Di vật
Di vật thu được qua khai quật ở các địa điểm thuộc La thành
Thăng Long gồm các ba nhóm vật liệu chính là: vật liệu kiến trúc,
gốm sứ và đồ sành - đất nung của nhiều thời đại khác nhau kéo dài từ
thời Bắc thuộc (tập trung ở thế kỷ VII - IX), qua các triều Lý, Trần,
Lê Sơ, Lê Trung Hưng và Nguyễn. Tất cả các nhóm vật liệu đều nằm
trong các lớp đất có niên đại tương ứng, cũng thấy một số hiện vật có
niên đại sớm nằm trong lớp đất có niên đại muộn hơn. Riêng nhóm
hiện vật thời Lê Trung Hưng và thời Nguyễn chủ yếu xuất hiện ở các
lớp đất mặt bên trên La thành.
2.6.1. Vật liệu kiến trúc
Vật liệu kiến trúc ở các địa điểm khai quật không nhiều, chủ
yếu là mảnh vỡ gạch, ngói thuộc các niên đại thời Đại La (thế kỷ VII
- IX), thời Lý, Trần và thời Lê sơ.
2.6.2. Gốm sứ
Gốm sứ thu được tại các điểm khai quật hầu hết đã bị vỡ nhỏ,
có nguồn gốc chủ yếu là gốm gốm men Việt Nam và một số ít gốm
men Trung quốc. Các loại hình gốm men ở đây khá đa dạng và phong16
phú về cả dòng men và loại hình bao gồm: Bát, đĩa, bình, chậu, vò,
âu, nắp, ấm, lọ, chân đĩa đèn, lư hương, của các dòng men như: Men
trắng, men ngọc, men nâu, hoa lam, chỉ lam, hoa nâu.
2.6.3. Sành - đất nung
Đồ sành trong các di tích có số lượng lớn, là mảnh vỡ của
nhiều loại đồ đựng dùng sinh hoạt hằng ngày như: Lon, vại, bình vò,
chậu, nồi và nắp. có niên đại kéo dài từ thời Đinh - Lê (thế kỷ IX -
X) liên tục cho đến thời Nguyễn
27 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 515 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án La Thành (Thăng Long) trong lịch sử qua tư liệu khảo cổ học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch để kiểm chứng.
Tuy nhiên, theo các ghi chép trong các bộ chính sử Việt Nam
như: Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt thông sử, Khâm
định Việt sử thông giám cương mục và nhiều bộ thông sử khác,
thành Đại La được đắp chính thức từ năm 1014.
1.3. Lịch sử nghiên cứu khảo cổ La thành (Thăng Long)
Nghiên cứu La thành nói riêng và kinh thành Thăng Long nói
chung, cho đến nay có thể chia thành hai giai đoạn: giai đoạn trước
năm 1954, được tiến hành bởi các học giả nước ngoài (chủ yếu là các
học giả người Pháp); và giai đoạn sau năm 1954, do các nhà nghiên
cứu Việt Nam thực hiện.
1.3.1. Giai đoạn trước 1954
Các nghiên cứu khảo cổ trong giai đoạn từ thế kỷ XIX đến
trước năm 1954 mới chỉ dừng lại ở các phát hiện về di vật tại các khu
vực xung quanh Kinh thành Thăng Long, việc nghiên cứu La thành
chưa được tiến hành
.
8
1.3.2. Giai đoạn sau 1954
Nghiên cứu thành Thăng Long nói chung và La thành nói riêng
giai đoạn này do các nhà nghiên cứu Việt Nam tiến hành. Các bài
viết, các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành như:
Khảo cổ học, Nghiên cứu lịch sử, đã bước đầu phân tích, tranh
luận khá sôi nổi về vấn đề quy mô, cấu trúc của kinh thành Thăng
Long, trong đó về cơ bản đều thống nhất xác định Kinh thành Thăng
Long có cấu trúc gồm 3 vòng thành, trong đó vòng thành ngoài cùng
là La thành. Sau này, dựa trên kết quả từ các cuộc khai quật, vấn đề
dần được làm rõ về cấu trúc, kỹ thuật, và niên đại.
