Thứnhất,công tác xây dựng kếhoạch trung và dài hạn, trong đó
trọng tâm là kếhoạch 5 năm chưa được quan tâm đúng mức đểnâng cao
chất lượng.
Thứhai, chất lượng xây dựng kếhoạch của các đơn vịnhìn chung
còn hạn chế, chưa bám sát những mục tiêu, nhiệm vụphát triển kinh tế-
xã hội.
Thứba,việc tổchức giao kếhoạch đã có chuyển biến, tuy nhiên kế
hoạch giao đến cấp thực hiện còn chậm, thường là sau tết Nguyên đán.
27 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1804 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt luận án Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung từ ngân sách Nhà nước do Thành phố Hà Nội quản lý, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng
thu hep chi, nhất là chi xây dựng cơ sở hạ tầng từ NSNN và tăng dần tỷ trọng
chi ĐTPT từ các nguồn ngoài NSNN. Ngoài ra, cần thực hiện việc công khai,
minh bạch, phân cấp tối đa và tăng cường sự giám sát, phản biện xã hội
trong quản lý chi NSNN để tăng hiệu quả chi NSNN, nhất là NSĐP...
Chương 2
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN TẬP TRUNG
TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN QUA
2.1 KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI THỦ ĐÔ
HÀ NỘI
2.1.1 Vị trí địa lý - chính trị của thủ đô Hà Nội
Hà Nội có vị trí địa lý - chính trị quan trọng, có ưu thế đặc biệt so với
các địa phương khác trong cả nước. Thành phố Hà Nội là Thủ đô của nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam. Nghị quyết 15 NQ/TW ngày 15/12/2000 của
Bộ Chính trị đã xác định Hà Nội là ’’trái tim của cả nước, đầu não chính
trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục,
kinh tế và giao dịch quốc tế”.
2.1.2 Qui mô, tốc độ tăng GDP
Nhìn tổng thể từ năm 2001 đến 2007, qui mô và tốc độ tăng trưởng
GDP của thành phố Hà Nội tăng cao. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân
của Hà Nội cao hơn so với cả nước khoảng 3,9%. Nhờ qui mô và tốc độ
tăng trưởng ở mức cao, nên tỷ trọng mức đóng góp của Thủ đô đối với
tăng trưởng GDP của cả nước cũng liên tục tăng, từ 7,52% năm 2001 lên
8,96% năm 2006 và 9,3% năm 2007.
9
2.1.3 Cơ cấu kinh tế
Thời gian qua, cơ cấu ngành kinh tế của Hà Nội đã có sự chuyển dịch
theo hướng công nghiệp tăng, nông nghiệp và dịch vụ giảm. Tuy vậy, đến
năm 2007, tỷ trọng công nghiệp mở rộng mới chỉ đạt 41,2%, trong khi
dịch vụ đang có tỷ trọng 57,5%. Đây là tỷ trọng chưa phù hợp yêu cầu
CNH, HĐH thủ đô Hà Nội.
2.1.4 Cơ sở hạ tầng đô thị
Có thể nói giai đoạn 2001 - 2007, cơ sở hạ tầng đô thị của thành phố
Hà Nội đã được phát triển và cải thiện đáng kể. Tất cả các lĩnh vực từ giao
thông, cấp nước, thoát nước, công trình công cộng, vệ sinh môi trường,
đến lĩnh vực nhà ở... đều được Thành phố quan tâm, tháo gỡ khó khăn,
trước mắt đáp ứng các nhu cầu bức thiết, cơ bản của phát triển kinh tế - xã
hội và điều kiện sinh hoạt nhân dân Thủ đô. Tuy nhiên đến nay, tình trạng
đô thị Hà Nội vẫn còn là vấn đề rất phức tạp.
