Trong 4 đợt điều tra ở giai đoạn trưởng thành, chỉ có đợt điều tra ngày
18/6/2011 là có tỷ lệ cá thể đực và cá thể cái chênh lệch rõ ràng, các cá thể đực
chiếm số lượng áp đảo trong số mẫu thu thập được. Lý do thời điểm đó trưởng
thành bắt đầu vũ hóa, ấu trùng đực chỉ có 6 tuổi nên vũ hóa trước, trong khi con
cái vẫn hầu hết đang ở ấu trùng tuổi 7 nên số lượng trưởng thành cái chiếm tỷ
thấp. Trong các kỳ điều tra tiếp theo số lượng đực/cái không có sự sai khác.
Điều này chứng tỏ tỷ lệ giới tính đực : cái của châu chấu mía H. tonkinensis ở
mức độ tương đương nhau.
Ở loài châu chấu mía H. tonkinensis, tương đối dễ ghi nhận hiện tượng
ghép đôi vì chúng vũ hóa tập trung và có thời gian ghép đôi khá dài, trung bình
6,75 giờ với lần giao phối đầu tiên của con cái. Thời gian từ khi vũ hóa đến ghép
đôi lần đầu của con cái trung bình 25,96 ngày. Từ khi ghép đôi giao phối tới lúc
đẻ ổ trứng đầu tiên là 6,09 ngày. Những con cái có giao phối và đẻ trứng có từ 1
đến 3 lần giao phối và đẻ từ 1 đến 4 ổ trứng, nhưng số lần giao phối tiếp theo và
số ổ trứng đẻ tiếp theo không có liên quan chặt (bảng 3.14)
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Đặc điểm sinh học, sinh thái của loài châu chấu mía Hieroglyphus tonkinensis Bolivar, 1912 (Orthoptera: Acrididae) và biện pháp phòng trừ tại Hòa Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3 công thức là thuốc Notan 2,8EC, nồng độ 0,1%; thuốc Nibas 50ND, nồng độ
0,25% và thuốc Sumithion 50EC, pha nồng độ 0,15%. Thí nghiệm trong phòng
được nhắc lại 3 lần, thí nghiệm ngoài đồng ruộng theo khảo nghiệm diện rộng,
300m2 mỗi công thức và không nhắc lại. Tính hiệu lực của chế phẩm trong điều
kiện phòng thí nghiệm theo công thức Abbott (1925) và ở ngoài đồng ruộng
theo công thức Henderson – Tilton (1955).
- Nghiên cứu xây dựng mô hình phòng chống tổng hợp châu chấu mía
H. tonkinensis với sự tham gia của cộng đồng: Mô hình gồm có 2 khu đồi thí
nghiệm theo 2 công thức phòng chống châu chấu. Khu đồi 1, diện tích 17,3ha,
thực hiện biện pháp phòng chống tổng hợp với sự tham gia của người dân (nông
hộ tham gia điều tra, xác định khu vực đẻ trứng, theo dõi thời điểm trứng nở,
điều tra diễn biến mật độ châu chấu và cùng thảo luận biện pháp xử lý). Khu đồi
2, diện tích 7,4 ha, phòng trừ theo phương thức cũ (chỉ xử lý khi phát hiện châu
chấu tấn công gây hại lúa). Đánh giá diễn biến mật độ và mức độ gây hại của
châu chấu trong diện tích tham gia mô hình và diện tích đối chứng; hiệu quả
thực hiện mô hình.
2.6. Phương pháp tính toán xử lý số liệu
Toàn bộ các số liệu thu thập được tính toán và xử lý thống kê bằng phần mềm
Microsoft Excel và chương trình IRRISTAT 4.0. Các số liệu tỷ lệ phần trăm, trước
khi xử lý phân tích phương sai được đổi biến thành dạng căn bậc 2 hoặc dạng
Arcsine căn bậc 2.
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thành phần loài châu chấu, mức độ phổ biến và mức độ gây hại của châu
chấu mía H.tonknensis ở tỉnh Hòa Bình
3.1.1 Thành phần loài châu chấu ở tỉnh Hòa Bình
Kết quả điều tra trong 2 năm 2010, 2011, chúng tôi đã thu thập, định loại
được 17 loài châu chấu tại khu vực nghiên cứu ở tỉnh Hòa Bình (bảng 3.1).