1.4. Những nghiên cứu về La thành (Thăng Long) nhận
thức và vấn đề
Đến nay các nhà nghiên cứu đã cơ bản thống nhất Vòng thành
ngoài cùng đắp bằng đất năm 1014, năm 1078 sửa đắp gọi là thành
Đại La. Trong sử biên niên, tên thành Đại La xuất hiện nhiều lần vào
các năm: 1078, 1154, 1165, 1170, 1230, 1243. Dấu tích của thành
Đại La còn để lại khá rõ và được các nhà sử học, khảo cổ học xác
định quy mô khá chính xác như sau: Từ phía Bắc, thành Đại La chạy
men theo phía nam của sông Tô Lịch mà dấu tích hiện còn chính là
đường Hoàng Hoa Thám. Con đường này chạy từ đông sang tây đến
dốc Bưởi, thì ngoặt về phía nam và tiếp tục men theo dòng sông Tô
Lịch chạy đến Ô Cầu Giấy, thì ngoặt sang phía đông theo đường La
Thành - Đê La Thành - Đại Cồ Việt - Trần Khát Chân - Ô Đông
Mác. Ở phía Đông, thành Đại La chính là đê sông Hồng. Thành mở
các cửa: Triều Đông (khoảng dốc Hoè Nhai xuống), Tây Dương (Ô
Cầu Giấy), Trường Quảng (Ô Chợ Dừa), Cửa Nam (Ô Cầu Dền), cửa
Vạn Xuân (Ô Đống Mác). Trong đó, Ô là tên gọi về sau có thể từ
khoảng năm 1749.
9
1.5. Tiểu kết Chương 1
La thành (Thăng Long) được ghi chép từ rất sớm trong cổ sử
Trung Hoa và Đại Việt. Cổ sử Trung Hoa cho biết những “La
thành”, “An Nam La thành”, “Đại La thành” được xây dựng trong
khoảng từ thế kỷ VII đến thế kỷ IX nhưng hiện chưa thấy di tích để
kiểm chứng. Theo cổ sử Việt Nam thì La Thành hay Đại La nay ta
quen gọi ở Hà Nội được đắp khởi đầu vào đầu thời Lý (thế kỷ XI) và
liên tục được tu bổ trong các thời đại phong kiến độc lập về sau.
Trên cơ sở những tư liệu trong thư tịch cổ, trong những năm
qua đã có rất nhiều các nhà nghiên cứu khảo về Thành và La thành
(Thăng Long). Tuy nhiên, nghiên cứu về La thành (Thăng Long) từ
góc độ khảo cổ học chỉ bắt đầu từ năm 2003 với cuộc khai quật địa
điểm Đoài Môn và thực sự được chú trọng với các cuộc khai quật từ
năm 2010 - 2015 tại các nút giao thông trên tuyến đê bưởi và Ô Chợ
Dừa. Kết quả nghiên cứu khảo cổ đã đưa ra ánh sáng cấu trúc của La
thành (Thăng Long) qua các thời đại lịch sử Lý - Trần - Lê.
CHƯƠNG 2:
LA THÀNH (THĂNG LONG) QUA TƯ LIỆU KHẢO CỔ HỌC
2.1. Kết quả khảo sát La thành Thăng Long
Cuối năm 2012, Ban quản lý DTDT Hà Nội và Viện KCH đã
tiến hành khảo sát hiện trạng La thành theo các tuyến phố Bưởi -
Hoàng Hoa Thám - Thụy Khuê - Thanh Niên - Trần Quang Khải -
Trần Khánh Dư - Trần Khát Chân - Đại Cồ Việt - Đê La Thành - La
Thành nhằm tìm hiểu quy mô, hiện trạng di tích và vết tích còn lại
của vòng La thành. Quá trình khảo sát mở rộng cả các tuyến phố Lạc
Long Quân và Đê Yên Phụ mục đích tìm hiểu về vòng La thành mở
rộng dưới thời Lê Trung Hưng (năm 1588).
10
Qua kết quả khảo sát, có thể nhận thấy La Thành (Đại La
thành) là vòng bao phía bên ngoài của Hoàng Thành Thăng Long.
Đặc điểm của thành Đại La là men theo dòng chảy của sông Phía
Đông là đê sông Hồng nay là phố Nguyễn Khoái - Hồng Hà - Trần
Nhật Duật - Yên Phụ - Nghi Tàm - Âu Cơ. Thành này hầu như ổn
định dưới thời Lê. Phía Bắc thành Đại La có thể men theo sông Tô
Lịch, và gồm hai lớp thành là Hoàng Hoa Thám - Thụy Khuê. Phía
Tây là dấu vết đường Bưởi hiện nay. Phía Nam là đê La Thành - Trần
Khát Chân - Lương Yên. Để bảo vệ Thăng Long khỏi nguy cơ ngập
lụt, các triều đại phong kiến đều cho đắp đê dọc theo các dòng sông.
Vì thế, Đại La thành ngoài chức năng bảo vệ cho Hoàng Thành, công
sự phòng thủ khi có chiến tranh thì còn có vai trò đê ngăn nước,
đường đi trong thời bình.
