Các sinh hoạt Hát Trống quân mang mục đích tín ngưỡng
Hát Trống quân tín ngưỡng hiện hữu tập trung ở làng Đức Bác
(Vĩnh Phúc) và làng Hữu Bổ (Phú Thọ). Các sinh hoạt Hát Trống quân
tín ngưỡng có những đặc trưng riêng trong diễn xướng và nội dung.
2.1.2.1. Thời điểm, không gian và địa điểm diễn xướng
Hát Trống quân tín ngưỡng chỉ được diễn ra vào những thời điểm
cụ thể cố định, trong một không gian, địa điểm nhất định. Sinh hoạt
Hát Trống quân ở Đức Bác gắn liền với Lễ Khai xuân cầu đinh của
làng, tổ chức vào chiều mồng 1 tháng 2 âm lịch, trong một không gian
động là đường đi trải dài từ bến đò lên đến sân đền Thượng. Hát Trống
quân Hữu Bổ chỉ tổ chức vào hai kỳ lễ hội tại sân đền thờ Thành hoàng
làng. Đó là: tiệc “cầu Vật” mở từ ngày 12 đến hết ngày 14 tháng Giêng
và tiệc “cầu mát” vào ngày 12-13 tháng 8.11
2.1.2.2. Hình thức, đối tượng tham gia và phương thức diễn xướng
a) Hình thức và đối tượng tham gia diễn xướng: Trong lối Hát
Trống quân ở Hữu Bổ, người hát không đứng/ngồi hai bên chiếc trống đất
mà đứng quây xung quanh một chiếc trống da do 3-4 nữ bưng. Đối tượng
tham gia cuộc Hát Trống quân đa phần là những người đứng tuổi được chọn
lựa có khả năng hát hay, có tài ứng đối.
Cuộc Hát Trống quân Đức Bác luôn được diễn ra cố định giữa trai
làng Đức Bác và đào Xoan thuộc phường Xoan Kim Đức. Họ chia thành
nhiều tốp, gọi là “dây”, mỗi dây gồm một hoặc nhiều đôi nam nữ. Một cô
đào đeo một chiếc trống nhỏ vào cổ hoặc bưng trống và bên nam sẽ gõ vào
trống để đệm giữ nhịp.
b) Phương thức diễn xướng: Hát Trống quân tín ngưỡng diễn xướng
bằng cách hát đồng thanh cả nhóm nam/nữ cả bài hoặc chỉ đồng thanh hát
câu kết sau phần ứng đối của một người hát chính, gần với lối hát dẫn-đồng
ca. Hát Trống quân tín ngưỡng còn chịu sự chi phối của nhiều quy định chặt
chẽ, ẩn chứa trong các nghi tục liên quan như những quy định về người hát,
trang phục, nhạc cụ.
27 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 436 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Hát trống quân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m hiểu, tập trung nhiều ý kiến đưa
ra dựa trên các cứ liệu khác nhau với cách lập luận khác nhau, nhưng lại
chưa có một sự thống nhất hay ít nhất là tương đồng về nội dung.
b) Một số vấn đề còn bỏ ngỏ
- Hiện tại Hát Trống quân mới chỉ được nghiên cứu riêng biệt ở một
số địa phương cụ thể ở Bắc bộ. Do đó, chưa có sự giới thiệu diện mạo
tổng hợp của thể loại Hát Trống quân với đầy đủ các khía cạnh liên quan.
- Chưa thấy có những so sánh về sự khác biệt mang tính địa phương
của Hát Trống quân trong các tài liệu của các tác giả đi trước.
- Chưa có những đúc kết về đặc trưng chung và mô hình cấu trúc cơ
bản của các làn điệu Hát Trống quân nói chung cũng như của những làn
điệu Hát Trống quân ở tất cả các vùng/tiểu vùng, địa phương khác nhau
- Còn thiếu những nghiên cứu về những bài bản được gọi là Trống
quân nằm trong các thể loại âm nhạc khác.
Đó là chưa kể tới nhiều khía cạnh liên quan đến loại nhạc cụ đi
kèm với Hát Trống quân, nơi phát xuất của Hát Trống quân cũng như
mối quan hệ giữa Hát Trống quân ở các vùng/tiểu vùngv.v
1.2. Một số vấn đề liên quan đến luận án
1.2.1. Về những vấn đề sẽ được giải quyết trong luận án
1.2.1.1. Đối với những vấn đề chưa được thống nhất
Trong luận án này chúng tôi sẽ không bàn tới hai vấn đề chưa
được thống nhất.
1.2.1.2. Đối với những vấn đề các tác giả đi trước còn bỏ ngỏ
Chúng tôi chỉ xin tập trung tìm hiểu 3 vấn đề - trong đó trọng tâm là
các khía cạnh liên quan đến âm nhạc học. Cụ thể là:
- Diện mạo tổng hợp của các loại hình sinh hoạt Hát Trống quân - bao
gồm cả diện mạo âm nhạc khái quát của thể loại Hát Trống quân nói chung.