8
Bảng 3.1. Thành phần loài châu chấu thuộc họ Acrididae ở tỉnh Hòa Bình
(2010 - 2011)
TT Tên khoa học Tên Việt Nam
Mức độ
phổ biến
I Phân họ châu chấu lớn (Acridinae)
1 Ceracris sp. Châu chấu tre ++
2 Ceracris kiangsu Tsai, 1929 Châu chấu tre lưng vàng +++
3 Phlaeoba antennata Brunner v. Wattenwyl, 1893 Châu chấu mũ phật ++
4 Phlaeoba infumata Brunner v. Wattenwyl, 1893 (*) Châu chấu mũ phật ++
II Phân họ châu chấu vân đùi (Catantopinae)
5 Diaboloatantops innotabilis (Walker, 1870) +
6 Hieroglyphus tonkinensis Bolivar, 1912 Châu chấu mía +++
7 Oxya chinensis (Thunberg, 1815) Châu chấu lúa Trung hoa +++
8 Oxya velox (Fabricius, 1787) Châu chấu lúa +++
9 Oxyrrhepes extensa Walker, 1859(*) +
10 Pseudoxya diminuta (Walker, 1871) Châu chấu cánh ngắn +++
11 Pseudoxya sp. +
12 Stenocatantop splendens (Thunberg, 1815) Châu chấu vệt đen đốt đùi ++
13 Xenocatantop humilis (Serville, 1838) Châu chấu vệt đen đốt đùi ++
III Phân họ châu chấu vân cánh (Oedipodinae)
14 Trilophidia annulata (Thunberg, 1815) Châu chấu u ngực +
IV Phân họ cào cào (Pyrgomorphynae)
15 Atractomorpha chinensis Bolivar, 1905 Cào cào nhỏ ++
16 Atractomorpha lata (Motschulsky, 1866)(*) Cào cào xanh nhỏ +
17 Atractomorpha crenulata (Fabricius, 1793)(*) Cào cào xanh lớn +
Ghi chú: (*) - Loài mới ghi nhận ở Hòa Bình. (+) - Ít phổ biến, độ thường gặp < 5%
(++) - Phổ biến, độ thường gặp từ 5-25% (+++)- Rất phổ biến, độ thường gặp > 25%
So sánh kết quả bảng 3.1 với danh lục 36 loài châu chấu đã được các tác
giả phát hiện tại tỉnh Hòa Bình trước đây (Viện BVTV 1976; Phạm Thị Thùy,
1998; Lưu Tham Mưu, 2000; Nguyễn Thế Nhã, 2003) thì đề tài đã ghi nhận
mới 4 loài cho tỉnh Hòa Bình là Phlaeoba infumata, Oxyrrhepes extensa,
Atractomopha lata và Atractomopha crenulata. Như vậy, số loài châu chấu đã
được phát hiện tại tỉnh Hòa Bình đến nay là 40 loài.
3.1.2. Mức độ phổ biến và mức độ gây hại của châu chấu mía H. tonkinensis
ở tỉnh Hòa Bình
H. tonkinensis là loài duy nhất trong 17 loài đã phát hiện tại Hòa Bình ghi
nhận được sự tập trung gây hại với số lượng cá thể lớn, không chỉ ở giai đoạn ấu
trùng mà cả trong giai đoạn trưởng thành. Do vậy, chúng thường chiếm số lượng
áp đảo trong quần xã châu chấu ở khu vực nghiên cứu vào thời gian vũ hóa, giao
phối và đẻ trứng (bảng 3.2).
9
Bảng 3.2. Mức độ phổ biến của trưởng thành loài châu chấu mía
H. tonkinensis (tại Cao Phong và Tân Lạc, Hòa Bình, 2010-2011)
TT Ngày điều tra
Mức độ phổ biến
Độ thường gặp (%) Độ ưu thế (%)
1 18/09/2010 33,33 11,48
2 02/10/2010 16,67 8,77
3 16/10/2010 3,33 1,59
4 18/06/2011 6,67 9,57
5 02/07/2011 60,00 44,44
6 16/07/2011 96,67 66,02
7 30/07/2011 93,33 46,42
8 13/08/2011 76,67 22,43
9 27/08/2011 43,33 15,38
10 03/09/2011 33,33 14,29
11 17/09/2011 20,00 5,26
Để đánh giá mức độ thiệt hại của châu chấu mía H.tonkinensis tới năng
suất lúa, chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm trong nhà lưới với các mật độ thả
châu chấu khác nhau, ở các giai đoạn sinh trưởng của lúa khác nhau, kết quả
được trình bày trong bảng 3.4
Bảng 3.4. Thiệt hại do châu chấu mía H. tonkinensis tới năng suất lúa
(Chi cục BVTV Hòa Bình, TP Hòa Bình, 2011)
Mật độ châu
chấu thí
nghiệm
(con/m2)
Giai đoạn thí nghiệm
Đẻ nhánh Phân hóa đòng Trỗ bông/ phơi màu
NS thu
hoạch
(g/m2)
Giảm so
với ĐC
(%)
NS thu
hoạch
(g/m2)
Giảm
so với
ĐC (%)
NS thu
hoạch
(g/m2)
Giảm so
với ĐC
(%)
5 con 438,33a 0,23 461,33a 2,12 424,33a 7,28
10 con 344,67b 21,55 425,67b 9,69 363,33b 20,61
20 con 119,33c 72,84 399,33c 15,28 156,33c 65,84
30 con 106,67c 75,72 371,33d 21,22 133,67c 70,79
Đối chứng
không thả
439,33a 471,33a 457,67a
LSD0,05 = 34,91 19,48 44,56
Ghi chú: Giá trị trung bình trong cùng một cột mang chữ cái khác nhau thì sai khác có
ý nghĩa ở mức 0,05 .
