật mới.
- Nội dung của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự:
Nội dung của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự là bên bào
chữa sử dụng các quyền năng mà pháp luật cho phép bằng việc đưa ra
13
chứng cứ và lập luận nhằm mục đích chống lại hoặc bãi bỏ sự buộc tội;
giảm nhẹ TNHS cho bên bị buộc tội và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho
người bị buộc tội. Để thực hiện đươc điều đó, bên bào chữa phải thực hiện
hoạt động bào chữa, thông qua các quy định về quyền của người bào chữa
nhằm mục đích bảo vệ cho người bị buộc tội. Nội dung của các chức năng
cơ bản trong TTHS thể hiện ở các hoạt động của các chủ thể tương ứng
được pháp luật quy định. Nội dung của chức năng bào chữa trong TTHS thể
hiện ở những hoạt động của người bào chữa và người bị buộc tội mà pháp
luật TTHS quy định cho họ, nhằm góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Đặc thù về mặt nội dung của
chức năng bào chữa chính là đặc thù trong các hoạt động bào chữa của chủ
thể bào chữa nhằm bảo vệ quyền lợi cho người bị buộc tội.
2.2. Vai trò và mối quan hệ của chức năng bào chữa với các
chức năng cơ bản khác của tố tụng hình sự
2.2.1. Vai trò của chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
Thứ nhất: Chức năng bào chữa có vai trò trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.
Thứ hai: Sự tồn tại của chức năng bào chữa, chức năng buộc tội và
chức năng xét xử là yếu tố hợp thành và mang tính bản lề của TTHS, quyết
định mô hình TTHS và bị chi phối bởi mục đích, nguyên tắc TTHS.
2.2.2. Mối quan hệ giữa chức năng bào chữa với chức năng buộc
tội và chức năng xét xử
TTHS bao gồm ba chức năng cơ bản, đó là chức năng buộc tội,
chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Mỗi chức năng có vị trí, vai trò,
bản chất khác nhau, chủ thể thực hiện khác nhau, hoạt động đặc trưng khác
nhau và đặc biệt là giữa chúng có sự độc lập với nhau. Tuy vậy, giữa các
chức năng này lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, ràng buộc nhau, thống
nhất với nhau để đi đến mục đích cuối cùng là tìm ra được sự thật khách
quan của vụ án. Tùy vào giai đoạn tố tụng cụ thể, có những giai đoạn mà
nếu thiếu một trong ba chức năng cơ bản thì TTHS không thể vận hành tốt
được. Cho dù dưới mô hình tố tụng nào (xét hỏi, thẩm vấn, tranh tụng ...)
thì cả ba chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử vẫn luôn xuất hiện và tồn
14
tại. Mỗi một chức năng tồn tại, vận động vì sự tồn tại và vận động của hai
chức năng còn lại [4, tr.31].
2.3. Hình thức thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình
sự và chức năng bào chữa trong các mô hình tố tụng hình sự
2.3.1. Hình thức thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng
hình sự
Chức năng bào chữa trong TTHS được thực hiện thông qua hình
thức trực tiếp như: Tự thực hiện chức năng bào chữa, do chính người bị
buộc tội tự thực hiện hoặc hình thức gián tiếp đó là thực hiện chức năng bào
chữa thông qua sự giúp đỡ của người bào chữa (nhờ người bào chữa) và
bào chữa theo chỉ định. Tự thực hiện chức năng bào chữa và nhờ người bào
chữa có thể tiến hành song song hoặc chỉ một hình thức tuỳ thuộc vào ý
kiến của người bị buộc tội trong từng trường hợp cụ thể. Việc tự bào chữa
và nhờ người bào chữa có tác dụng bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Trường hợp
người bị buộc tội nhờ người bào chữa thì họ vẫn có quyền tự bào chữa để
bảo vệ quyền lợi cho mình.
2.3.2. Chức năng bào chữa trong các mô hình tố tụng hình sự
2.4. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chức năng bào chữa
trong tố tụng hình sự
Yếu tố pháp luật:
Yêu tố con người và nhận thức:
Yếu tố về kinh tế, chính trị, xã hội:
Chương 3
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THỂ HIỆN CHỨC NĂNG BÀO
CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN
3.1. Quy định của pháp luật thể hiện chức năng bào chữa trong
tố tụng hình sự
3.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển chức năng bào chữa trong
tố tụng hình sự Việt Nam
15
Ở những giai đoạn đầu, sự ghi nhận và điều chỉnh pháp luật về chức
năng bào chữa trong TTHS rất mờ nhạt. Các nội dung về bào chữa nói
chung được quy định rải rác trong các văn bản pháp luật như Sắc lệnh, Nghị
định Tuy nhiên, các quy phạm pháp luật về bào chữa rất ít và chưa cụ
thể, chỉ quy định chung chung về việc luật sư có quyền làm nhiệm vụ bào
chữa và bị cáo có quyền tự bào chữa cho mình.
