Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi
Với góc nhìn trên về nhận thức, cá nhân muốn đạt được những suy nghĩ sâu sắc của
mình khi gắn kết chính lợi ích của mình thông qua các hoạt động cụ thể. Hoặc đặt ra các
quyền lợi và nghĩa vụ cho các chủ thể khác thông qua các hoạt động định đoạt tài sản
của bản thân mình phải trải qua khoảng thời gian nhất định. Điều này cho thấy, khi gắn
kết thời gian với con người, độ tuổi là thuật ngữ phù hợp để mô tả sự việc này. Do đó,10
việc lập di chúc luôn cần phải đảm bảo được yếu tố độ tuổi để khẳng định bước đầu có
sự trưởng thành về nhận thức. Cũng từ đó, việc thực hiện các hành vi trên cơ sở nhận
thức sẽ được đảm bảo được tính đúng đắn, trung thực, khách quan. Thực tế cho thấy, việc
một người đạt độ tuổi trưởng thành chưa hẳn đã là người có đầy đủ khả năng nhận thức và
điều khiển hành vi. Hơn nữa, di chúc là loại giao dịch đặc thù chỉ có hiệu lực khi người lập
di chúc chết. Cho nên, ngoài điều kiện độ tuổi, người lập di chúc phải đảm bảo sự minh
mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, cưỡng ép, đe doạ trong khi lập di chúc. Theo quy định
này, điều kiện đặt ra cho từng đối tượng lập di chúc như sau: Thứ nhất, đối với người thành
niên được quyền lập di chúc nhưng phải thỏa mãn điều kiện minh mẫn, sáng suốt không bị
lừa dối, cưỡng ép và đe dọa. Thứ hai, đối với người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám
tuổi. Sự hình thành bản di chúc của chủ thể này trên thực tế hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí
của cha, mẹ hoặc người giám hộ có đồng ý cho họ lập di chúc hay không. Ở quy định này,
chúng ta có thể hiểu rằng trách nhiệm của người làm cha, mẹ hoặc giám hộ cũng được xác
định gián tiếp trong việc đánh giá khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của con họ hay
người được giám hộ. Thứ ba, đối với người mất năng lực hành vi dân sự không được lập di
chúc, người hạn chế năng lực hành vi dân sự, khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành
vi vẫn được quyền lập di chúc.
Bên cạnh những ưu điểm mang lại cho nhà nước, người lập di chúc, người thừa kế
khác, quy định về người lập di chúc còn tồn tại một số bất cập sau: Một là, chưa ghi
nhận một cách cụ thể năng lực pháp luật của người lập di chúc; Hai là, quy định về sự
đồng ý cho lập di chúc của cha, mẹ hoặc người giám hộ đối với di chúc của người từ đủ
15 đến chưa đủ 18 tuổi chưa thực sự rõ ràng; Ba là, chưa quy định cụ thể về quyền lập
di chúc của người dưới 15 tuổi; Bốn là, cách đặt điều kiện minh mẫn, sáng suốt cho
người lập di chúc chưa thực sự logic và khoa học; Năm là, cách thức sử dụng từ ngữ
thiếu tính thống nhất dẫn tới nhầm lẫn hoặc mâu thuẫn trong hoạt động thực hiện và áp
dụng pháp luật
29 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 581 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định pháp luật dân sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ừ đủ mười
lăm đến chưa đủ mười tám tuổi nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc
lập di chúc. Rõ ràng theo sự ghi nhận này, người lập di chúc và người xác lập giao dịch
nói chung đã được khoanh vùng và xác định theo phạm vi khác nhau. Sự cụ thể hoá quy
định về người lập di chúc theo quy định pháp luật hiện hành được xem xét dựa trên một
số khía cạnh sau:
2.1.1.1. Về độ tuổi
- Người thành niên được xác định là người từ đủ mười tám tuổi trở lên: Pháp luật
Việt Nam từ thời kì phong kiến cũng đã ghi nhận rằng “người làm cha, mẹ phải liệu tuổi
già mà lập sẵn chúc thư” hay Pháp luật thời kì Pháp đô hộ cũng quy định: “Người
nào đã thành niên hoặc đã thoát quyền mà có đủ trí khôn thì đều có tư cách được di