- Sự khác biệt mang tính địa phương của các làn điệu Hát Trống quân.
- Các đặc trưng và các mô hình cấu trúc của làn điệu Hát Trống
quân mang tính phổ biến ở mỗi vùng/tiểu vùng hoặc địa phương.
8
1.2.2. Về nguồn tư liệu được sử dụng
Nguồn tư liệu về Hát Trống quân được sử dụng để nghiên cứu,
phân tích trong luận án sẽ bao gồm các tư liệu điền dã sưu tầm tại địa
phương và những bài bản Hát Trống quân được in trong các sách.
1.2.3. Về cơ sở lý thuyết và các thuật ngữ được sử dụng
1.2.3.1. Cơ sở lý thuyết
Cơ sở lý thuyết thứ nhất được ứng dụng là những lý thuyết về âm
nhạc phương Tây và Việt Nam, những lý thuyết về văn hóa nói chung
cũng như các thành tố văn hóa của Việt Nam, những kiến thức chuyên
ngành cơ sở về âm nhạc và các kỹ năng thao tác phân tích âm nhạc. Cơ
sở lý thuyết thứ hai là những đúc kết về đặc điểm văn hóa, âm nhạc
phương Đông nói chung và văn hóa, âm nhạc truyền thống Việt Nam nói
riêng của các nhà nghiên cứu đi trước.
1.2.3.2. Các thuật ngữ
Ở đây chúng tôi xin trình bày những khái niệm cụ thể của một số
thuật ngữ được sử dụng nhiều trong luận án, như: Sinh hoạt Trống quân,
Hát Trống quân, Thang âm, Nhóm cao độ tạo nên đường nét cơ bản
của giai điệu, Làn điệu, Bài bản/bài, Một số thuật ngữ liên quan tới
cấu trúc âm nhạc
9
CHƯƠNG 2
DIỆN MẠO CỦA HÁT TRỐNG QUÂN
Nội dung bao trùm toàn bộ chương này sẽ là diện mạo của Hát Trống
quân nhìn từ hai góc độ: mục đích diễn xướng và âm nhạc.
2.1. Diện mạo của các sinh hoạt Hát Trống quân xét từ góc độ mục
đích diễn xướng
Từ góc độ mục đích diễn xướng, có thể phân các sinh hoạt Hát Trống
quân thành hai loại: Các sinh hoạt Hát Trống quân mang mục đích giao
duyên, vui chơi giải trí, thi tài và Các sinh hoạt Hát Trống quân mang
mục đích tín ngưỡng.
2.1.1. Các sinh hoạt Hát Trống quân mang mục đích giao duyên,
vui chơi giải trí, thi tài
Các sinh hoạt Hát Trống quân giao duyên, vui chơi giải trí, thi tài có
nhiều điểm căn bản thống nhất trong diễn xướng.
2.1.1.1. Thời điểm, không gian và địa điểm diễn xướng
a) Thời điểm diễn xướng: Thời điểm diễn xướng của các sinh hoạt Hát
Trống quân này chủ yếu diễn ra vào các buổi tối mùa thu, trong đó tập trung
vào tháng 7 và tháng 8 và đôi khi vào các dịp hội làng, hội đình, hội chùa.
b) Không gian và địa điểm diễn xướng: Người ta thường Hát
Trống quân ở sân đình, sân điếm, sân nhà, sân đền, bãi đất, gò đất, bãi
chợ, bờ đê, bãi ven sông
2.1.1.2. Hình thức, phương thức, đối tượng tham gia diễn xướng
a) Hình thức diễn xướng: Hình thức diễn xướng phổ biến của loại
sinh hoạt Hát Trống quân này là chia thành hai bên nam nữ ngồi hát đối
đáp với nhau ở hai bên chiếc trống đất hoặc trống da. Ở một vài địa
phương, người ta sử dụng thêm cả chiếc mõ tre hoặc dùng sênh phách
thay thế trống, thậm chí nhiều khi bỏ trống đệm mà chỉ hát đối đáp “chay”
với nhau và tạo tiết tấu bằng cách “đập”, “gõ” luôn những vật dụng xung
quanh như bàn ghế, chõng tre... Riêng Hát Trống quân ở làng Hiền Quan
lập thành một đội hát gồm 5 nữ: một người “cái” và bốn người “con”.