Trong cả 3 giai đoạn thí nghiệm, chỉ ở mật độ thả 5 con/m2 là không bị thiệt
hại có ý nghĩa so với đối chứng, các mật độ cao hơn đều ảnh hưởng rõ ràng đến
năng suất. Thiệt hại lớn nhất do châu chấu mía H. tonkinensis gây ra tới năng suất
lúa là giai đoạn cây lúa đẻ nhánh. Sau 7 ngày thí nghiệm, chỉ ở ô thả 5 con/m2 cây
lúa mới có thể hồi phục gần như hoàn toàn, ít ảnh hưởng đến năng suất. Ở các công
thức thả với mật độ cao hơn, cây lúa đều bị giảm năng suất một cách đáng kể. Đặc
10
biệt ở những ô thả 20 hay 30 con/m2 gần như bộ lá lúa bị trụi hết, nhiều dảnh bị
gặm tới sát gốc, dù giai đoạn này khả năng tự đền bù của cây lúa là lớn nhất song
năng suất cuối cùng vẫn sụt giảm nghiêm trọng (giảm 72,84 và 75,72% ở ô thả 20
và 30 con tương ứng).
So sánh mức độ gây hại của loài H. tonkinensis với cây lúa trong các thí
nghiệm ở Hòa Bình với kết quả nghiên cứu của Rao and Cherian (1940) đối với
loài H. banian ở Madras (phía Nam Ấn Độ), thì thấy mức độ ảnh hưởng tới năng
suất lúa khi gây hại ở giai đoạn trỗ bông/ngậm sữa là tương đương, đều ở mức
thiệt hại rất nặng. Nhưng ở giai đoạn đẻ nhánh thì kết quả có sự khác biệt lớn
giữa hai nghiên cứu. Nếu kết quả nghiên cứu của Rao and Cherian (1940) cho
rằng loài H. banian gây hại ở giai đoạn đẻ nhánh sẽ ảnh hưởng không đáng kể
tới năng suất lúa sau này, thì kết quả của chúng tôi hoàn toàn ngược lại, mức ảnh
hưởng còn lớn hơn cả sự gây hại ở giai đoạn lúa phân hóa đòng. Một điểm khác
biệt nữa giữa 2 nghiên cứu thể hiện ở phương thức gây hại của châu chấu trong
giai đoạn lúa trỗ bông. Nếu loài H. banian ở Madras gây hại tới năng suất lúa
bằng cách tấn công các hoa lúa còn non thì loài H. tonkinensis ở Hòa Bình chỉ
chủ yếu tấn công bộ lá đòng, ít ăn đến hoa lúa.
3.2. Đặc điểm hình thái của châu chấu mía H. tonkinensis
Cả trưởng thành đực và cái châu chấu mía H. tonkinensis đều có màu
xanh lục, trên mảnh lưng đốt ngực trước có 3 ngấn đen chạy ngang và lõm
xuống, lông đuôi con đực cong và phân thành 2 nhánh, tấm sinh dục dưới của
con cái trơn nhẵn. Các quả trứng giữa nuôi sinh học có khối lượng trung bình
12,59 mg, dài 5,91mm và rộng 2,6mm; các chỉ tiêu này đều thấp hơn những quá
trứng thu ngoài tự nhiên (khối lượng 14,24 mg, dài 6,69 mm, rộng 2,65 mm). Điều
này giải thích tại sao khối lượng ổ trứng thu được trong tự nhiên lớn hơn trong nuôi
sinh học nhưng số quả trứng/ổ lại thấp hơn.
Ở thời điểm 1 ngày từ khi trứng nở, khối lượng và kích thước của ấu trùng
tuổi 1 chênh lệch không lớn so với khối lượng và kích thước quả trứng (13,76
mg; 7,84mm so với 12,59mg; 5,91mm). Nhưng ở tuổi 7, khối lượng ấu trùng đã
đạt 465,06mg/con, tăng gấp 33,8 lần; chiều dài đạt 22,37mm, tăng gấp 3,49 lần
so với tuổi 1.
So sánh giữa kết quả nuôi sinh học (bảng 3.9) với các tài liệu đã công bố
ở Việt Nam trước đây (Viện Bảo vệ thực vật, 1985; Lưu Tham Mưu, 2000) thấy
rằng, hầu hết các bộ phận (trừ râu đầu) của châu chấu trưởng thành 1 ngày tuổi
trong nuôi sinh học đều thấp hơn đáng kể. Kích thước trưởng thành chỉ đạt so
với những công bố trước đây đối với những cá thể thu bắt ngoài tự nhiên hoặc
khi châu chấu đã có một thời gian ăn bổ sung sau vũ hóa.