chúc và lập ra di chúc để xử trí về tất cả tài sản của mình”. Cho tới thời kì độc lập, quy
định về độ tuổi của người lập di chúc càng được thể hiện rõ nét trong các văn bản quy
phạm pháp luật nhưng điểm chung của tất cả các văn bản này đều giống nhau ở chỗ ghi
nhận độ tuổi để một cá nhân được quyền lập di chúc là mười tám tuổi. Về vấn đề này,
NCS nhận thấy điểm tương đồng giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật một số quốc gia
trên thế giới trong việc ghi nhận cá nhân được thực hiện quyền lập di chúc trên thực tế
khi đạt độ tuổi nhất định. Đơn cử như Điều 903 BLDS Pháp quy định: “Người chưa thành
niên dưới mười sáu tuổi không có quyền định đoạt”. Hay Điều 961 BLDS Nhật Bản quy
định: “Bất kì người nào tròn mười lăm tuổi đều có thể lập di chúc” Hay Điều 467 BLDS
Thụy Sĩ quy định: “Bất kì người nào có khả năng nhận thức và đủ mười tám tuổi có quyền
lập di chúc định đoạt tài sản của mình phù hợp với giới hạn và hình thức theo quy định
của pháp luật”.
- Ngoài việc ghi nhận cho cá nhân đủ mười tám tuổi trở lên được lập di chúc, BLDS
năm 2015 cũng quy định cho phép người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi
thực hiện quyền lập di chúc nhưng phải có sự đồng ý cho lập di chúc của cha, mẹ hoặc
người giám hộ. Cơ sở để ghi nhận vấn đề này là: (i) Độ tuổi bắt đầu được ghi nhận khả
năng lao động và tạo ra thu nhập; (ii) Sự phát triển về thể chất, nhận thức và khả năng
điều khiển hành vi cơ bản giống như người đã thành niên; (iii) Việc uỷ quyền định đoạt
trong di chúc là không thể vì không có ý nghĩa.
2.1.1.2. Về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi
Với góc nhìn trên về nhận thức, cá nhân muốn đạt được những suy nghĩ sâu sắc của
mình khi gắn kết chính lợi ích của mình thông qua các hoạt động cụ thể. Hoặc đặt ra các
quyền lợi và nghĩa vụ cho các chủ thể khác thông qua các hoạt động định đoạt tài sản
của bản thân mình phải trải qua khoảng thời gian nhất định. Điều này cho thấy, khi gắn
kết thời gian với con người, độ tuổi là thuật ngữ phù hợp để mô tả sự việc này. Do đó,
10
việc lập di chúc luôn cần phải đảm bảo được yếu tố độ tuổi để khẳng định bước đầu có
sự trưởng thành về nhận thức. Cũng từ đó, việc thực hiện các hành vi trên cơ sở nhận
thức sẽ được đảm bảo được tính đúng đắn, trung thực, khách quan. Thực tế cho thấy, việc
một người đạt độ tuổi trưởng thành chưa hẳn đã là người có đầy đủ khả năng nhận thức và
điều khiển hành vi. Hơn nữa, di chúc là loại giao dịch đặc thù chỉ có hiệu lực khi người lập
di chúc chết. Cho nên, ngoài điều kiện độ tuổi, người lập di chúc phải đảm bảo sự minh
mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, cưỡng ép, đe doạ trong khi lập di chúc. Theo quy định
này, điều kiện đặt ra cho từng đối tượng lập di chúc như sau: Thứ nhất, đối với người thành
niên được quyền lập di chúc nhưng phải thỏa mãn điều kiện minh mẫn, sáng suốt không bị
lừa dối, cưỡng ép và đe dọa. Thứ hai, đối với người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám
tuổi. Sự hình thành bản di chúc của chủ thể này trên thực tế hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí
của cha, mẹ hoặc người giám hộ có đồng ý cho họ lập di chúc hay không. Ở quy định này,
chúng ta có thể hiểu rằng trách nhiệm của người làm cha, mẹ hoặc giám hộ cũng được xác
định gián tiếp trong việc đánh giá khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của con họ hay
người được giám hộ. Thứ ba, đối với người mất năng lực hành vi dân sự không được lập di
chúc, người hạn chế năng lực hành vi dân sự, khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành
vi vẫn được quyền lập di chúc.