Người “cái” đứng ở giữa hoặc đứng ở một bên hát chính; bốn người “con”
đứng chia thành hai hàng vừa hát đế theo vừa múa.
b) Phương thức diễn xướng: Phương thức diễn xướng chủ yếu là một
nam và một nữ đối đáp với nhau. Riêng Hát Trống quân ở làng Hiền Quan
10
(Phú Thọ), diễn xướng theo kiểu hát dẫn-đồng ca, trong đó vai trò hát dẫn
thuộc về người “cái”, và những người “con” đảm nhiệm phần đồng ca.
c) Đối tượng tham gia diễn xướng: Tham gia các sinh hoạt Hát
Trống quân có 2 thành phần: người hát trực tiếp là nam nữ trong cùng
một làng hoặc khác làng và người xui là người không hát mà tìm ra các
câu đối đáp giúp người hát.
2.1.1.3. Trình tự và lề lối diễn xướng
Trình tự diễn xướng và hệ thống bài bản của loại sinh hoạt Hát Trống
quân này tương đối thống nhất, đa phần được chia thành 3 chặng hay 3
phần chính: Chặng 1- gồm những bài/câu hát mở đầu, chào hỏi, chúc
tụng, giao hẹn...; Chặng 2-mang tính chất thi thố với các bài hát đố, hát
họa; Chặng 3- hát chia tay ra về (hát giở giọng), thường chuyển hát các
làn điệu/bài bản dân ca khác.
Riêng hệ thống bài bản của Hát Trống quân ở làng Hiền Quan, theo
kể lại có tên gọi hoàn toàn khác như Sênh tiền, Múa quạt, Nhà tơ...
2.1.1.4. Nội dung diễn xướng
Phần nội dung lời ca vô cùng phong phú, thường gắn liền với lề lối và
trình tự diễn xướng. Mảng nội dung chiếm ưu thế là chủ đề tình yêu với các
bài hát vận, hát họa, hát đố. Ngoài ra, còn phải kể đến một mảng nội dung dù
không phổ biến nhưng lại rất đặc biệt, chỉ có trong Hát Trống quân giao
duyên, vui chơi giải trí, thi tài. Đó là các bài hát trắc, hát truyện được lấy từ
vốn văn học viết cổ phản ánh giáo lý, thế giới quan của xã hội Nho giáo.
2.1.2. Các sinh hoạt Hát Trống quân mang mục đích tín ngưỡng
Hát Trống quân tín ngưỡng hiện hữu tập trung ở làng Đức Bác
(Vĩnh Phúc) và làng Hữu Bổ (Phú Thọ). Các sinh hoạt Hát Trống quân
tín ngưỡng có những đặc trưng riêng trong diễn xướng và nội dung.
2.1.2.1. Thời điểm, không gian và địa điểm diễn xướng
Hát Trống quân tín ngưỡng chỉ được diễn ra vào những thời điểm
cụ thể cố định, trong một không gian, địa điểm nhất định. Sinh hoạt
Hát Trống quân ở Đức Bác gắn liền với Lễ Khai xuân cầu đinh của
làng, tổ chức vào chiều mồng 1 tháng 2 âm lịch, trong một không gian
động là đường đi trải dài từ bến đò lên đến sân đền Thượng. Hát Trống
quân Hữu Bổ chỉ tổ chức vào hai kỳ lễ hội tại sân đền thờ Thành hoàng
làng. Đó là: tiệc “cầu Vật” mở từ ngày 12 đến hết ngày 14 tháng Giêng
và tiệc “cầu mát” vào ngày 12-13 tháng 8.
11
2.1.2.2. Hình thức, đối tượng tham gia và phương thức diễn xướng
a) Hình thức và đối tượng tham gia diễn xướng: Trong lối Hát
Trống quân ở Hữu Bổ, người hát không đứng/ngồi hai bên chiếc trống đất
mà đứng quây xung quanh một chiếc trống da do 3-4 nữ bưng. Đối tượng
tham gia cuộc Hát Trống quân đa phần là những người đứng tuổi được chọn
lựa có khả năng hát hay, có tài ứng đối.
Cuộc Hát Trống quân Đức Bác luôn được diễn ra cố định giữa trai
làng Đức Bác và đào Xoan thuộc phường Xoan Kim Đức. Họ chia thành
nhiều tốp, gọi là “dây”, mỗi dây gồm một hoặc nhiều đôi nam nữ. Một cô
đào đeo một chiếc trống nhỏ vào cổ hoặc bưng trống và bên nam sẽ gõ vào
trống để đệm giữ nhịp.
b) Phương thức diễn xướng: Hát Trống quân tín ngưỡng diễn xướng
bằng cách hát đồng thanh cả nhóm nam/nữ cả bài hoặc chỉ đồng thanh hát
câu kết sau phần ứng đối của một người hát chính, gần với lối hát dẫn-đồng
ca. Hát Trống quân tín ngưỡng còn chịu sự chi phối của nhiều quy định chặt
chẽ, ẩn chứa trong các nghi tục liên quan như những quy định về người hát,
trang phục, nhạc cụ.