11
Bảng 3.9. Kích thước trưởng thành châu chấu mía H. tonkinensis
(Chi cục BVTV Hòa Bình, TP Hòa Bình, 2011-2012)
Chỉ tiêu theo dõi
Trưởng thành đực Trưởng thành cái
Lớn
nhất
Nhỏ
nhất
Trung bình
Lớn
nhất
Nhỏ
nhất
Trung bình
Chiều dài thân (m) 29,82 25,29 27,44±0,59 42,01 29,75 33,03±1,19
Chiều dài cánh trước (mm) 25,59 20,24 22,30±0,58 30,29 23,59 25,92±0,64
Chiều dài râu (mm) 19,13 15,65 17,60±0,40 19,35 16,40 18,01±0,36
Chiều dài mảnh lưng
đốt ngực trước (mm)
7,23 5,30 6,15±0,18 8,90 6,11 7,33±0,29
Chiều dài đốt đùi chân
sau (mm)
16,51 15,00 15,94±0,16 22,30 16,85 20,02±0,60
Ghi chú: n = 30; trong điều kiện nuôi sinh học, thức ăn là lá cây lúa, to= 25oC, RH = 80%
3.3. Đặc điểm sinh vật học của châu chấu mía H. tonkinensis
3.3.1. Tập tính sinh sống của châu chấu mía H. tonkinensis
Trứng châu chấu tập trung nở ở những khoảng thời gian nhất định trong ngày.
Đại đa số các ổ trứng nở trong khoảng 8-10 giờ, trong khi đó ổ số trứng nở sau 18
giờ là không đáng kể (hình 3.13).
0,00
10,00
20,00
30,00
40,00
50,00
60,00
70,00
6h-8h 8h-10h 10h-12h 12h-14h 14h-16h 16h-18h 18-6h
Thoi gian trong ngay
T
y
l
e
(
%
) Lan 1
Lan 2
Lan 3
Hình 3.13. Tỷ lệ ổ trứng châu chấu mía H. tonkinensis nở ở các khoảng
thời gian trong ngày (Chi cục BVTV Hòa Bình, TP Hòa Bình, 2011)
Quá trình điều tra ngoài tự nhiên cho thấy ấu trùng châu chấu mới nở
thường sống tập trung. Ban ngày ấu trùng bò lên các cây cỏ sát mặt đất hay
những cành cây họ tre nứa ở tầm thấp để ăn lá non, chiều tối hay buổi trưa nắng
gắt chúng lại di chuyển xuống phía dưới. Những cá thể nở từ các ổ trứng gần
nhau cũng tập hợp lại với nhau, cứ như vậy đàn châu chấu lớn dần và mật độ trở
lên dày đặc, có thể tới hàng trăm con/m2.
12
0,00
10,00
20,00
30,00
40,00
50,00
60,00
6h-8h 8h-10h 10h-12h 12h-14h 14h-16h 16h-18h 18-6h
Thoi gian trong ngay
T
y
l
e
(
%
) Tuoi 1
Tuoi 3
Tuoi 5
Vu hoa
Hình 3.14. Tỷ lệ ấu trùng châu chấu mía H. tonkinensis lột xác
và trưởng thành vũ hóa ở các khoảng thời gian trong ngày
(Chi cục BVTV Hòa Bình, TP Hòa Bình, 2011)
Thời điểm lột xác của châu chấu mía H. tonkinensis khá tập trung, đại đa
số ấu trùng lột xác trong khoảng từ 8-10 giờ sáng, riêng con trưởng thành vũ hóa
với quãng thời gian rộng hơn, gần như chúng chỉ tránh cái nắng gay gắt giữa
trưa, hay khi trời đã tối (hình 3.14).
3.3.2. Thời gian phát triển, vòng đời châu chấu mía H. tonkinensis
Ở điều kiện nhiệt độ 25oC, ẩm độ không khí 80%, thức ăn là lá lúa, vòng đời của
châu chấu mía H. tonkinensis rất dài, trung bình là 351,68 ± 11,32 ngày (bảng 3.11).
Bảng 3.11. Thời gian phát triển của châu chấu mía H. tonkinensis
(Chi cục BVTV Hòa Bình, TP Hòa Bình, 2011-2012)
Giai đoạn phát triển
Thời gian phát triển (ngày)
Dài nhất Ngắn nhất Trung bình
Trứng 257 231 245,25±4,57
Ấu trùng tuổi 1 11,5 7,5 9,38±0,33
Ấu trùng tuổi 2 9,5 8,0 9,01±0,16
Ấu trùng tuổi 3 11,5 8,0 9,06±0,32
Ấu trùng tuổi 4 12,0 7,0 9,07±0,54
Ấu trùng tuổi 5 10,5 6,5 8,00±0,58
Ấu trùng tuổi 6 10,5 7,5 8,43±0,48
Ấu trùng tuổi 7 9,5 7,5 8,18±0,41
Trưởng thành trước đẻ trứng 36 29 32,05±0,57
Vòng đời 370 337,5 351,68±11,32
Thời gian sống của trưởng thành cái 64,5 51 59,56±1,10
Thời gian sống của trưởng thành đực 55,5 41 47,33±1,30
Ghi chú: n=100; t0C = 250C; RH = 80%; thức ăn là lá lúa.