Bên cạnh những ưu điểm mang lại cho nhà nước, người lập di chúc, người thừa kế
khác, quy định về người lập di chúc còn tồn tại một số bất cập sau: Một là, chưa ghi
nhận một cách cụ thể năng lực pháp luật của người lập di chúc; Hai là, quy định về sự
đồng ý cho lập di chúc của cha, mẹ hoặc người giám hộ đối với di chúc của người từ đủ
15 đến chưa đủ 18 tuổi chưa thực sự rõ ràng; Ba là, chưa quy định cụ thể về quyền lập
di chúc của người dưới 15 tuổi; Bốn là, cách đặt điều kiện minh mẫn, sáng suốt cho
người lập di chúc chưa thực sự logic và khoa học; Năm là, cách thức sử dụng từ ngữ
thiếu tính thống nhất dẫn tới nhầm lẫn hoặc mâu thuẫn trong hoạt động thực hiện và áp
dụng pháp luật.
2.1.2. Quy định của pháp luật về nội dung của di chúc
Nội dung của di chúc được hiểu là tổng hợp các điều khoản thể hiện ý chí của cá nhân
để lại di sản. Do đó, di chúc muốn hợp pháp phải tuân thủ quy định của pháp luật về nội
dung của di chúc. Điều kiện về nội dung của di chúc được cụ thể ở hai vấn đề sau:
2.1.2.1. Điều kiện để nội dung của di chúc được coi là hợp pháp
• Có nội dung không vi phạm điều cấm của luật
Điều kiện nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật cần hiểu theo
hướng các điều khoản tổng hợp ý chí của người lập di chúc không rơi vào các trường
hợp cấm được liệt kê trong các văn bản luật cụ thể.
• Có nội dung không trái đạo đức xã hội
Xét về bản chất, đạo đức xã hội là yếu tố khó định lượng, nó không tồn tại giống quy
định của pháp luật. Trong khoa học pháp lý và khoa học ứng dụng pháp lý chưa cho thấy
11
sự độc lập trong việc xác định nội dung của di chúc trái đạo đức xã hội mà không vi phạm
quy định của pháp luật. Điều này được giải thích rằng, quy định pháp luật của một quốc gia
luôn phản ánh rõ nét kinh tế, chịnh trị, văn hóa, truyền thống... của quốc gia đó. Cho nên,
các quy định của pháp luật Việt Nam hầu hết phản ánh được sự phù hợp về đạo đức xã hội
của người Việt. Do vậy, khi tuyên một bản di chúc có nội dung vi phạm điều cấm của pháp
luật nó cũng sẽ trái đạo đức xã hội.
2.1.2.2. Nội dung cụ thể của di chúc
Theo quy định tại Điều 631 BLDS năm 2015, các điều khoản nội dung của di chúc
có thể kể đến như:
• Các điều khoản chủ yếu của di chúc
Thứ nhất, ngày, tháng, năm lập di chúc; thứ hai, họ, tên của người lập di chúc; thứ ba,
nơi cư trú của người lập di chúc; thứ tư, họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
thứ năm, di sản để lại và nơi có di sản; thứ sáu, phân định di sản thừa kế trong di chúc.
• Điều khoản mở rộng
Khoản 2 Điều 631 BLDS năm 2015 quy định: “Ngoài các nội dung quy định tại khoản
1 Điều này, di chúc có thể có các nội dung khác”. Đây là điều khoản thể hiện rõ việc tự do
lựa chọn các nội dung khác quy định bắt buộc từ pháp luật của người lập di chúc.