2.1.2.3. Trình tự và lề lối diễn xướng
Một cuộc Hát Trống quân tín ngưỡng cũng được chia thành các
chặng. Đối với Trống quân Đức Bác, có thể tạm chia thành ba chặng:
Chặng 1 - Hát đón, gồm hát đón đào, hát mời đeo trống và hát luật cấm;
Chặng 2- Hát vận (Rước đào trên đường), có nội dung bài bản phong phú
với chủ đề giao duyên; Chặng 3- Hát kết, gồm những câu hát kết trong
đó có nhắc tới những nơi mà “dây” Trống quân đã đi qua.
Còn trong Hát Trống quân ở Hữu Bổ, theo kể lại, trước kia một cuộc
hát bao giờ cũng phải trải qua một trình tự quy định: đầu tiên là các bài hát
thờ, sau mới đến các bài hát vui, hát chia tay.
2.1.2.4. Nội dung diễn xướng
Hát Trống quân tín ngưỡng có một nội dung đặc biệt, là các câu hát
thể hiện mục đích thờ Thánh. Ngoài ra, nội dung bao trùm của Hát Trống
quân tín ngưỡng vẫn là chủ đề tình yêu đôi lứa, ca ngợi cảnh đẹp quê
hương đất nước, mặc dù không mang mục đích giao duyên.
12
2.2. Diện mạo của Hát Trống quân xét từ góc độ âm nhạc
Ở đây, diện mạo âm nhạc của làn điệu Trống quân sẽ được phác họa
thông qua từng thành tố âm nhạc riêng biệt và mối quan hệ qua lại chặt
chẽ giữa chúng với lời ca.
2.2.1. Thang âm và âm vực
Các bài Hát Trống quân có số lượng âm khá phong phú, đa dạng, từ 3
- 12 âm, trải trong khoảng âm vực từ quãng 5 đến quãng 11. Một điểm đáng
chú ý là các bài Hát Trống quân mặc dù có thể có cùng số lượng âm, nhưng
giai điệu lại được xây dựng trên các thang âm có âm vực và cách sắp xếp
cao độ khác nhau. Số liệu thống kê cho thấy: chiếm tỷ lệ nhiều nhất là các
bài Hát Trống quân có thang 7 âm (~ 32,5%); đứng thứ hai với tỷ lệ thấp
hơn là các bài có thang 4 âm (~ %18,5) và 6 âm (~ 16,5%); chiếm tỷ lệ ít
nhất (dưới 10%) là các bài xây dựng trên thang 5 âm (~ 9,5%), 8 âm (~
9,5%), 3 âm (~ 7%), 9 âm (~ 4,5%) và 12 âm (~ 2%).
2.2.2. Giai điệu
Hai nội dung được đề cập trong tiểu mục này là tiến hành quãng và tiết tấu.
2.2.2.1. Tiến hành quãng
Về khía cạnh này, chúng tôi có ba nhận xét như sau:
a) Nhìn chung, giai điệu của các bài Hát Trống quân là sự kết hợp
giữa các bước lần quãng 2 Trưởng, 3 thứ, 3 Trưởng và ít gặp hơn là quãng
2 thứ; với các bước nhảy quãng 4 Đúng, 5 Đúng, 7 thứ - ít hơn là quãng
6 Trưởng, 8 Đúng.
b) Xét về tần suất xuất hiện các loại quãng trong giai điệu, có thể chia
các bài Hát Trống quân được phân tích trong luận án này thành hai nhóm:
- Nhóm 1 (chiếm 56,5% tổng số bài Trống quân): gồm các bài Hát
Trống quân có giai điệu tiến hành bình ổn - chủ yếu là những bước đi quãng
2, quãng 3 theo hình làn sóng (45%-79% tổng số bước tiến hành), có đan xen
một số bước nhảy (chủ yếu là các quãng 4, quãng 5, quãng 7).
- Nhóm 2 (chiếm 43,5% tổng số bài Hát Trống quân): gồm các bài Hát
Trống quân có giai điệu tiến hành ít bình ổn hơn với nhiều bước đi quãng 4,
quãng 5 (chiếm từ 1/3 đến 1/2 tổng số bước tiến hành).
c) Liên quan tới bước nhảy trong giai điệu, chúng tôi thấy có hai dạng:
- Kết hợp một bước nhảy với những bước đi bình ổn cùng chiều
hoặc ngược chiều trước và sau nó.
- Kết hợp những bước nhảy liên tiếp theo kiểu gấp khúc hoặc cùng
chiều với các bước đi bình ổn trước và sau chúng.