2.1.5 Tình hình thu, chi ngân sách nhà nước
Hà Nội là địa phương có qui mô hoạt động thu, chi NSNN đứng thứ
hai cả nước, sau thành phố Hồ Chí Minh. Từ năm 1997, qui mô thu NSNN
đã vượt ngưỡng 10 nghìn tỷ đồng. Qui mô và tốc độ tăng thu NSNN trên
địa bàn Thành phố ở mức khá cao, đạt tốc độ tăng bình quân 22,69% năm
thời kỳ 2001 - 2007.
Tuy thu NSNN bình quân các năm tăng khá, nhưng do thực hiện tỷ lệ
điều tiết NSNN, nên tỷ trọng qui mô thu NSĐP chỉ đạt bình quân khoảng
31%, trong khi thu NSTW thường chiếm khoảng 69%.
2.2 THỰC TRẠNG SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN TẬP TRUNG
TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN QUA
2.2.1 Thực trạng công tác xây dựng chiến lược, qui hoạch và kế
hoạch hoá vốn đầu tư
Mặc dù việc sử dụng vốn đầu tư trong công tác qui hoạch có nhiều
tiến bộ so với trước đây nhưng vẫn bộc lộ một số vấn đề cần quan tâm:
Thứ nhất, việc xây dựng kế hoạch cho lĩnh vực qui hoạch cần được
các cấp, các ngành chủ động, tránh tình trạng dự án nằm chờ qui hoạch,
yêu cầu qui hoạch phải thực hiện trước dự án, cần đồng bộ, hoàn chỉnh
giữa qui chi tiết, qui hoạch chuyên ngành...
Thứ hai, việc xây dựng các qui hoạch chuyên ngành cần có sự lựa
chọn, cần có chuẩn mực về lĩnh vực, về phân.
Thứ ba, những vấn đề phát sinh chưa được tháo gỡ kịp thời.
10
Thứ tư, công tác khảo sát qui hoạch dựa trên bản đồ hiện trạng
nhưng công tác quản lý, khai thác và sử dụng lại trên hệ thống bản đồ nền,
vấn đề này cần được chỉ đạo tập trung để thống nhất thực hiện.
Thứ năm, Thành phố chưa có bộ máy chuyên quản về qui hoạch.
2.2.2 Thực trạng công tác chuẩn bị đầu tư
Gắn với kế hoạch 5 năm (2001 - 2005), công tác chuẩn bị đầu tư đạt
được những kết quả như sau:
Một: Việc xác định chủ trương đầu tư được Thành phố quan tâm chỉ
đạo, các dự án được duyệt phải có trong qui hoạch hoặc định hướng phát
triển chung của Thành phố.
Hai: Số dự án chuẩn bị đầu tư theo từng ngành, lĩnh vực được ghi kế
hoạch giảm đáng kể từ 434 dự án năm 2001 xuống còn 314 dự án năm
2005. Qua đó có thể thấy công tác chuẩn bị đầu tư XDCB đã từng bước
chuyển biến theo hướng tập trung, giảm dàn trải.
Ba: Tiến độ hoàn thành thủ tục triển khai các dự án chuẩn bị đầu tư
được tập trung chỉ đạo, đôn đốc thường xuyên. Tổng số các dự án chuẩn bị
đầu tư được thông qua hàng năm tăng dần từ 166 dự án năm 2001 lên 200
dự án năm 2003 và 210 dự án năm 2005.
Bốn: Công tác thẩm định dự án đầu tư dần được hoàn thiện. Việc
triển khai công tác chuẩn bị đầu tư có những chuyển biến bước đầu nhưng
so với yêu cầu vẫn còn một số nội dung cần được hoàn thiện tiếp: Công
tác qui hoạch cần được chủ động đi trước một bước và đồng bộ; khắc
phục tình trạng ghi kế hoạch chuẩn bị đầu tư phân tán, coi trọng công tác
chuẩn bị đầu tư ở nhiều lĩnh vực; năng lực các Ban quản lý dự án, các chủ
đầu tư cần được nâng cao...