• Điều khoản sử dụng từ viết tắt, viết kí hiệu, đánh dấu số trang trong di chúc
• Nội dung của di chúc có đặt điều kiện
Về nội dung di chúc có điều kiện. chúng ta phải đặt ra các yêu cầu sau đây cho
chính điều kiện của di chúc: (i) Điều kiện trước tiên phải không vi phạm điều cấm, trái
đạo đức xã hội; (ii) điều kiện trong di chúc phải rõ ràng không gây nhầm lẫn; (iii) điều
kiện đặt ra trong di chúc phải đảm bảo sự hài hoà giữa lợi ích mang lại và nghĩa vụ gắn
liền với điều kiện áp dụng cho người thừa kế, trừ trường hợp người thừa kế tự nguyện.
Điều quan trọng hơn cả, BLDS năm 2015 cần phải điều chỉnh mục di chúc có điều kiện
để từ đó xây dựng hậu quả pháp lý rõ ràng cho nội dung này.
2.1.3. Quy định của pháp luật về yếu tố tự nguyện trong di chúc
Điểm b khoản 1 Điều 117 BLDS năm 2015 quy định: “chủ thể tham gia giao dịch dân sự
hoàn toàn tự nguyện” và điểm a khoản 1 Điều 630 BLDS năm 2015 quy định: “người lập di
chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép”. Theo
quy định này, yếu tố tự nguyện khi lập di chúc được xem xét bởi hai khía cạnh:
Thứ nhất, di chúc được hình thành trong tình trạng người lập minh mẫn, sáng suốt: Thực
tế, một cá nhân đạt độ tuổi thành niên theo quy định của mỗi quốc gia cũng chưa hẳn đã có
được khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Theo logic này, ngay cả khi vừa đạt độ
tuổi, vừa có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi cũng chưa chắc đảm bảo được việc, cá
nhân đó tham gia vào quá trình lập di chúc có hoàn toàn minh mẫn và sáng suốt hay không.
Chính vì vậy, pháp luật quy định điều kiện người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt để
loại trừ các khả năng trên của cá nhân.
12
Thứ hai, di chúc được lập theo ý chí đích thực của người lập di chúc: Sự thống nhất
giữa ý chí và bày tỏ ý chí là nét đặc thù làm nên yếu tố tự nguyện trong giao dịch. Việc xác
lập di chúc cũng như vậy, ý chí của người lập là mong muốn của chính họ về việc định đoạt
tài sản của mình cho người khác sau khi chết đi. Pháp luật tôn trọng quyền định đoạt đoạt
của người lập di chúc và đảm bảo thực hiện ý nguyện này nếu được bày tỏ ra bên ngoài một
cách đích thực.
Với lý thuyết này, pháp luật quy định một trong các điều kiện để di chúc hợp pháp là:
Người lập di chúc không bị lừa dối – tức việc nhận thức, điều khiển hành vi không bị xâm
phạm bởi hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu
sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã
xác lập giao dịch đó. Hay không bị cưỡng ép, đe doạ - tức việc nhận thức, điều khiển hành
vi không bị xâm phạm bởi hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia
buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh
dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.
2.1.4. Quy định của pháp luật về hình thức di chúc
2.1.4.1. Di chúc miệng
Di chúc miệng được hiểu là sự thể hiện ý chí của cá nhân thông qua lời nói phát tín
hiệu âm thanh. Theo quy định tại Điều 629 BLDS năm 2015, việc một cá nhân muốn di
chúc miệng phải thỏa mãn các điều kiện sau: Một là, tính mạng bị cái chết đe dọa và
không thể lập di chúc bằng văn bản. Hai là, sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng
mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy
bỏ. Ba là, người lập di chúc miệng phải là người từ đủ mười tám tuổi trở lên. Ngoài ra,
khi lập di chúc miệng muốn hợp pháp phải đảm bảo thêm các yêu cầu sau: (i) người di
chúc miệng phải thể hiện ý chí cuối cùng trước mặt ít nhất hai người làm chứng; (ii)
người làm chứng phải ghi chép lại, cùng kí tên hoặc điểm chỉ ngay sau khi người di chúc
miệng thể hiện ý chí cuối cùng; (iii) trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người
di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ
quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.