13
2.2.2.2. Tiết tấu
Về mặt tiết tấu, có hai điểm đáng chú ý:
a) Ở 6/45 bài (~13%), mô hình tiết tấu đồng độ chiếm một tỉ lệ lớn.
b) Ở 23/45 bài (~ 51%) có sử dụng tiết tấu đảo phách hoặc nghịch phách
với nhiều kiểu dạng như: đảo phách/nghịch phách chỉ trong phần giai điệu âm
nhạc, hay chỉ trong tiết luật của ca từ, hoặc cả trong giai điệu âm nhạc và ca từ.
2.2.3. Cấu trúc - hình thức
Ở tiểu mục này, chúng tôi chỉ tập trung giới thiệu các dạng cấu trúc -
hình thức ở quy mô trung bình và vĩ mô của các làn điệu Hát Trống quân.
2.2.3.1. Cấu trúc âm nhạc của Hát Trống quân ở quy mô trung bình
Cấu trúc ở quy mô trung bình (cấu trúc cơ sở) của tất cả các bài Hát
Trống quân là những trổ hát nối tiếp nhau, trong đó mỗi trổ đều có cấu trúc
tương ứng với hình thức một đoạn đơn với ba loại cấu trúc cơ bản:
a) Một đoạn đơn gồm hai câu nhạc không cân phương: Có 2 dạng:
a-1) Dạng 1- câu nhạc thứ nhất ngắn hơn câu nhạc thứ 2
a-2) Dạng 2- câu nhạc thứ nhất dài hơn câu nhạc thứ 2
b) Một đoạn đơn gồm hai câu nhạc cân phương
c) Một đoạn đơn gồm 3 câu nhạc không cân phương
2.2.3.2. Cấu trúc âm nhạc của Hát Trống quân ở quy mô tổng thể
Ở quy mô này, âm nhạc Hát Trống quân có 2 loại cấu trúc tương
ứng với hai loại hình thức âm nhạc sau:
a) Hình thức một đoạn đơn nhắc lại mang tính biến tấu:
Sự nhắc lại các đoạn nhạc đơn trong một bài Hát Trống quân chỉ có
những khác biệt về chi tiết trong đường nét giai điệu nên loại hình thức
này của Hát Trống quân mới chỉ dừng lại ở mức độ mang tính biến tấu.
b) Hình thức một đoạn đơn vừa mang tính biến tấu, vừa mang tính rondo:
Hình thức âm nhạc này không phổ biến. Với sự xuất hiện một nét nhạc
gần như cố định được lặp lại theo chu kỳ ở cuối mỗi trổ hát, nó tạo nên một
dạng cấu trúc tổng thể gồm hai bộ phận đan xen nhau: bộ phận âm nhạc có
sự biến hóa (x) và bộ phận âm nhạc gần như không thay đổi (y). Ngoài tính
biến tấu được thấy ở các đoạn x, sự lặp lại quay vòng của các đoạn y trong
hình thức này gợi sự liên tưởng tới cấu trúc rondo của âm nhạc phương Tây.
2.2.4. Nhạc cụ đi kèm
Trong tiểu mục này, chúng tôi sẽ tập trung giới thiệu về nhạc cụ trống đất
và những khía cạnh liên quan tới nó.
14
2.2.4.1. Về chiếc trống đất
Trống đất (thổ cổ) có cấu trúc khá phong phú, mỗi nơi lại có một
cách tạo dựng riêng. Nguyên lý cấu tạo chung của phần lớn trống đất là
đào xuống đất một hố cộng hưởng; trên miệng hố đậy một tấm ván mỏng.
Người ta dựng một que chống hình chạc ba trên chính giữa nắp miệng hố
và đóng hai cái cọc ở hai bên chiếc hố, rồi căng một sợi dây mây vào hai
đầu cọc đi qua que chống.
2.2.4.2. Âm thanh của trống
Người ta thường dùng một chiếc que đánh vào mỗi bên dây căng qua
nắp đậy miệng hố, làm phát ra những âm thanh trầm giống như tiếng trống.
Trong dân gian, để chỉ âm thanh của trống, các nghệ nhân dùng các từ
tượng thanh như “thình - thùng”, “thùng - thì”, “thùng-thùng” hay “phình-
phình”. Đối với những trường hợp dùng hai từ khác nhau để chỉ âm thanh của
trống đất, chúng tôi thống nhất với ý kiến của PGS.TS Nguyễn Thụy Loan về
tính phổ biến của việc sử dụng từ “thình” dành cho âm thanh rơi vào phách có
trọng âm/phách mạnh/phần mạnh của phách và từ “thùng” dành cho âm thanh
rơi vào phách không có trọng âm/phách yếu/phần yếu của phách.
2.2.4.3. Các chức năng của trống trong cuộc Hát Trống quân
a) Chức năng thông tin
- Trống gọi - đáp
- Trống thúc giục
- Trống mời vào mời ra
- Trống báo vãn canh
- Trống hẹn
b) Chức năng đệm trong khi hát: Có các loại: Mở đầu mỗi phần hát của
nam hoặc nữ; đệm trong khi hát; chức năng chen giữa những khoảng không
gian nghỉ giữa các câu hát/trổ hát/phần hát và kết thúc phần hát/cuộc hát.