3.1.1.1 Quy định thể hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
Việt Nam giai đoạn 1945-1987
3.1.1.2 Quy định thể hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
Việt Nam giai đoạn 1988-2003
3.1.1.3 Quy định thể hiện chức năng bào chữa trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003
3.1.1.4. Quy định thể hiện chức năng bào chữa trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung một chương mới
(chương V) quy định các nội dung liên quan đến bào chữa nhằm bảo đảm
cho người bào chữa nhanh chóng tiếp cận với quá trình giải quyết vụ án. Cụ
thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 và nhằm tạo điều kiện để người
bị buộc tội thực hiện tốt quyền bào chữa, BLTTHS năm 2015 đã quy định
một số nội dung mới.
a. Quy định thể hiện chức năng bào chữa trong giai đoạn khởi tố,
điều tra, truy tố
* Thời điểm tham gia tố tụng của NBC
* Hoạt động đăng ký bào chữa của NBC
Để được tham gia tố tụng trong vụ án hình sự, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị buộc tội, bị can, bị cáo thì trong mọi trường hợp
NBC phải đăng kí bào chữa. Đây là quy định mới của BLTTHS năm 2015,
thay thế cho quy định cũ là làm thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào
chữa. BLTTHS 2015 quy định khi đăng ký bào chữa, người bào chữa phải
xuất trình các giấy tờ theo quy định như Thẻ luật sư, giấy yêu cầu luật sư.
Khi có đề nghị của người bị buộc tội, người đại diện, người thân thích của
16
người bị buộc tội về việc mời NBC thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án phải có trách nhiệm bảo đảm cho họ thực hiện quyền có NBC của mình.
* Các hoạt động bào chữa của NBC:
- Hoạt động gặp người bị buộc tội của người bào chữa:
Theo Điều 80 BLTTHS thì NBC được gặp, hỏi người bị bắt, người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam trong bất cứ giai đoạn tố tụng nào và
không hạn chế số lần gặp. NBC được chủ động trao đổi các vấn đề có liên quan
đến thân chủ của mình trong điều kiện giám sát của cơ sở giam giữ mà không
bắt buộc phải có mặt những người tiến hành tố tụng. Để gặp người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam, NBC phải xuất trình văn
bản thông báo người bào chữa của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, Thẻ luật sư hoặc Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Chứng minh nhân
dân hoặc thẻ Căn cước công dân.
Sau khi kết thúc việc hỏi cung, NBC được quyền hỏi thân chủ của
mình. Việc hỏi này hoàn toàn chủ động từ phía NBC. NBC có thể hỏi các
nội dung có liên quan đến thân chủ và hành vi mà thân chủ đã thực hiện
trong vụ án
- Quy định về đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện
pháp cưỡng chế: Khi thấy bị can, bị cáo có đủ các điều kiện để được thay
đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn hoặc biện pháp cưỡng chế thì NBC sẽ đề
xuất với cơ quan có thẩm quyền đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp đang
được áp dụng với bị can, bị cáo. Ví dụ: đề nghị thay đổi biện pháp ngăn
chặn tạm giam sang các biện pháp khác ít nghiêm khắc hơn như cấm đi
khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm...
- Quy định đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng
khác, ngươì có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Khi cần làm rõ các vấn đề có
liên quan đến người bị buộc tội, người bào chữa có thể đề nghị triệu tập
người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng. NBC chỉ đề nghị triệu tập các đối tượng trên khi lời khai của
họ có lợi cho bị can, bị cáo và có lợi cho việc bào chữa, bảo vệ của người
bào chữa.
17
- Hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ và đề nghị cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ: Khi làm nhiệm vụ
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo; NBC có thể phát hiện
ra các tài liệu mới, chứng cứ mới mà cơ quan tiến hành tố tụng chưa phát
hiện được. Trong trường hợp này, NBC có quyền thu thập, kiểm tra, đánh
giá chứng cứ hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu
thập chứng cứ, khi tài liệu, đồ vật đó có lợi cho bị can và không làm xấu đi
tình trạng của bị can. Chẳng hạn, đó là các chứng cứ chứng minh sự vô tội
của bị can hoặc các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can mà cơ
quan tiến hành tố tụng chưa thể hiện trong hồ sơ vụ án.
- Đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án:
*Hoạt động tự bào chữa của người bị buộc tội:
Người bị buộc tội thực hiện hoạt động tự bào chữa, bảo vệ thông qua
các quyền năng được quy định trong BLTTHS. BLTTHS 2015 đã có những
sửa đổi so với BLTTHS 2003, không những quy định cụ thể, rõ ràng hơn
mà còn mở rộng quyền của người bị buộc tội, giúp đảm bảo tính công bằng
trong việc thực thi pháp luật hình sự.
b. Quy định thể hiện chức năng bào chữa trong giai đoạn xét xử
So với BLTTHS 2003, BLTTHS 2015 ghi nhận quyền bình đẳng của
NBC với những người tham gia tranh tụng tại phiên tòa một cách cụ thể
hơn. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho kiểm sát viên, bị cáo, NBC,
những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của
mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án. Theo quy định của
BLTTHS năm 2015, thì thẩm quyền và vị thế của NBC khi tranh tụng tại
phiên tòa được nâng cao, NBC có quyền bình đẳng với đại diện Viện kiểm
sát trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, yêu cầu. Hội đồng xét xử phải lắng
nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa,
người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự
thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia
phiên tòa thì hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản án”.
3.1.2. Chức năng bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự của
một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam
18
Chức năng bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự Cộng hòa
Liên bang Đức
Chức năng bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự của Hoa kỳ
Chức năng bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự của Trung Quốc
Kinh nghiệm đối với Việt Nam
3.2. Thực tiễn thực hiện chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự
3.2.1. Tình hình người bị buộc tội và người bào chữa tham gia
bào chữa trong các vụ án hình sự
Trên thực tế, vì những lí do khác nhau mà người bị buộc tội thường
tự mình thực hiện quyền bào chữa chứ không nhờ NBC bào chữa cho mình.
Bảng 3.1: Số vụ án có NBC tham gia ở giai đoạn xét xử sơ thẩm
Năm Tổng số
vụ án
XXST
Số vụ án
có NBC
tham gia
Tỷ lệ % Số vụ án
không có
NBC
Tỷ lệ %
2009 60.433 6.303 10.4% 54.130 89,6%
2010 51.705 4.783 9,2% 46.922 90,8%
2011 57.009 4.480 7,8% 52.529 92,2%
2012 65.974 5.195 7,8% 60.779 92,2%
2013 67.153 5.001 7,4% 62.152 92,6%
2014 66.676 4.554 6,8% 62.122 93,2%
2015 59.866 3.808 6,3% 56.058 93,7%
2016 61.918 4.173 6,7% 57.745 93,3%
2017 57.872 4.050 7.0% 53.822 93%
2018 58.587 5.611 9,5% 52.976 90,5%
6 tháng
đầu 2019
26.846 2.550 9,4% 24.296 90,6%
(Nguồn: Tòa án nhân dân tối cao)
*Tình hình luật sư được mời và chỉ định tham gia bào chữa vụ
án hình sự
Trong những năm gần đây, số lượng luật sư được khách hàng mời
tham gia bào chữa so với số luật sư chỉ định ngày càng tăng, chiếm tỷ lệ
nhiều hơn so với số luật sư bào chữa chỉ định. Điều đó cho thấy, nhu cầu
mời luật sư bào chữa của người bị buộc tội ngày càng cao, khẳng định được
vai trò và địa vị pháp lý của NBC nói chung và luật sư nói riêng trong tố
tụng hình sự.Việc người bị buộc tội mời luật sư bào chữa ngày càng tăng
19
chứng tỏ chất lượng bào chữa của NBC ngày càng nâng cao, tạo được sự tin
tưởng đối với người dân, xã hội nói chung và người bị buộc tội nói riêng.
Số lượng NBC nói chung và luật sư trên toàn quốc nói riêng ngày
càng tăng cao, đáp ứng được nhu cầu mời luật sư ngày càng nhiều hơn của
khách hàng. Đa số NBC tham gia vụ án với tinh thần trách nhiệm cao trước
khách hàng và trước pháp luật (kể cả các vụ án theo yêu cầu của cơ quan
tiến hành tố tụng). Các hoạt động nghề nghiệp của NBC như nghiên cứu hồ
sơ vụ án, gặp bị can, bị cáo, thu thập thêm chứng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_chuc_nang_bao_chua_trong_to_tung_hinh_su_vie.pdf