2.1.4.2. Di chúc văn bản
• Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng: BLDS năm 2015 quy định
đây là loại di chúc mà người lập phải tự tay viết, ký vào bản di chúc và nội dung vẫn
phải đảm bảo đầy đủ quy định tại Điều 631 BLDS này.
• Di chúc bằng văn bản có người làm chứng: BLDS năm 2015 ghi nhận trường
hợp cá nhân muốn ứng dụng phần mềm khoa học kĩ thuật không muốn viết mà đánh
máy hoặc không tự mình viết, đánh máy mà muốn nhờ người khác viết, đánh máy thì
điều kiện đặt ra có phần nghiêm ngặt hơn. Cụ thể: Trường hợp người lập di chúc không
tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc
đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc
13
phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người
làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc. Và
nội dung của bản di chúc vẫn phải đảm bảo quy định tại Điều 631 BLDS năm 2015.
• Di chúc bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực
Việc công chứng hay chứng thực thuộc về quyền tự do lựa chọn của người lập di chúc.
Đây là loại di chúc do công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực thực hiện.
Ngoài các loại di chúc kể trên, BLDS năm 2015 còn quy định loại di chúc có giá trị
như di chúc được công chứng hoặc chứng thực tại Điều 638 như: Di chúc của quân nhân
tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không
thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực. Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy
bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó
Bên cạnh những ưu điểm đã mang lại, quy định về hình thức của di chúc vẫn tồn tại
nhiều hạn chế cần khắc phục, cụ thể:
• Đối với di chúc miệng: Một là, khoảng thời gian sau 03 tháng, kể từ thời điểm di
chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc
nhiên bị hủy bỏ không có căn cứ. Hai là, điều kiện để di chúc miệng được coi là hợp
pháp không thuyết phục. Cụ thể: Điều kiện về người làm chứng, việc ghi chép, điểm chỉ
và công chứng, chứng thực chữ kí không phù hợp với thực tế.
• Đối với di chúc bằng văn bản: Một là, thiếu loại di chúc trong sự liệt kê. Cụ thể:
Thiếu loại di chúc có giá trị như công chứng, chứng thực và di chúc được lập vi bằng
bởi Văn phòng Thừa phát lại. Hai là, di chúc bằng văn bản không có người làm chứng
phải tuân theo quy định tại Điều 631 là quy định cứng nhắc. Ba là, quy định về di chúc
bằng văn bản có người làm chứng chưa thực sự rõ ràng, có thể gây nhầm lẫn trong áp
dụng, thực hiện. Bốn là, còn nhiều điểm chưa phù hợp về thủ tục lập di chúc bởi công
chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực. Năm là, thiếu cơ sở để thuyết phục
việc ghi nhận các loại di chúc có giá trị như công chứng, chứng thực. Sáu là, cứng nhắc
khi quy định việc sử dụng từ viết tắt hoặc kí hiệu trong di chúc.
2.2. Điều kiện để di chúc phát sinh hiệu lực pháp luật
2.2.1. Quy định của pháp luật về người lập di chúc chết
Đây là thời điểm phát sinh quan hệ thừa kế nói chung và hiệu lực của di chúc nói riêng.
2.2.1.1. Đối với di chúc do một người lập
Di chúc do một người lập được hiểu là giao dịch hoàn toàn được xác lập dựa trên
ý chí đơn phương của một cá nhân nhằm định đoạt tài sản của riêng mình cho người
khác sau khi chết. Theo quy định khoản 1 Điều 611 và khoản 2 Điều 71 BLDS năm
2015, thời điểm di chúc phát sinh hiệu lực pháp luật đối với di chúc do một cá nhân lập
được xác định thông qua một trong hai trường hợp: Thứ nhất, thời điểm người có tài sản
chết – cái chết tự nhiên; Thứ hai, thời điểm Toà án tuyên bố một người đã chết.