2.2. Kết quả khai quật địa điểm Đoài Môn (Ủng Thành)
Đoài Môn còn gọi là Ủng Thành, tọa độ 21O02'393'' vĩ Bắc,
105O48'370'' kinh Đông, thuộc đường Bưởi (Ba Đình - Hà Nội) (từ số
348 đến 376). Nơi còn vết tích của Đoài Môn ở bên bờ Bắc của sông
Tô Lịch. Tháng 11/ 2003, BTLS Việt Nam và Sở VHTT Hà Nội khai
quật tổng diện tích 100m2.
Qua kết quả thám sát và khai quật, có thể xác định được Ủng
Thành ở Đoài Môn là một toà thành nhỏ hình chữ nhật gần vuông,
dài 54m, rộng 52m ôm sát đường Bưởi. Vị trí này cũng được dự đoán
là nơi tồn tại của Đoài Môn, cổng La Thành phía Tây.
Việc nghiên cứu khai quật khảo cổ với những minh chứng về
vết tích kiến trúc cùng những di vật được tìm thấy là những nguồn tư
liệu hết sức thuyết phục đối với việc nghiên cứu lịch sử - văn hóa
Thăng Long - Hà Nội. Sự tồn tại của kiến trúc Ủng Thành tại vị trí
phía Tây của La thành (Thăng Long) cũng đã gợi mở cho chúng ta
11
việc xác định vị trí cổng thành Thăng Long ở khu vực phía Tây, mà
ngày nay địa danh xã Đoài Môn (cổng Tây/cửa Tây) còn cho ta liên
tưởng một cách rõ nét hơn về vị trí của cổng thành này.
2.3. Khai quật địa điểm Văn Cao - Hoàng Hoa Thám
Tháng 10/2011, Ban quản lý DTDT Hà Nội và Viện KCH khai
quật 200m2 tại vị trí giao cắt nút Văn Cao - Hoàng Hoa Thám. Với
cuộc khai quật này, đặc trưng là một dấu tích đoạn lũy thành thành
Thăng Long thời Lê sơ và số lượng di vật khá phong phú đã phản ánh
nhiều mặt lịch sử và cuộc sống của kinh thành Thăng Long thời Lý,
Trần cũng như Hoàng Thành thời Lê sơ. Ít nhất bước đầu qua di tích,
di vật ở đây cung cấp tư liệu mới nhất phục vụ cho việc nghiên cứu
cấu trúc Thành và Hoàng Thành Thăng Long thời Lý, Trần và Lê. Có
thể nói đây là lần đầu tiên trong lịch sử nghiên cứu kinh thành Thăng
Long, khảo cổ học đã làm rõ được dấu tích của thành Thăng Long
thời Lê sơ. Kỹ thuật xây đắp thành lũy ở đây bước đầu được làm rõ
một phần. Đặc biệt cũng lần đầu tiên, tại địa điểm này khảo cổ học
phát hiện một lớp di chỉ cư trí khá dày thời Lý - Trần.
2.4. Khai quật tuyến đê Bưởi
Từ tháng 12/2012 đến cuối năm 2015, Ban quản lý DTDT Hà
Nội và Viện KCH đã tiến hành khai quật nghiên cứu diện tích
1.600m2 ở bốn địa điểm Cầu Giấy, Đào Tấn, Đội Cấn và Bưởi trên
đường đê Bưởi.
2.4.1. Địa điểm nút giao thông Cầu Giấy
Khu vực mở hố khai quật ở nút giao thông Cầu Giấy có diện
tích 400m2, nằm trong phạm vi bãi đỗ xe đầu đường Bưởi, đối diện
với cổng công viên Thủ Lệ.
12
Đợt khai quật ở nút giao thông Cầu Giấy đã làm xuất lộ một
đoạn vách tường mặt ngoài của La thành (Thăng Long) tồn tại kéo
dài qua các thời kỳ lịch sử khác nhau từ thời Lý - Trần đến Lê sơ.
Phát hiện mới nhất từ đợt khai quật là đã làm xuất lộ một lớp
thành đắp bằng đất có niên đại thời Lý - Trần. Thành đắp ở giai đoạn
này có quy mô to lớn, bề thế, khẳng định La thành (Thăng Long)
ngay từ thời Lý - Trần đã rất được chú trọng xây dựng kiến cố.
2.4.2. Địa điểm nút giao thông Đào Tấn
Vị trí mở hố khai quật nằm ở giữa ngã tư nút giao thông Đào
Tấn - Nguyễn Khánh Toàn. Tổng diện diện tích khai quật 600m2. Tại
đây, cuộc khai quật đã làm xuất lộ một đoạn vách của thành - đê -
đường Bưởi. Độ sâu của thành từ mặt đường đến sinh thổ dày trên
7m. Đã bước đầu xác định được có lớp đất thời Đại La, có lớp đất
đắp thời Lý, có lớp đắp thời Trần. Lớp đất đắp có quy mô lớn, cao
trên 7m, chân choãi rộng, đất sét thuần, nèn chặt, có thể quan sát kỹ
thuật đầm nèn, đắp thành khá rõ.