2.2.3 Thực trạng công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ
ngân sách nhà nước do thành phố Hà Nội quản lý
2.2.3.1 Phân cấp trong chi đầu tư xây dựng cơ bản
Quản lý đầu tư xây dựng của Thành phố bộc lộ những mặt hạn chế
nhất định: Các sở, ngành, quận huyện không chủ động trong việc thực hiện
các nhiệm vụ được giao, UBND và các sở, ngành thành phố quá tải do khối
lượng vốn và số lượng các dự án tăng nhanh qua mỗi năm trong khi biên
chế lại có xu hướng giảm dần; thời gian triển khai thủ tục XDCB của dự án
bị kéo dài, tỷ lệ hoàn thành kế hoạch đầu tư phát triển hàng năm đạt thấp…
Trước tình hình đó, cùng với phân cấp quyết định đầu tư cho các
quận, huyện, Thành phố còn ủy quyền cho Giám đốc một số sở quản lý
11
xây dựng chuyên ngành quyết định đầu tư một số dự án thuộc lĩnh vực trực
tiếp quản lý của Sở. Tuy nhiên, thực chất việc phân cấp và uỷ quyền trong
quản lý đầu tư và xây dựng về cơ bản mới là việc phân cấp, uỷ quyền
trong thẩm định và phê duyệt các thủ tục đầu tư xây dựng mà chưa gắn
liền với nguồn thu và nhiệm vụ chi của từng cấp ngân sách.
2.2.3.2 Công tác giải phóng mặt bằng
Những năm gần đây, công tác GPMB đã được chú trọng, Thành phố
coi đây là nguyên nhân chủ yếu làm chậm trễ tiến độ thi công các công
trình có GPMB. Nhiều dự án đầu tư có liên quan GPMB tiến hành gặp khó
khăn vì nhiều lý do: một số cơ chế, chính sách trong việc triển khai GPMB
thiếu đồng bộ, chậm hướng dẫn và chưa nhất quán như giá đền bù theo
vùng, hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề, đào tạo...
2.2.3.3 Công tác thẩm định Thiết kế kỹ thuật - Tổng dự toán
Hàng năm, đã thẩm định phê duyệt TKKT - TDT hàng trăm dự án,
cắt giảm hàng trăm tỷ đồng.
2.2.3.4 Công tác lập kế hoạch đấu thầu và tổ chức đấu thầu
Được thực hiện khá nghiêm túc, nhiều văn bản hướng dẫn triển khai
cũng như quy trình quản lý công tác đấu thầu được cụ thể hoá. Hình thức
đấu thầu rộng rãi đã được khuyến khích, đẩy mạnh.
2.2.3.5 Công tác thực hiện dự án đầu tư
Thành phố đã chủ động xây dựng kế hoạch đầu tư hàng năm và rà
soát các thủ tục đầu tư theo đúng qui định của Nhà nước, từng bước hạn
chế tối đa các dự án chưa đủ thủ tục khi triển khai thực hiện dự án.
Việc bố trí vốn cho các dự án thực hiện đã dần từng bước tập trung
vào việc đảm bảo vốn bố trí cho các dự án chuyển tiếp và hoàn thành trong
năm theo qui định.
- Công tác giải ngân vốn đầu tư XDCB đạt kết quả cao dần qua các năm.
2.2.3.6 Công tác thanh, quyết toán vốn đầu tư
Giai đoạn 2001 - 2005, công tác này đã có chuyển biến ở một số
mặt sau:
Thứ nhất, do triển khai giao kế hoạch vốn đầu tư XDCB từ NSNN
ngay từ đầu năm đã tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị chủ động triển
khai sớm việc thực hiện dự án, góp phần cho cơ quan thẩm định thanh toán
vốn đầu tư lên kế hoạch hướng dẫn việc cấp phát từng quý được chuẩn xác.
Thứ hai, cơ quan Kho bạc nhà nước Thành phố có sự tập trung chỉ
đạo việc thanh toán vốn. Chất lượng và qui trình của Kho bạc nhà nước
12
trong kiểm soát thẩm định và thanh quyết toán vốn đã từng bước được
nâng cao.