2.2.1.2. Đối với di chúc chung
14
Di chúc chung được hiểu là di chúc do hai người trở lên cùng nhau thể hiện ý
chí chung, thống nhất với nhau định đoạt tài sản của mình cho người khác sau khi chết.
BLDS năm 2015 bỏ nội dung di chúc chung của vợ chồng. Tuy nhiên, điều này không đồng
nghĩa với việc cấm di chúc chung. Nếu thực tế có việc lập di chúc chung, hiệu lực của loại
di chúc này được xác định theo 02 trường hợp như sau: (i) Trong số những người lập di
chúc chung, có người chết trước và người chết sau thì phần nội dung di chúc định đoạt
tài sản của người chết sẽ có hiệu lực pháp luật tại thời điểm họ chết; (ii) Khi tất cả những
người lập di chúc cùng chết, toàn bộ di chúc sẽ có hiệu lực pháp luật.
2.2.2. Quy định của pháp luật về người được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc
còn sống, còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế
Đây là một trong các điều kiện ảnh hưởng tới việc ghi nhận hiệu lực của bản di chúc.
Người thừa kế được hiểu là chủ thể của quan hệ pháp luật về thừa kế, họ là người được chỉ
định hưởng thừa kế trong di chúc hoặc thuộc các hàng thừa kế theo pháp luật của người
chết. Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm dịch chuyển tài sản của mình cho người
khác sau khi chết. Cho nên, phạm vi người thừa kế theo di chúc được xác định có thể là chủ
thể cá nhân hoặc không phải cá nhân. Theo đó, điều kiện cụ thể là: Đối với cá nhân được
chỉ định hưởng di sản trong di chúc: Phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế; không được
từ chối nhận di sản; không bị tước quyền hưởng di sản; Đối với cơ quan, tổ chức được chỉ
định hưởng di sản trong di chúc: Phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Bên cạnh những điểm đã đạt được, quy định này vẫn còn tồn tại một số bất cập: Một là,
chưa quy định một cách rõ ràng về điều kiện cá nhân phải sinh ra và còn sống sau thời điểm
mở thừa kế. Hai là, thiếu thống nhất trong việc ghi nhận chủ thể hưởng thừa kế không phải
là cá nhân (khi thì sử dụng là cơ quan, tổ chức khi lại sử dụng chủ thể không phải cá nhân).
Ba là, chưa có quy định pháp luật rõ ràng để giải quyết hậu quả pháp lý đối với trường hợp
tổ chức lại, giải thể, phá sản, cải tổ pháp nhân. Bốn là, thiếu quy định về quyền từ chối và
việc tước bỏ quyền thừa kế đối với chủ thể không phải là cá nhân.
2.2.3. Quy định của pháp luật về di sản thừa kế được định đoạt trong di chúc còn
tồn tại vào thời điểm mở thừa kế
Đối với phần di sản được định đoạt trong di chúc, khoản 3 Điều 643 BLDS năm 2015
đã quy định rất rõ ràng về giá trị hiệu lực của di chúc như sau: “Di chúc không có hiệu lực,
nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại
cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu
lực”. Theo quy định này, điều kiện đặt ra đối với di sản được định đoạt trong di chúc phải
còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế mới góp phần tạo ra hiệu lực pháp luật của di chúc.