13
Kết quả nuôi sinh học đã xác định tất cả ấu trùng đực của loài châu chấu mía
H. tonkinensis có 6 tuổi và ấu trùng cái có 7 tuổi, chính vì lẽ đó mà trưởng thành đực
thường vũ hóa trước trưởng thành cái từ 7 đến 10 ngày. Điều này là rõ ràng hơn một
số nghiên cứu trước đây (Chen et al. , 1989; Huang and Wu, 1982) đã kết luận ấu
trùng châu chấu mía H. tonkinensis có 6-7 tuổi nhưng không nêu rõ trong trường hợp
nào (đực hay cái) hay môi trường nuôi thế nào thì có 6 hay 7 tuổi. Thời gian các tuổi
ấu trùng tương đối đồng đều, nhưng ở tuổi lớn (tuổi 5 đến tuổi 7) có xu hướng ngắn
hơn các tuổi nhỏ.
Sau giai đoạn vũ hóa, cả trưởng thành đực và cái đều cần thời gian ăn bổ
sung trước khi giao phối, giai đoạn này khối lượng cơ thể tăng rất nhanh. Nếu so
với thời điểm 1 ngày sau vũ hóa thì vào lúc bắt đầu giao phối, khối lượng trưởng
thành đực tăng bình quân 222,5mg và trưởng thành cái tăng bình quân 589mg.
Tuy nhiên sau thời gian đẻ trứng của con cái và kết thúc giao phối của con đực
thì khối lượng cơ thể lại giảm nhanh chóng, so với khi bắt đầu giao phối thì mức
giảm 249,7mg ở con đực và 401 mg ở con cái (bảng 3.12).
Bảng 3.12. Khối lượng cá thể trong các giai đoạn phát triển của châu chấu
trưởng thành (Chi cục BVTV Hòa Bình, TP Hòa Bình, 2011)
Thời điểm theo dõi
Khối lượng con đực (mg) Khối lượng con cái (mg)
Lớn
nhất
Nhỏ
nhất
Trung bình
Lớn
nhất
Nhỏ
nhất
Trung bình
1 ngày sau vũ hóa 450 338 410,83±10,82 947 620 778,97±37,74
Khi bắt đầu giai đoạn
giao phối
675 592 633,30±4,01 1459 1241 1.368,0±7,71
Khi kết thúc giao
phối/đẻ trứng
412 328 383,63±4,17 1026 870 967,07±7,75
Ghi chú: n= 30; t0C = 250C; RH = 80%; thức ăn là lá lúa.
3.3.3 Sinh học sinh sản của châu chấu mía H. tonkinensis
Châu chấu mía H. tonkinensis là loài có tỷ lệ đực/cái ở mức độ tương
đương nhau. Kết quả nuôi sinh học cho thấy số cá thể đực, cá thể cái sống sót
đến khi trưởng thành không có sự khác biệt. Kết quả điều tra ngoài đồng ruộng
cũng cho thấy điều đó là đúng (bảng 3.13).
Bảng 3.13. Biến động tỷ lệ giới tính trong pha trưởng thành châu chấu mía
H. tonkinensis (Trung Hòa, Tân Lạc, Hòa Bình, 2011)
Ngày điều tra
Số cá thể thu thập Tỷ lệ (%)
LSD0,05 Đực Cái Tổng số Đực Cái
18/06/2011 66 5 71 92,96 7,04 9,254817
16/07/2011 163 164 327 49,85 50,15
13/08/2011 73 74 147 49,66 50,34
17/09/2011 40 38 78 51,28 48,72
Tổng số 342 281 623
14
Trong 4 đợt điều tra ở giai đoạn trưởng thành, chỉ có đợt điều tra ngày
18/6/2011 là có tỷ lệ cá thể đực và cá thể cái chênh lệch rõ ràng, các cá thể đực
chiếm số lượng áp đảo trong số mẫu thu thập được. Lý do thời điểm đó trưởng
thành bắt đầu vũ hóa, ấu trùng đực chỉ có 6 tuổi nên vũ hóa trước, trong khi con
cái vẫn hầu hết đang ở ấu trùng tuổi 7 nên số lượng trưởng thành cái chiếm tỷ
thấp. Trong các kỳ điều tra tiếp theo số lượng đực/cái không có sự sai khác.
Điều này chứng tỏ tỷ lệ giới tính đực : cái của châu chấu mía H. tonkinensis ở
mức độ tương đương nhau.