Như vậy, La thành (Thăng Long) ngay từ thời Lý - Trần đã rất
được chú trọng xây dựng kiến cố, quy mô to lớn, bề thế. Đồng thời
cho phép khẳng định rằng La thành (Thăng Long) ở thời Lê chỉ được
tu sửa và mở rộng từng đoạn theo đúng như sử cũ chép lại.
2.4.3. Địa điểm nút giao thông Đội Cấn
Vị trí mở các hố khai quật nằm ở giữa đường Bưởi (nút giao
thông Đội Cấn - Đê Bưởi). Diện tích khai quật 300m2. Kết quả khai
quật ở nút giao thông Đội Cấn tiếp tục khẳng định những ghi chép
trong sử liệu cũ và ý kiến của các nhà nghiên cứu xưa nay về Đại La
thành thời Lý - Trần và Hoàng thành Thăng Long thời Lê Sơ ở khu
vực này. Tại hố đào, đã xuất lộ một góc thành - đê - đường Bưởi có
độ sâu của thành từ mặt đường đến sinh thổ dày trên 9m. Đã bước
13
đầu xác định được có lớp đất thời Đại La, có lớp đất đắp thời Lý, có
lớp đắp thời Trần và lớp đắp thời Lê Sơ diễn biến liên tục.
2.4.4. Địa điểm nút giao thông Bưởi
Hố khai quật nằm ở khu vực nút giao thông Hoàng Quốc Việt -
Đê Bưởi. Tổng diện tích khai quật 300m2.
Kết quả khai quật ở nút giao thông Hoàng Quốc Việt tiếp tục
khẳng định những ghi chép trong sử liệu cũ và ý kiến của các nhà
nghiên cứu xưa nay về Đại La thành thời Lý - Trần và Hoàng thành
Thăng Long thời Lê Sơ ở khu vực này. Tại hố đào, đã xuất lộ lớp văn
hóa thời Đại La, dấu vết đê - thành thời Lý, thời Lê Sơ; dấu vết lò
nung vật liệu kiến trúc thời Lê sơ. Có thể nói, sự tu sửa đê - thành
dưới thời Trần ở khu vực này không thật sự rõ ràng.
Có thể khẳng định, đợt khai quật nghiên cứu La thành Thăng
Long ở địa điểm nút giao thông Hoàng Quốc Việt đã thu được thêm
nhiều tư liệu quý xác minh bằng những chứng cứ cụ thể những ghi
chép trong chính sử Việt Nam rằng La thành (Thăng Long) được đắp
từ thời Lý và được các triều Trần, Lê Sơ, tiếp tục sử dụng, tu sửa, mở
rộng ở giai đoạn sau.
2.4.5. Kết quả nghiên cứu La thành ở đê Bưởi
Qua nghiên cứu bốn điểm khai quật trên đường Bưởi ở các nút
giao Cầu Giấy, Đào Tấn, Đội Cấn và Bưởi, có thể nhận thấy các lớp
đắp qua các thời đại khác nhau.
- Lớp thành thời Lý: là lớp tường thành được đắp đầu tiên hoàn
chỉnh nhất. Lớp đế tường thành (hay chân móng tường): có mặt cắt
hình chữ nhật hình khối vuông vức, dày khoảng 1m, rộng khoảng 8m
đến 10m. Tường thành được đắp theo hình thang khá cân đối, hiện
cao còn lại từ 5m đến 8m. Đất đắp tường là đất sét nâu rất thuần,
14
được đầm theo kỹ thuật đầm đinh, mỗi lớp dày khoảng từ 0,05-0,1m.
Nhìn chung tường thành thời Lý được đắp khá quy chuẩn và bài bản.
- Lớp thành thời Trần: Đều được đắp phủ lên bên trên lớp
tường thành thời Lý.
- Lớp thành thời Lê Sơ:, tường thành được mở rộng và gia cố
thêm ở phía ngoài. Đặc biệt phía ngoài được gia cố tường gạch khá
kỹ rộng khoảng 1,5m và cao khoảng 1,5m. Phần gia cố được tiến
hành trên toàn bộ phần tường thành ở đê Bưởi.
2.5. Khai quật nút giao thông Ô Chợ Dừa
Từ tháng 8/2013 - 10/2013, Viện KCH phối hợp Sở VHTTDL
Hà Nội khai quật khảo cổ ở khu vực nút giao thông Ô Chợ Dừa.