2.2.5. Mối quan hệ giữa âm nhạc và lời ca
2.2.5.1. Mối quan hệ giữa giai điệu và lời ca
a) Mối tương quan giữa cao độ âm nhạc và thanh điệu lời ca:
Giai điệu các bài Hát Trống quân có liên quan mật thiết tới thanh điệu
lời ca, thể hiện ở những điểm sau:
a-1) Hầu hết các bài Hát Trống quân đều có một sự phân bố tương
đối ổn định các cao độ âm nhạc tương ứng với các nhóm thanh điệu lời ca.
a-2) Ở một số bài Hát Trống quân có quy luật tiến hành quãng
tương ứng với sự nối tiếp các thanh điệu/nhóm thanh điệu nhất định.
15
a-3) Âm kết câu, kết đoạn cũng phụ thuộc vào thanh điệu của ca từ
kết với khoảng cách phổ biến được thấy giữa các âm kết câu/kết đoạn (trổ)
là quãng 4 Đúng hoặc quãng 5 Đúng.
a-4) Mặc dầu thanh điệu lời ca có vai trò chi phối sự tiến hành giai
điệu nhưng ở một số nơi, giai điệu Hát Trống quân cũng có sự vận động
độc lập riêng, thậm chí còn tác động ngược trở lại làm biến đổi mối tương
quan về độ cao giữa các nhóm thanh điệu lời ca.
b) Tiết tấu lời ca
b-1) Mô hình tiết tấu đồng độ: Mô hình này được thấy phổ biến
ở một số địa phương thuộc vùng đồng bằng Bắc bộ
b-2) Mô hình tiết tấu dị độ: Thuộc loại này có 3 mô hình phổ biến.
2.2.5.2. Mối quan hệ giữa cấu trúc âm nhạc và cấu trúc lời ca
Trong tiểu mục này, chúng tôi sẽ bàn sâu về vai trò của ca từ trong
việc tạo nên những dạng cấu trúc trong âm nhạc Hát Trống quân.
a) Vai trò của cấu trúc lời ca trong sự hình thành các dạng cấu trúc
âm nhạc tổng thể của Hát Trống quân: Xét trong sự tương quan với cấu trúc
âm nhạc, mỗi trổ hát thường tương ứng với một đoạn nhạc đơn. Sự khác nhau
về lời ca của mỗi trổ hát chính là căn nguyên đem tới những thay đổi trong
đường nét giai điệu của mỗi đoạn nhạc đơn khi nhắc lại, tạo nên tính biến tấu
trong cấu trúc âm nhạc của Hát Trống quân.
b) Vai trò của cấu trúc lời ca với sự tạo thành các dạng cấu trúc âm
nhạc cơ sở trong Hát Trống quân
b-1) Đối với hình thức một đoạn đơn gồm hai câu nhạc không cân
phương có câu nhạc thứ nhất ngắn hơn câu nhạc thứ 2: là hình thức âm
nhạc của các bài có cấu trúc lời ca trùng với cấu trúc thơ lục bát nguyên thể
hoặc biến thể dạng 7/8.
b-2) Đối với hình thức một đoạn đơn gồm hai câu nhạc không cân
phương có câu nhạc thứ nhất dài hơn câu nhạc thứ 2: Được tạo thành do:
- Cấu trúc của một trổ hát được kết cấu theo kiểu gối đầu giữa nhạc và lời, trong
đó câu 1~ câu 8 trong cặp lục bát trước và câu 2~ câu 6 của cặp lục bát sau.
- Sử dụng thủ pháp đảo cụm 4 ca từ chính cuối hoặc 2 ca từ chính cuối (ít
gặp hơn) của câu sáu lên trước, rồi mới hát toàn bộ nội dung câu thơ.
b-3) Đối với hình thức một đoạn đơn gồm hai câu nhạc cân phương:
Hình thức này được thấy trong các bài cũng sử dụng thủ pháp đảo cụm ca từ
vay trả ở câu 6 nhưng khuôn khổ của câu nhạc thứ nhất chỉ mở rộng bằng
với khuôn khổ của câu nhạc thứ hai.
16
b-4) Đối với hình thức một đoạn đơn gồm 3 câu nhạc không cân phương: là
cấu trúc đoạn nhạc của các bài Hát Trống quân có điệp câu 6 hay câu 8.