Ở loài châu chấu mía H. tonkinensis, tương đối dễ ghi nhận hiện tượng
ghép đôi vì chúng vũ hóa tập trung và có thời gian ghép đôi khá dài, trung bình
6,75 giờ với lần giao phối đầu tiên của con cái. Thời gian từ khi vũ hóa đến ghép
đôi lần đầu của con cái trung bình 25,96 ngày. Từ khi ghép đôi giao phối tới lúc
đẻ ổ trứng đầu tiên là 6,09 ngày. Những con cái có giao phối và đẻ trứng có từ 1
đến 3 lần giao phối và đẻ từ 1 đến 4 ổ trứng, nhưng số lần giao phối tiếp theo và
số ổ trứng đẻ tiếp theo không có liên quan chặt (bảng 3.14).
Bảng 3.14. Thành thục sinh dục của châu chấu mía H. tonkinensis
(Chi cục BVTV Hòa Bình, TP Hòa Bình, 2011)
Chỉ tiêu
Giá trị
Lớn
nhất
Nhỏ
nhất
Trung bình
Thời gian từ vũ hóa đến giao phối lần đầu (ngày) 30 23,5 25,96±0,50
Thời gian từ giao phối đến đẻ ổ trứng đầu (ngày) 8 5 6,09±0,24
Thời gian từ khi đẻ xong đến chết sinh lý (ngày) 22 14 18,61±0,73
Thời gian giữa các lần đẻ (ngày) 10,5 7,5 8,90±0,28
Thời gian giao phối lần đầu của con cái (giờ) 9,5 3,5 6,75±0,54
Số lần giao phối của con cái (lần) 3 1 1,87±0,23
Số ổ trứng đẻ/con cái (ổ) 4 1 2,20±0,33
Ghi chú: n= 30; t0C = 250C; RH = 80%; thức ăn là lá lúa.
Kết quả thí nghiệm với 5 loại thức ăn khác nhau cho thấy mỗi loại thức ăn có
ảnh hưởng khác nhau đến thời gian thành thục sinh dục của con cái. Thức ăn là lá
mía có thời gian từ vũ hóa đến giao phối lần đầu ngắn nhất, thời gian từ giao
phối đến đẻ ổ trứng đầu tiên cũng ngắn nhất, còn các cá thể được nuôi bằng các
loại thức ăn khác không có sự khác biệt đáng kể. Mỗi loại thức ăn có tỷ lệ con
cái đẻ trứng là khác nhau. Khi nuôi bằng lá lành hanh, tỷ lệ con cái đẻ trứng là
thấp nhất, chỉ đạt 74,72% còn khi nuôi bằng lá lúa, tỷ lệ con cái đẻ trứng là cao
nhất, đạt 90,48%. Đồng thời, sức đẻ trứng cũng khác nhau khi được nuôi bằng
các thức ăn khác nhau. Thức ăn là lá lúa cho số lượng trứng trung bình/ổ và tổng
số trứng đẻ cao nhất, đạt 40,23 quả/ổ và 89,3 quả trứng; còn thức ăn là lá lành
hanh cho số lượng trứng/ổ và tổng số trứng đẻ thấp nhất, đạt 32,30 quả/ổ và 61,7
quả (bảng 3.18). Tuy nhiên tỷ lệ trứng nở ở các nguồn thức ăn khác nhau đều đạt
15
trên dưới 90% và không có sự sai khác có ý nghĩa. Điều này chứng tỏ các nguồn
thức ăn nuôi thế hệ bố mẹ không ảnh hưởng tới tỷ lệ nở của trứng thế hệ kế tiếp.
Bảng 3.18. Sức đẻ trứng của châu chấu mía H. tonkinensis
trên các loại thức ăn (Chi cục BVTV Hòa Bình, TP Hòa Bình, 2011)
Loại thức ăn
Số
ổ trứng/ con cái
Số
quả trứng/ổ
Tổng số
quả trứng/ con cái
Lá lúa 2,22a ±0,30 40,23a ± 4,12 89,30a ± 9,49
Lá mía 1,77c ±0,31 32,77c ± 1,61 64,57 c ± 7,38
Lá ngô 1,97b ±0,30 36,60b ± 1,37 72,10 b ± 6,21
Lá luồng 1,93bc ±0,31 34,53c ± 2,02 66,30 c ± 6,25
Lá lành hanh 1,92bc ±0,31 32,30c ± 1,79 61,70 c ± 6,72
LSD0,05 = 0,21 3,28 9,99
Ghi chú: Giá trị trung bình trong cùng một cột mang chữ cái khác nhau thì sai khác có ý
nghĩa ở mức 0,05; n= 30.
3.3.4. Khả năng tiêu thụ thức ăn của châu chấu mía H. tonkinensis
Theo dõi khả năng tiêu thụ thức ăn của châu chấu mía H. tonkinensis cho
thấy ấu trùng loài này tiêu thụ khối lượng thức ăn tăng dần từ tuổi 1 đến tuổi 7,
trong đó tăng mạnh nhất ở tuổi 6, tuổi 7 (bảng 3.20).