2.5.1. Cấu tạo địa tầng, di tích tại hố PR1
Vị trí hố PR1 nằm trên một gò đất tự nhiên khá cao. Trong hố
xuất hiện nhiều khu vực có than tro dày dạng bếp, bên cạnh đó có
nhiều hiện vật còn nguyên hoặc gần nguyên nên có thể đây là khu cư
trú trong thành. Khu vực di tích nằm ngay sát chân bên trong và có
liên quan mật thiết đến di tích La thành (Thăng Long) và có thể là cả
với di tích Đàn Xã Tắc gần đó.
2.5.2. Cấu tạo địa tầng, di tích tại hố PR2
Vị trí mở hố PR2 hoàn toàn là đất bùn đen nằm ở đáy sông,
suối. Cho biết hố đào nằm ở khu vực gần dòng chảy cổ có thể là ven
sông Kim Ngưu hoặc cửa nước từ trong thành chảy ra Kim Ngưu ở
gần cửa Trường Quảng của thành Thăng Long xưa.
2.5.3. Cấu tạo địa tầng, di tích tại hố PR3
Hố đào có hướng bắc lệch tây 270. Địa tầng hố PR3 là lớp đất
bồi tụ ở giai đoạn sau thế kỷ XVIII.
2.5.4. Cấu tạo địa tầng, di tích tại hố PR4
Hố PR4 không có di tích, di vật khảo cổ.
15
2.5.5. Một số nhận thức về địa điểm Ô Chợ Dừa
Qua các hố khai quật có thể nhận xét, ngoài hố PR4 hoàn toàn
không có di tích, di vật, 3 hố còn lại đều phát hiện dấu tích di tích, di
vật thuộc các thời đại khác nhau. Ở hố PR1 là những dấu tích sinh
hoạt đun nấu của cư dân thời Trần, hẳn có liên quan đến di tích Đàn
Xã Tắc hoặc cửa Trường Quảng ở khu vực này vào thời Trần. Hố
PR2 là khu vực mà trước đây có khả năng là một lạch nước nhỏ đổ
nước từ trong thành ra sông Kim Ngưu. Hố PR3 lại cho thấy cho đến
thời Lê, khu vực này mới được người dân đắp nền, vượt thổ để làm di
tích Đình Đông.
2.6. Di vật
Di vật thu được qua khai quật ở các địa điểm thuộc La thành
Thăng Long gồm các ba nhóm vật liệu chính là: vật liệu kiến trúc,
gốm sứ và đồ sành - đất nung của nhiều thời đại khác nhau kéo dài từ
thời Bắc thuộc (tập trung ở thế kỷ VII - IX), qua các triều Lý, Trần,
Lê Sơ, Lê Trung Hưng và Nguyễn. Tất cả các nhóm vật liệu đều nằm
trong các lớp đất có niên đại tương ứng, cũng thấy một số hiện vật có
niên đại sớm nằm trong lớp đất có niên đại muộn hơn. Riêng nhóm
hiện vật thời Lê Trung Hưng và thời Nguyễn chủ yếu xuất hiện ở các
lớp đất mặt bên trên La thành.
2.6.1. Vật liệu kiến trúc
Vật liệu kiến trúc ở các địa điểm khai quật không nhiều, chủ
yếu là mảnh vỡ gạch, ngói thuộc các niên đại thời Đại La (thế kỷ VII
- IX), thời Lý, Trần và thời Lê sơ.
2.6.2. Gốm sứ
Gốm sứ thu được tại các điểm khai quật hầu hết đã bị vỡ nhỏ,
có nguồn gốc chủ yếu là gốm gốm men Việt Nam và một số ít gốm
men Trung quốc. Các loại hình gốm men ở đây khá đa dạng và phong
16
phú về cả dòng men và loại hình bao gồm: Bát, đĩa, bình, chậu, vò,
âu, nắp, ấm, lọ, chân đĩa đèn, lư hương, của các dòng men như: Men
trắng, men ngọc, men nâu, hoa lam, chỉ lam, hoa nâu.
2.6.3. Sành - đất nung
Đồ sành trong các di tích có số lượng lớn, là mảnh vỡ của
nhiều loại đồ đựng dùng sinh hoạt hằng ngày như: Lon, vại, bình vò,
chậu, nồi và nắp... có niên đại kéo dài từ thời Đinh - Lê (thế kỷ IX -
X) liên tục cho đến thời Nguyễn.
2.7. Nhận thức về La thành (Thăng Long) qua tư liệu khảo cổ
La thành Thăng Long được xây dựng dựa theo địa hình tự
nhiên của các con sông Hồng, sông Tô Lịch và sông Kim Ngưu.
Người xưa khi lựa chọn vị trí xây dựng đã khéo léo kết hợp việc sử
dụng các con sông này để làm thành những đoạn hào thành tự nhiên.