2.2.5.3. Mối quan hệ giữa phần trống và lời ca
Ở đây, chúng tôi đưa ra những mô hình tiết tấu trống được dùng phổ
biến trong Hát Trống quân.
a) Mô hình tiết tấu cơ bản của các bộ phận trống mở đầu, kết thúc
phần hát và trống xen giữa các phần hát/trổ hát: Tuy chức năng của mỗi
bộ phận trống đệm này khác nhau, nhưng chúng thường sử dụng cùng một mô
hình tiết tấu cơ bản giống nhau trong cùng một bài. Có hai mô hình tiết tấu phổ
biến trong các bộ phận trống này (mô hình 1 và 2) và hai mô hình tiết tấu khác ít
phổ biến hơn (mô hình 3 và 4).
b) Các kiểu đệm trống khi đi kèm với lời ca: Có hai kiểu đệm trống:
b-1) Trống được gõ kèm theo từng ca từ
b-2) Trống không gõ kèm theo từng ca từ: Bao gồm hai dạng:
- Trống đệm chỉ mang tính chất giữ nhịp bằng cách chỉ điểm trống
vào những phách đầu mỗi nhịp hoặc theo từng phách.
- Trống đệm theo một số mô hình tiết tấu cụ thể.
Tiểu kết
Trên đây là phần trình bày về diện mạo tổng hợp của Hát Trống quân
với những đặc điểm đáng chú ý ở cả hai khía cạnh: diễn xướng và âm nhạc.
Theo đó, có thể nhận thấy diện mạo của Hát Trống quân có sự thống nhất
trong đa dạng. Sự thống nhất trong đa dạng này của Hát Trống quân sẽ được
nhận thấy rõ hơn trong các nghiên cứu tìm hiểu sâu về khía cạnh âm nhạc
trong chương 3 của luận án.
17
CHƯƠNG 3
ĐẶC TRƯNG ÂM NHẠC CHUNG VÀ ĐẶC TRƯNG ÂM NHẠC
MANG TÍNH ĐỊA PHƯƠNG CỦA HÁT TRỐNG QUÂN
Trong chương này, dựa trên một số khía cạnh trong cấu trúc vi mô của các
làn điệu Hát Trống quân như thang âm, âm vực, nhóm cao độ xây dựng nên
đường nét cơ bản của giai điệu, chúng tôi sẽ xác định đặc trưng âm nhạc chung
cũng như đặc trưng âm nhạc mang tính địa phương của Hát Trống quân.
3.1. Đặc trưng âm nhạc chung của Hát Trống quân
Nhìn trên tổng thể, đặc trưng âm nhạc duy nhất mang tính tương đối phổ
quát cho Hát Trống quân ở tất cả các vùng chính là các mô hình tiết tấu trống đi
kèm phần hát, với nhạc cụ đệm phổ biến là trống đất. Đó là một trong những yếu
tố quan trọng giúp cho việc nhận diện Hát Trống quân nói chung. Tuy nhiên,
trên thực tế, Hát Trống quân còn có nhiều yếu tố nhận diện khác liên quan tới
đặc trưng âm nhạc mang tính địa phương. Chúng cũng là những yếu tố để phân
biệt âm nhạc Hát Trống quân ở các vùng/tiểu vùng/địa phương khác nhau.
3.2. Đặc trưng âm nhạc của Hát Trống quân vùng Đất Tổ
3.2.1. Đặc trưng âm nhạc chung của Hát Trống quân vùng Đất Tổ
3.2.1.1. Giai điệu phần lớn hạn chế trong âm vực hẹp với các thang
ít âm, chủ yếu xoay quanh 3-4 cao độ
a) Âm vực: Âm vực hẹp trong khoảng quãng 5 hoặc quãng 6 (14/18
bài). Một số ít bài có khoảng âm vực từ quãng 7 đến quãng 10, trong đó
trường hợp có âm vực quãng 8, quãng 9, quãng 10 mỗi loại chỉ có 1/18 bài.
b) Thang âm: Hát Trống quân vùng Đất Tổ phần lớn được xây dựng
trên các thang ít âm, từ 3 âm đến 6 âm, trong đó các thang 3, 4 và 5 âm
chiếm ưu thế (tổng số bài xây dựng trên các thang âm này lên tới 94,6%).
c) Các nhóm cao độ tạo nên đường nét cơ bản của giai điệu
Hát Trống quân vùng Đất Tổ là nhóm 3 cao độ, nhóm 4 cao độ và
nhóm 5 cao độ. Mỗi loại nhóm cao độ lại có các dạng cấu trúc quãng
khác nhau giữa các âm kế tiếp trong nhóm từ thấp lên cao.