Bảng 3.20. Khối lượng thức ăn tiêu thụ của ấu trùng cái loài châu chấu mía
H. tonkinensis (Chi cục BVTV Hòa Bình, TP Hòa Bình, 2011)
Tuổi ấu
trùng
Khối lượng thức ăn tiêu thụ (mg/con/ngày)
Lớn nhất Nhỏ nhất Trung bình
1 99,67 27,67 60,38± 8,70
2 146,33 42,67 87,58± 13,24
3 187,00 42,00 109,09± 16,97
4 198,00 66,00 131,96± 13,34
5 261,00 73,00 150,37± 21,27
6 634,0 101,00 346,0± 37,46
7 1.370,00 208,00 723,15± 84,81
Ghi chú: n= 30; toC = 25oC; RH = 80%; thức ăn là lá lúa.
Đối chiếu khối lượng thức ăn tiêu thụ trong bảng 3.20 với số liệu tăng
trưởng khối lượng của các tuổi ấu trùng trong bảng 3.8 thấy rằng, ở những tuổi
tiêu thụ nhiều thức ăn nhất cũng là những tuổi có sự tăng trưởng khối lượng cơ
thể lớn nhất (tuổi 6, tuổi 7).
Dựa theo công thức của Ananthakrishnan (1986), hiệu suất chuyển hóa thức
ăn tiêu thụ trong các tuổi ấu trùng được tính toán và trình bày trong bảng 3.22. Giá
trị ECI ở các tuổi ấu trùng 1,2,3 trong nghiên cứu này tương đương với giá trị ECI
thu được khi Amlan et al. (2002) thực hiện nghiên cứu trên loài H. banian. Trong
các tuổi ấu trùng, tuổi 5 là tuổi có hiệu suất chuyển hóa thức ăn tiêu thụ lớn nhất,
đạt 9,62%. Nhìn chung, ở các tuổi ấu trùng lớn (tuổi 5,6,7) thì hiệu suất chuyển hóa
thức ăn tiêu thụ cao hơn nhiều so với ấu trùng tuổi nhỏ (tuổi 1,2,3).
16
Bảng 3.22. Hiệu suất chuyển hóa thức ăn tiêu thụ (ECI) của ấu trùng cái
loài châu chấu mía H. tonkinensis (Chi cục BVTV Hòa Bình, 2011)
Tuổi ấu
trùng
Khối lượng tăng trưởng
(mg)
Khối lượng thức ăn tiêu
thụ (mg)
ECI
(%)
1 7,98 566,36 1,41
2 18,75 855,95 2,19
3 30,07 988,36 3,04
4 57,22 1.196,88 4,78
5 115,72 1.202,96 9,62
6 221,59 2.920,15 7,59
7 313,88 5.915,37 5,31
Trong thời kỳ trưởng thành, châu chấu trải qua nhiều giai đoạn phát dục
khác nhau. Mỗi giai đoạn này có chức năng sinh lý khác nhau, mức độ hoạt
động của châu chấu khác nhau và lượng thức ăn tiêu thụ hàng ngày cũng khác
nhau. Ở giai đoạn trước giao phối là lúc châu chấu hoạt động mạnh nhất, kích
thước, khối lượng cơ thể tăng nhanh, đạt 222,5 mg đối với con đực và 589,03
mg đối với con cái so với thời điểm 1 ngày sau vũ hóa (bảng 3.12). Đây cũng là
lúc lượng thức ăn tiêu thụ hàng ngày của chúng là lớn nhất, trung bình
580,63±24,87 mg/ngày/con đực và 624±87,96 mg/ngày/con cái (bảng 3.23).
Giai đoạn giao phối/đẻ trứng kéo dài bình quân 14,99 ngày và con cái có thể đẻ
1 hay nhiều ổ trứng nhưng khối lượng cơ thể lúc này không tăng thêm mà còn
giảm đi, chứng tỏ năng lượng cho quá trình này không chỉ lấy từ thức ăn hàng
ngày mà còn sử dụng năng lượng dự trữ của cơ thể, thời điểm này, sức ăn của
châu chấu cũng giảm mạnh. Đặc biệt khi kết thúc quá trình giao phối, đẻ trứng,
sức ăn của châu chấu lúc này rất thấp, đạt 217,47±14,29 mg/ngày/con đực và
340,50±19,42 mg/ngày/con cái (bảng 3.23).