Đồng thời với chức năng hào thành phòng thủ, có lẽ một chức năng
khác không kém phần quan trọng cũng đã được tính đến là la thành
cũng đảm nhận chức năng là một con đê bao, ngăn các dòng sông với
khu vực nội thành bên trong. La thành có chức năng là đê bao ngăn
lũ lụt cho Hoàng thành và Cấm thành ở bên trong trong mùa lũ. Lịch
sử cũng đã chứng minh chức năng đê bao này của La thành qua việc
ghi chép nhiều lần trong lịch sử La thành bị nước lũ tàn phá và sau đó
lại được tu sửa lại để tiếp tục sử dụng.
Đến nay, kết quả khai quật khảo cổ ở các địa điểm trên tuyến
đê Bưởi đưa đến những tư liệu vật thật gần gũi và phù hợp với những
ghi chép về việc khởi đầu việc đắp thành Đại La vào đầu thời nhà Lý.
Kết quả khai quật ở các nút giao thông Cầu Giấy, Đào Tấn, Đội Cấn,
Bưởi Văn Cao - Hoàng Hoa Thám đã cho biết La thành (Thăng
Long) được xây dựng từ đầu thời nhà Lý và các triều đại sau đó kế
tiếp sử dụng và không ngừng mở rộng quy mô, gia cố tường thành
17
cũng như tu sửa từng đoạn mỗi khi La thành bị sụt lún hoặc bị phá
hoại bởi lũ lụt cũng như chiến tranh.
2.8. Tiểu kết Chương 2
Kết quả khai quật và nghiên cứu khảo cổ đã ghi nhận đã phát
hiện lớp Đại La có niên đại thế kỷ IX - X. Di tích và di vật ở đây cho
phép nghĩ đến khả năng đây là khu cư trú của cư dân Thăng Long
giai đoạn trước thế kỷ IX.
Lớp đất đắp tường thành đầu tiên bắt đầu từ thời Lý. Tường
thành được đắp quy mô lớn và hoàn chỉnh, có mặt cắt hình thang với
chân thành rộng trên 8m và chiều cao dao động từ trên 6m (ở nút Đào
Tấn) đến 9m (ở nút Đội Cấn). Đất đắp thành là đất sét mịn, được
chọn lọc kỹ, đắp theo lớp, mỗi lớp từ 0,05 - 0,1m, kỹ thuật đầm đinh
được sử dụng để đầm nèn từng lớp từ trên xuống dưới. Có thể thấy
rằng ngay từ lần đắp La thành ở thời Lý, toàn thành đã là một công
trình đồ sộ, hùng vĩ.
Lớp đất đắp thời Trần chủ yếu là bồi đắp thêm vào chân thành
thời Lý để tạo nên một tòa thành vững chắc hơn hoặc/và tu bổ những
đoạn thành bị sạt lở như đã thấy ghi trong sử sách. Nghiên cứu khảo
cổ ở địa điểm Ô Chợ Dừa còn xác định đây là “cửa nước” và như vậy
đã cho chúng ta biết thêm một số cửa của La thành (Thăng Long) là
“cửa nước” như một số sách sử đã ghi chép.
Đến thời Lê Thánh Tông có một lần tu sửa La thành Thăng
Long với quy mô lớn. Vết tích để lại là lớp đầm gạch ngói vỡ lẫn đất
sét có niên đại thời Lê sơ nằm ở mặt ngoài tường thành kéo dài hết cả
mặt phía tây và tây bắc của La thành. Riêng đoạn tường thành Hoàng
Hoa Thám được xây dựng từ thời Lê Thánh Tông trở về sau. Ủng
thành tại địa điểm Đoài Môn có thể cũng đã được xây dựng thêm ở
thời điểm này.
18
Sau thời Lê sơ, La thành hầu như không được xây đắp hay tu
sửa lớn ở vị trí phía tây và tây bắc, mặc dù đôi chỗ ta vẫn thấy một
vài tu sửa nhỏ và chủ yếu cũng ở thời Lê Trung Hưng.
Có thể nói, những tư liệu khai quật khảo cổ đã góp phần làm
sáng rõ hơn những dòng ghi chép ngắn ngủi trong các bộ sử phong
kiến về di tích. Đồng thời nó cũng phản ảnh thêm những sự kiện, chi
tiết mà sử sách không ghi chép lại. Qua đó giúp chúng ta hiểu rõ hơn
về giá trị lịch sử - văn hóa của di tích La thành (Thăng Long).
CHƯƠNG 3:
LA THÀNH (THĂNG LONG) TRONG BỐI CẢNH
CÁC KINH THÀNH CỔ VIỆT NAM
3.1. Kinh thành cổ Cổ Loa (Hà Nội)
3.1.1. Lịch sử nghiên cứu
Thành Cổ Loa có hệ thống thành lũy bao gồm ba vòng thành
đất lớn, hào và mương nối với sông, các gò đắp và các tháp canh.