Cụm từ “không còn” được hiểu là không có sự xuất hiện, không hiện hữu. Tức là, tài sản
có thể rơi vào tình trạng như: Tiêu dùng hết, tiêu hủy, hủy hoại, đã được chuyển cho người
khác hoặc chuyển đổi thành loại tài sản khác Nếu tài sản ở thời điểm lập di chúc còn
nhưng đến thời điểm người lập di chúc chết, tài sản rơi vào một trong các tình trạng nói
15
trên, hiệu lực của di chúc hoặc phần di chúc có liên quan sẽ bị mất hiệu lực. Do đó, để di
chúc đảm bảo phát sinh hiệu lực pháp luật, một trong các điều kiện phải được xem xét đó
là di sản phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Cơ sở để xác định di sản thừa kế là: (i)
phải là tài sản; (ii) phải thuộc sở hữu của cá nhân đó tính tới thời điểm người này chết.
Xoay quanh yêu cầu về sự tồn tại của pháp luật đối với di sản thừa kế được định đoạt
trong di chúc, NCS còn nhận thấy chưa có quy định của pháp luật về sự thay đổi trạng thái
của các loại di sản đã được định đoạt trong di chúc. Điều này có thể dẫn tới những thiếu
sót, lúng túng khi áp dụng trong hoạt động thực tiễn cần phải hoàn thiện bổ sung.
2.3. Điều kiện để di chúc được thi hành
2.3.1. Quy định của pháp luật về điều kiện liên quan tới người thừa kế được chỉ
định hưởng trong di chúc
Điểm c Khoản 2 Điều 650 BLDS năm 2015 quy định các trường hợp chia thừa kế theo
pháp luật xác định: “Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng
họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời
điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di
chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”. Theo quy định này, để di
chúc được thực thi, điều kiện về người thừa kế phải thoả mãn:
2.3.1.1. Người thừa kế được chỉ định trong di chúc phải còn sống, còn tồn tại vào thời
điểm mở thừa kế
Điều kiện về người thừa kế vừa thuộc nhóm điều kiện để di chúc phát sinh hiệu lực
vừa thuộc nhóm điều kiện để di chúc được thi hành. Như trên đã phân tích, để di phát sinh
hiệu lực pháp luật, người thừa kế được chỉ định trong di chúc buộc phải còn sống, còn tồn
tại vào thời điểm mở thừa kế. Đây cũng là điều kiện để di chúc được thi hành vì điểm c
khoản 1 Điều 650 BLDS năm 2015 liệt kê trường hợp chia thừa kế theo pháp luật như
sau: “Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người
lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời
điểm mở thừa kế”.
2.3.1.2. Người thừa kế không được từ chối quyền hưởng di sản thừa kế
Tại điểm d, khoản 1 Điều 650 BLDS năm 2015 quy định một trong các trường hợp
chia thừa kế theo luật được áp dụng khi: “Những người được chỉ định làm người thừa kế
theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”. Theo đó, người
thừa kế trong di chúc được chỉ định hưởng nhưng sau đó lại từ chối quyền hưởng di sản thì
phần di sản này sẽ phân chia theo pháp luật. Việc nhận hay từ chối nhận di sản là quyền của
người thừa kế. Nên khi người thừa kế được chỉ định hưởng trong di chúc nhưng họ từ chối
quyền hưởng di sản. Nội dung di chúc đó sẽ không phát sinh hiệu lực pháp luật.
2.3.1.3. Người thừa kế không bị tước quyền hưởng di sản thừa kế
Đây là những trường hợp, người thừa kế thuộc diện thừa kế nhưng rơi vào các trường
hợp quy định tại khoản 1 Điều 621 BLDS năm 2015 bị pháp luật tước quyền thừa kế. Như
16
điểm d, khoản 1 Điều 650 BLDS năm 2015 nêu trên đã quy định, người được chỉ định
hưởng thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng, phần nội dung di chúc này sẽ
không có hiệu lực pháp luật.