3.2.1.2. Giai điệu tương đối đơn giản với nhiều bước tiến hành quãng
4 - quãng 5
a) Kết cấu 3 cao độ nòng cốt tạo nên đường nét cơ bản của giai điệu
Hát Trống quân vùng Đất Tổ: Đường nét cơ bản của giai điệu cũng chỉ
thường tiến hành trên 3 cao độ có quan hệ quãng 5-2 (q.4Đ-q.2T). Đa phần
18
các nhóm 4 - 5 cao độ là sự “nhồi thêm” âm hay mở rộng từ kết cấu 3 cao
độ nòng cốt đặc trưng này.
b) Giai điệu có nhiều bước tiến hành quãng 4, quãng 5: Một trong
những hệ quả của việc khai thác chủ yếu kết cấu 3 cao độ nòng cốt là sự có
mặt của nhiều bước đi quãng 4 Đúng, quãng 5 Đúng đan xen với quãng 2
Trưởng trong đường nét vận động giai điệu của Hát Trống quân vùng Đất Tổ.
c) Quy luật phân bố 3 nhóm thanh điệu ở đại bộ phận các bài vẫn
bám sát mối quan hệ quãng 5-2 (q.4Đ-q.2T): Đa phần các bài Hát Trống
quân ở vùng này đều có sự định hình một quy luật phân bố 3 nhóm thanh
điệu bám sát mối quan hệ quãng 5-2 (q.4Đ-q.2T).
3.2.1.3. Cấu trúc bao giờ cũng có sự điệp theo chu kỳ một bộ phận
âm nhạc cuối của mỗi trổ hát
Đây là một đặc trưng nổi bật trong âm nhạc Hát Trống quân vùng Đất
Tổ. Ở các bài Hát Trống quân vùng Đất Tổ, bộ phận âm nhạc cuối được nhắc
lại sau mỗi trổ hát có 2 quy mô: Một là, điệp bộ phận âm nhạc tương ứng với
toàn bộ hay một phần câu 8 cuối trổ hát; Hai là, điệp một nét nhạc gần như
cố định cuối mỗi trổ.
3.2.1.4. Thay vì trống đất, trống da là nhạc cụ đệm chủ yếu
3.2.2. Đặc trưng âm nhạc mang tính địa phương của Hát Trống quân
trong vùng Đất Tổ
3.2.2.1. Đặc trưng âm nhạc riêng của Hát Trống quân làng Đức Bác
a) Hình thành một mô hình tiết tấu lời ca có yếu tố đảo phách tương
đối cố định: Ở 8/9 bài Hát Trống quân Đức Bác có sự xuất hiện gần như cố
định tiết tấu đảo phách ở vị trí ca từ thứ 4 của câu 6 trong các trổ hát.
b) Giai điệu được xây dựng và phát triển dựa trên ba nhân tố lấy từ
nét nhạc kết trổ. Nét nhạc kết trổ này có thể xem như một nét nhạc ký hiệu1
để nhận dạng Hát Trống quân Đức Bác.
c) Cấu trúc âm nhạc tổng thể mang tính rondo. Yếu tố rondo trong cấu
trúc âm nhạc tổng thể của Hát Trống quân Đức Bác được thể hiện ở những nét
nhạc kết trổ được nhắc đi nhắc lại có biến hóa đôi chút sau mỗi trổ hát.
3.2.2.2. Đặc trưng âm nhạc riêng của Hát Trống quân làng Hữu Bổ
và làng Kinh Kệ
a) Định hình một mô hình tiết tấu lời ca đặc trưng có yếu tố đảo ca
từ ở câu 8
1 Nét nhạc ký hiệu là thuật ngữ của PGS.TS Nguyễn Thụy Loan đã sử dụng
để chỉ nét nhạc kết trổ này.
19
b) Có sự định hình một mô hình tiến hành giai điệu kết trổ đặc trưng
c) Có cấu trúc âm nhạc cơ sở là hình thức một đoạn đơn gồm 3 câu
không cân phương
3.2.2.3. Đặc trưng âm nhạc riêng của Hát Trống quân ở xã Hiền Quan
a) Đặc điểm âm nhạc của bài Hát Trống quân “Đèn giời cũng có trăm tiền”
Bài này vừa có nét giống với đặc điểm âm nhạc của Hát Trống quân vùng
Đất Tổ nói chung (cấu trúc điệp một bộ phận ở cuối mỗi trổ và lõi cao độ nòng
cốt 5-2) vừa có điểm giống với Hát Trống quân Đức Bác (cấu trúc mang tính
rondo). Tuy nhiên, có 3 đặc điểm khác hẳn, đáng chú ý:
a-1) Giai điệu được hình thành trên cơ sở một số chất liệu âm nhạc riêng nối
tiếp nhau theo một quy luật nhất định, lặp lại xuyên suốt trong tất cả các trổ hát.
a-2) Sử dụng nhiều ca từ phụ có nghĩa và thủ pháp điệp ca từ làm mở
rộng khuôn khổ câu nhạc, đặc biệt là câu tương ứng với vế 8
a-3) Không sử dụng trống đệm
b) Đặc điểm âm nhạc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_hat_trong_quan.pdf