Thành Ngoại Cổ Loa là vòng thành thứ ba, có chức năng là
vòng thành bao ngoài cùng. Tại đây, các đợt khai quật cắt thành năm
1970 và 2012 đã góp thêm những tư liệu quý báu nghiên cứu kỹ thuật
đắp thành, cấu trúc thành qua các lớp đất đắp và góp phần xác định
chủ nhân và niên đại của toà thành đất này.
3.1.2. Kết quả khai quật năm 1970
Tại hố cắt thành ngoại xóm Mít, năm 1970, mặt cắt thành gồm
4 lớp, 3 lớp trên là đất đắp thành, lớp dưới là đất gốc của đồi gò có
dạng cong khum.
3.1.3. Kết quả khai quật năm 2012
Tháng 7/2012 Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội
phối hợp với Viện KKCH khai quật diện tích 72m2 tại vị trí gần gò
19
Đống Dân. Căn cứ vào địa tầng cho thấy các lớp đất trong quá trình
xây dựng, bao gồm kết cấu đất, thành phần đất. Từ sự riêng biệt của
các lớp đất có thể bước đầu đưa ra 4 giai đoạn đắp thành lũy và 2 giai
đoạn đắp thêm thành.
3.1.4. Nhận thức về kỹ thuật đắp thành
Về cơ bản, các lớp đất đắp ở cả ba vòng thành đều có dạng
cong vồng do kỹ thuật đắp đổ đất tự nhiên từ trên xuống, khác với kỹ
thuật san gạt sẽ tạo các lớp đất phẳng ngang. Thứ hai là, thành đều
được đắp, nối bởi các đồi, gò đất tự nhiên, nên không thấy xuất hiện
kỹ thuật gia công chống lún, sụt.
Việc xây thành Cổ Loa khẳng định truyền thống xây dựng triệt
để lợi dụng điều kiện tự nhiên có sẵn ở khu vực để đắp thành, đào
hào của người Việt. Sông được dùng làm hào thiên nhiên cho thành
Ngoại, cung cấp nước cho cả hệ thống hào của toà thành. Nhiều gò,
đống, doi đất cao được đắp nối lại và đắp cao thêm làm thành một bộ
phận hữu cơ của toà thành.
3.2. Kinh thành cổ Hoa Lư (Ninh Bình)
3.2.1. Lịch sử di tích
Thành Hoa Lư nằm trên một khu đất khá bằng phẳng trong khu
vực núi đá vôi của huyện Hoa Lư. Thành dựa vào thế núi là chính.
Bởi vậy, thành Hoa Lư chủ yếu dựa vào địa thế tự nhiên, những
tường thành nhân tạo chỉ nối lại những khoảng trống giữa các dải núi,
hợp thành một khu thành vô cùng hiểm trở và kiên cố. Tuy nhiên bàn
tay con người xây đắp những tường thành ở đây cũng hết sức lớn lao.
3.2.2. Kỹ thuật xây thành
Do đặc điểm thành Hoa Lư là lợi dụng sự hiểm yếu của địa
hình núi cao bao bọc nên phần lớn tường thành là các vách núi tự
20
nhiên. Ở vị trí giữa các hẻm núi được xây dựng những tường thành
bằng gạch kiên cố.
3.3. Kinh thành cổ Thành Nhà Hồ (Thanh Hóa)
3.3.1. Lịch sử di tích
Thành Nhà Hồ được xây dựng vào năm 1397 và trở thành
kinh đô của triều Hồ trong vòng 7 năm. Thành gồm 3 bộ phận: La
thành, Hào thành và Hoàng thành. La Thành dài khoảng 10 km, được
xây dựng vào tháng 9 năm 1399 dựa theo địa hình tự nhiên sẵn có,
cách thành trong khoảng 1 - 3km, nối các núi Đốn Sơn. Hắc Khuyển,
Xuân Đài, Trác Phong, Tiến Sỹ, Kim Ngọ, Kim Ngưu, Song Tượng
với sông Mã và sông Bưởi. Hiện còn lại một đoạn thành dài 2,1km,
kích thước trung bình: cao 5m, rộng chân 20m, rộng mặt 5m. Hiện
nay, phần La Thành còn tương đối rõ nét ở khu vực phía nam và
đông nam, các khu vực còn lại dấu vết không còn rõ.
3.3.2. Kết quả nghiên cứu La thành Thành Nhà Hồ
Trong đợt khai quật nghiên cứu Thành Nhà Hồ năm 2010, tại
vị trí La Thành (đoạn được khoanh vùng bảo vệ có diện tích 9 ha,
chiều dài 2,1km, kích thước trung bình cao 5m, rộng chân 20m, rộng
mặt 5m), còn gọi là đê cống Ang, thuộc thôn Xuân Áng, xã Vĩnh
Long, huyện Vĩnh Lộc. Hố khai quật diện tích 30m2.