Thứ ba, các cơ quan tham mưu tổng hợp như Tài chính, Kho bạc
nhà nước, Kế hoạch và Đầu tư, Xây dựng... đã có sự phối hợp trong việc
đôn đốc công tác thanh quyết toán vốn đầu tư các dự án tồn đọng trên tài
khoản Kho bạc nhà nước đạt những kết quả khả quan bước đầu.
2.2.3.7 Thực hiện đánh giá, giám sát đầu tư
Thành phố đã triển khai nhiều nội dung liên quan trong đó tập trung
vào việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện báo cáo giám định đầu
tư, tổ chức tập huấn cho cán bộ ngành kế hoạch đầu tư thực hiện triển khai
công tác giám định đầu tư. Kết quả đạt được bước đầu là:
- Công tác giám sát, đánh giá đầu tư đã góp phần hoàn thiện cơ chế,
chính sách đầu tư và xây dựng làm cho các qui định phù hợp hơn với yêu
cầu thực tế quản lý ở nước ta.
- Thông qua giám định, các cơ quan có thẩm quyền đã kịp thời phát
hiện và giải quyết các tồn tại, tháo gỡ vướng mắc giúp cho chủ đầu tư để
thúc đấy tiến độ triển khai của dự án. Kết quả giám sát, đánh giá cũng là
cơ sở để cấp có thẩm quyền có những quyết định đúng đắn khi quyết định
những vấn đề liên quan đến
2.3 ĐÁNH GIÁ CHUNG HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ XÂY
DỰNG CƠ BẢN TẬP TRUNG TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC THÀNH PHỐ
HÀ NỘI THỜI GIAN QUA
2.3.1 Đánh giá chung về đầu tư xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội
- Tăng trưởng vốn ĐTXH ổn định và luôn giữ ở mức cao được thể
hiện ở tỷ trọng của tổng ĐTXH trên tổng sản phẩm trong nước ở Hà Nội:
năm 2001 là 44,4%, năm 2003 là 45,3%, năm 2005 là 47,1% và năm 2007
là 48,7%.
- Cơ cấu vốn ĐTXH theo ngành kinh tế phản ánh rõ mục tiêu chuyển
đổi cơ cấu kinh tế của Thủ đô theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông
nghiệp. Tính chung cả giai đoạn 2001 - 2007, cơ cấu vốn ĐTXH trên địa
bàn Thành phố là: Đầu tư vào công nghiệp, xây dựng chiếm 35,8%, đầu tư
vào dịch vụ chiếm 62,3%, nông lâm thủy sản chiếm 1,9%. Như vậy tỷ
trọng đầu tư vào dịch vụ lớn tương ứng với tỷ lệ đóng góp của lĩnh vực
này trong nền kinh tế.
- Hiệu quả sử dụng vốn ĐTXH trên địa bàn Thành phố được thể hiện
rõ ở hệ số ICORs qua một số năm, trong đó giai đoạn 2001 - 2007 được
13
đánh dấu bởi sự phát triển mạnh mẽ của đầu tư tư nhân do có những chính
sách và biện pháp khuyến khích khá thông thoáng của Nhà nước.
- Thành phần kinh tế nhà nước vẫn duy trì được hiệu quả đầu tư
tương đối ổn định. Tuy nhiên thời gian gần đây phần lớn các công trình
lớn đã đầu tư chưa phát huy hết công suất sử dụng nên hiệu quả sử dụng có
giảm đi chút ít.
2.3.2 Đánh giá chung về quản lý và sử dụng nguồn vốn đầu tư xây
dựng cơ bản tập trung từ ngân sách thành phố Hà Nội
2.3.2.1 Những đặc điểm và kết quả chủ yếu
Nguồn vốn đầu tư XDCB tập trung từ ngân sách của Thành phố
chiếm tỷ trọng nhỏ (7% - 9% tổng ĐTXH)
Thứ nhất, tốc độ và qui mô của vốn đầu tư XDCB từ NSĐP trong
tổng vốn ĐTXH có xu hướng ngày càng tăng nhằm đáp ứng các nhu cầu
về đầu tư của Thành phố.