Bảng 3.23. Khối lượng thức ăn tiêu thụ của trưởng thành châu chấu mía
H. tonkinensis (Chi cục BVTV Hòa Bình, TP Hòa Bình, 2011)
Giai đoạn phát dục
Khối lượng thức ăn tiêu thụ (mg/con/ngày)
Trưởng thành đực Trưởng thành cái
Lớn
nhất
Nhỏ
nhất
Trung bình
Lớn
nhất
Nhỏ
nhất
Trung bình
Giai đoạn trước giao phối 926 235 580,63±24,87 968 257 624,96±87,96
Giai đoạn giao phối/đẻ trứng 401 247 338,10±16,23 584 326 445,33±21,93
Giai đoạn sau giao phối/đẻ
trứng
263 135 217,47±14,29 432 220 340,50±19,42
Ghi chú: n= 30; t0C = 250C; RH = 80%; thức ăn là lá lúa.
Tương tự như các tuổi ấu trùng, hiệu suất chuyển hóa thức ăn tiêu thụ trong
giai đoạn trước giao phối và giai đoạn giao phối đẻ trứng của trưởng thành châu
17
chấu mía H. tonkinensis cũng có thể tính được, dựa trên sự thay đổi khối lượng cơ
thể và khối lượng thức ăn tiêu thụ của chúng ở các giai đoạn này (bảng 3.24).
Bảng 3.24. Hiệu suất chuyển hóa thức ăn tiêu thụ (ECI) của trưởng thành
cái châu chấu mía H. tonkinensis (Chi cục BVTV Hòa Bình, 2011)
Chỉ tiêu
Giai đoạn phát triển
Trước giao phối, đẻ trứng Giao phối, đẻ trứng
Khối lượng tăng trưởng (mg) 589,03 -400,93
Khối lượng thức ăn tiêu thụ (mg) 16.223,96 6.675,50
ECI (%) 3,63 -6,01
Như vậy, về mặt số lượng thì khối lượng thức ăn tiêu thụ của chấu chấu
mía H. tonkinensis tăng từ tuổi 1 đến giai đoạn giao phối, đẻ trứng, song song
cùng với quá trình tăng khối lượng cá thể, sau đó thì cùng giảm dần tới khi châu
chấu trưởng thành chết sinh lý. Nhưng về mặt chất lượng (hiệu suất chuyển hóa
thức ăn tiêu thụ) thì tăng dần từ tuổi 1, đạt cao điểm vào tuổi 5, sau đó giảm dần;
đặc biệt từ khi châu chấu đã bước vào giai đoạn đẻ trứng trở đi thì giá trị này ở
mức âm, tức là châu chấu phải sử dụng tới năng lượng dự trữ trong cơ thể từ quá
trình tích lũy trước đó. Diễn biến hiệu suất chuyển hóa thức ăn tiêu thụ trong
quá trình sinh trưởng, phát triển của châu chấu cái được trình bày qua hình 3.18.
ECI (%)
Tuổi 3Tuổi 2Tuổi 1 Tuổi 4 Tuổi 5 Tuổi 6 Tuổi 7 Trước GP GP/đẻ trứng-8,00
-6,00
-4,00
-2,00
0,00
2,00
4,00
6,00
8,00
10,00
12,00
Hình 3.17. Diễn biến hiệu suất chuyển hóa thức ăn tiêu thụ (ECI)
trong các giai đoạn phát triển của châu chấu mía H. tonkinensis
Ghi chú: GP - Giao phối.
3.4. Đặc điểm sinh thái học của loài châu chấu mía H. tonkinensis
3.4.1. Đặc điểm phát sinh gây hại của châu chấu mía H. tonkinensis
Sau khi vũ hóa, trong thời gian ăn bổ sung, châu chấu mía H. tonkinensis
hoạt động mạnh, sức gây hại lớn, di chuyển nhanh và thành từng đàn. Đàn châu
chấu lúc này có thể ở trên khu vực trồng cây họ tre trúc (luồng, lành hanh), cũng có
thể gây hại trên khu vực trồng cây nông nghiệp (lúa, mía, ngô) nhưng thời gian
không lâu, khi nguồn thức ăn cạn, chúng di chuyển đi nơi khác. Hướng di chuyển
18
của quần thể thường trùng với hướng gió vì vậy những khu ruộng ven chân đồi, nơi
hứng gió hay bị hại nặng hơn.
Khi thành thục sinh dục, châu chấu bắt đầu ghép đôi, lúc này ít thấy chúng
xuất hiện trên ruộng trồng cây nông nghiệp mà tập trung chủ yếu ở những đồi trồng
luồng, lành hanh. Sự di chuyển của quần thể lúc này chậm lại, chính vì vậy mật độ
trở nên đông đúc, nơi nào bị hại thì chỉ sau vài ngày cây trở lên trơ trụi, hiện tượng
ghép đôi lúc này là rất phổ biến. Những nơi có hiện tượng này chính là những nơi
châu chấu sẽ tập trung đẻ trứng. Có thể dễ dàng tìm thấy xác châu chấu chết và đặc
biệt là lớp phân châu chấu rải kín mặt đất.
Do châu chấ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bvtv_ttla_nguyen_hong_yen_4853_2005295.pdf