Do đặc thù riêng của hố đào là một đoạn La Thành nên cấu tạo
địa tầng nhìn chung khá đơn giản. Đây là các lớp đất được đắp trong
cùng một thời gian (năm 1398), thuần, tính chất các lớp đất không có
sự khác biệt lớn như địa tầng ở các khu vực khác.
3.4. Nghiên cứu so sánh La thành (Thăng Long) với các
kinh thành cổ ở Miền Bắc Việt Nam
3.4.1. La thành (Thăng Long) với kinh thành cổ Cổ Loa
21
Thành Thăng Long và thành Cổ Loa có nhiều điểm tương đồng
về cấu trúc với ba vòng thành. Cả hai tòa thành đều là những tòa
thành đất được xây dựng với cùng một kiểu dạng kỹ thuật đắp đất,
đầm nèn thủ công trên nền địa hình tương đối bằng phẳng của đồng
bằng Hà Nội.
La thành (Thăng Long) và vòng thành Ngoại Cổ Loa cũng có
một số điểm khác biệt: Thành Ngoại Cổ Loa xây dựng dựa theo
những vùng đồi gò cao của khu vực, là sự kết nối các địa hình đồi núi
cao để tiết kiệm sức người, sức của, trong khi đó La thành (Thăng
Long) lại men theo những dòng chảy của sông hồ đi qua khu vực Hà
Nội để còn có chức năng là đê sông ngăn chặn lũ lụt; Về kỹ thuật đắp
thành: Thành Ngoại Cổ Loa sử dụng đất đào hào ở ngay bên dưới để
đắp nhưng ở La thành (Thăng Long) đất đất sét được chọn lọc và đưa
từ chỗ khác đến và kỹ thuật phổ biến ở La thành (Thăng Long) là
đầm nèn kiểu đầm đinh.
3.4.2. La thành (Thăng Long) với kinh thành cổ Hoa Lư
Hoa Lư được xây dựng trên một vùng núi non hiểm trở, dễ
phòng thủ cũng như xuất quân tiến công các khu vực khác. Việc xây
thành chủ yếu là xây dựng những bức tường thành ngắn ngăn các
hẻm núi, tận dụng các quả núi tự nhiên để hình thành nên một tòa
thành hiểm trở còn là một cách tiết kiệm nhân lực ở thời điểm đất
nước vừa mới giành được độc lập, nhân, tài, vật lực chưa thể đáp ứng
kịp để có thể xây dựng một tòa thành quy mô đồ sộ, to lớn như thành
Thăng Long sau này.
3.4.3. La thành (Thăng Long) với kinh thành cổ Thành Nhà Hồ
Mặc dù được xây dựng trong một thời gian rất ngắn chỉ
khoảng 3 năm nhưng thành Nhà Hồ có nhiều điểm tương đồng với
22
thành Thăng Long. Thậm chí có thể nói thành Nhà Hồ là một bản mô
phỏng của thành Thăng Long đã bị lược bớt Cấm thành.
3.5. Phương hướng bảo tồn La thành Thăng Long
La thành (Thăng Long), cũng như hệ thống di tích của Hà Nội
đang có chiều hướng suy giảm, chưa được bảo tồn gìn giữ hoặc nếu
có cũng chưa đáng kể. Đây là một thách thức lớn được đặt ra cho
ngành văn hóa và là điều đáng quan tâm của các cấp, các ngành và
của toàn xã hội. Thực tế trên đòi hỏi cần có sự kiểm soát chặt chẽ,
quy hoạch tổ chức không gian và đầu tư hợp lý, đặc biệt tăng cường
giáo dục nâng cao nhận thức của dân cư nhằm thay đổi việc bảo tồn
và phát huy di tích trong đời sống đương đại, gìn giữ môi trường
không gian di tích theo hướng bảo vệ và phát triển bền vững.
Để bảo tồn được di tích và hướng tới mục tiêu phát huy giá trị
di tích La thành (Thăng Long) và các lịch sử khảo cổ cho Thủ đô Hà
Nội, cần phải có một số phương hướng bảo tồn như sau:
- Cần phải giữ gìn tối đa các yếu tố gốc cấu thành di tích.
- Lập quy hoạch tổng hợp bảo tồn và phát huy giá trị di tích.
- Cần nghiêm cấm tuyệt đối các hành vi: chiếm đoạt, làm sai
lệch di tích; hủy hoại hoặc gây nguy cơ hủy hoại di tích; Xây dựng
trái phép, lấn chiếm đất đa
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_la_thanh_thang_long_trong_lich_su_qua_tu_lie.pdf