2.3.2. Quy định của pháp luật về điều kiện liên quan tới di sản được định đoạt
trong di chúc
Quy định của pháp luật đã thể hiện rõ, để di phát sinh hiệu lực pháp luật, di sản được
định đoạt trong di chúc phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Cụ thể khoản 3 Điều 643
BLDS năm 2015 quy định: “Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế
không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần
thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực”. Đồng thời, điểm b Khoản 2 Điều
650 BLDS năm 2015 quy định: “Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có
hiệu lực pháp luật” sẽ được chia theo pháp luật. Theo đó khẳng định, di chúc hợp pháp,
người lập di chúc đã chết cũng chưa thể đảm bảo giá trị thực thi nếu di sản được định
đoạt trong di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
2.3.3. Quy định của pháp luật về bản di chúc
Như đã đề cập, điều kiện có hiệu lực của di chúc là yêu cầu của pháp luật mà một di chúc
muốn hợp pháp cần phải đáp ứng, đồng thời là những yêu cầu thực tế mà chỉ khi đáp ứng
được yêu cầu thực tế đó, di chúc mới có thể thi hành. Do đó, khi đề cập tới điều kiện có
hiệu lực của di chúc người ta không chỉ đề cập tới yêu cầu để di chúc hợp pháp, yêu cầu để
di chúc phát sinh hiệu lực thi hành mà còn phải đề cập cả tới các yêu cầu đối với bản di
chúc để đảm bảo tính thực thi trên thực tế. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp có di chúc,
di chúc đảm bảo được các điều kiện để hợp pháp, để phát sinh hiệu lực nhưng không thể
xác định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ thừa kế đó. Lý do có thể xuất phát
từ nguyên nhân khác nhau, cụ thể:
2.3.3.1. Di chúc không bị thất lạc, không bị hư hại
Thất lạc được hiểu là không tìm thấy, không xác định được đang ở đâu tại một thời
điểm nhất định. Còn hư hại được hiểu là hỏng, bị hư tổn, thiệt hại không còn nguyên giá
trị ban đầu. Khoản 1 Điều 642 BLDS năm 2015 quy định: “Kể từ thời điểm mở thừa kế,
nếu bản di chúc bị thất lạc hoặc bị hư hại đến mức không thể hiện được đầy đủ ý chí
của người lập di chúc và cũng không có bằng chứng nào chứng minh được ý nguyện
đích thực của người lập di chúc thì coi như không có di chúc và áp dụng các quy định
về thừa kế theo pháp luật. Theo quy định này, bản di chúc có thể được lập hợp pháp,
thoả mãn điều kiện để phát sinh hiệu lực pháp luật nhưng không tìm thấy vào thời điểm
mở thừa kế, bị hư hỏng, thiệt hại đến mức không thể xác định được nội dung, ý nguyện
đích thực của người lập di chúc thì coi như không có bản di chúc. Tức là, nội dung của
di chúc sẽ không thể thực hiện được.
Vì hiệu lực thi hành của bản di chúc bị ảnh hưởng khi di chúc bị thất lạc, hư hại cho
nên, khi nghiên cứu quy định của pháp luật về vấn đề này, NCS nhận thấy vấn đề quản
17
lý, gửi giữ di chúc là rất quan trọng. Thực tế cho thấy, người giữ, quản lý di chúc thực sự
có vai trò rất quan trọng, trong nhiều trường hợp tinh thần, thái độ của họ ảnh hưởng trực
tiếp tới quyền và lợi ích của những người thừa kế. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam gần như
không xem xét tới hậu quả pháp lý của vấn đề gửi giữ di chúc. Đây là một bất cập cần phải
xem xét, bổ sung, hoàn thiện.
2.3.3.2. Di chúc có nội dung rõ ràng
Liên quan tới vấn đề này, BLDS qua các thời kì ở Việt Nam đều ghi nhận nguyên
tắc về việc giải thích nội dung của giao dịch nói chung và di chúc nói riêng. Việc làm
này được thực hiện khi: Trường hợp nội dung di chúc không rõ ràng dẫn đến nhiều cách
hiểu khác nhau thì những người thừa kế theo di chúc phải cùng nhau giải thích nội dung
di chúc dựa trên ý nguyện đích thực trước đây của người chết, có xem xét đến
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_dieu_kien_co_hieu_luc_cua_di_chuc_theo_quy_d.pdf