Thứ hai, khả năng huy động tài sản mới của các công trình hoàn
thành không ngừng tăng lên về qui mô và giá trị.
Thứ ba, Thành phố đã chủ động khai thác mọi tiềm năng để bổ sung
vào nguồn vốn đầu tư XDCB tập trung từ NSNN có hiệu quả hơn.
Thứ tư, công tác quản lý vốn đầu tư từ ngân sách thành phố đã được
tập trung chỉ đạo, phát huy được vai trò quản lý nhà nước của các ngành,
các cấp.
Thứ năm, cơ cấu phân bổ vốn đầu tư XDCB từ ngân sách thành phố
đã được xây dựng trên nguyên tắc đầu tư tập trung, không phân tán, có
trọng điểm theo những định hướng phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội và phương án cụ thể được HĐND và UBND Thành phố thông qua.
2.3.2.2 Những hạn chế và vấn đề đặt ra trong quản lý đầu tư xây
dựng cơ bản tập trung từ ngân sách thành phố Hà Nội
* Trong công tác kế hoạch hóa:
Thứ nhất, công tác xây dựng kế hoạch trung và dài hạn, trong đó
trọng tâm là kế hoạch 5 năm chưa được quan tâm đúng mức để nâng cao
chất lượng.
Thứ hai, chất lượng xây dựng kế hoạch của các đơn vị nhìn chung
còn hạn chế, chưa bám sát những mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội.
Thứ ba, việc tổ chức giao kế hoạch đã có chuyển biến, tuy nhiên kế
hoạch giao đến cấp thực hiện còn chậm, thường là sau tết Nguyên đán.
14
Thứ tư, việc bố trí kế hoạch chưa quán triệt triệt để nguyên tắc các dự
án được ghi kế hoạch phải đảm bảo thủ tục theo qui định; các dự án nhóm
C chưa được bố trí đủ vốn để hoàn thành dứt điểm trong 2 năm; danh mục
dự án giao kế hoạch còn dàn trải, chưa tập trung, nhiều dự án chỉ cốt được
ghi danh mục kế hoạch để có chủ trương đầu tư.
Thứ năm, việc quyết định giao điều chỉnh, bổ sung kế hoạch đầu tư
XDCB hoặc chỉ đạo điều chỉnh, bổ sung kế hoạch đầu tư XDCB cho các
ngành, cấp trong năm chưa đảm bảo dựa trên nguyên tắc nguồn vốn cân đối.
Thứ sáu, việc phân bổ kế hoạch vốn cho từng dự án gắn với nguồn
vốn cụ thể, một số dự án sử dụng tới 2 đến 3 nguồn vốn đã gây không ít
khó khăn, phức tạp trong quá trình theo dõi cấp phát và điều chỉnh kế
hoạch; có dự án gồm nhiều nguồn vốn, chủ đầu tư chủ yếu hoàn thành vốn
từ NSNN, nguồn khác như vốn vay, vốn huy động thường bỏ ngỏ dẫn đến
ảnh hưởng công tác thanh quyết toán sau này.
Thứ bảy, thực tế qua số liệu kết quả thanh tra, năm 2002 có 259 tài
khoản tồn đọng chủ yếu của các dự án chưa hoàn thành thủ tục quyết toán
vốn đầu tư, có những dự án đã thực hiện từ những năm 1995 trở về trước.
Thứ tám, yêu cầu về thời gian không tương ứng yêu cầu thực tiễn
triển khai các nhiệm vụ của các ngành, cấp.
Thứ chín, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nói chung
và quản lý đầu tư XDCB và trực tiếp công tác xây dựng kế hoạch đầu tư
còn nhiều hạn chế.
Thứ mười, vấn đề kỷ luật hành chính trong thực thi các chỉ tiêu kế
hoạch Thành phố giao chưa được coi trọng. Trách nhiệm tập thể, cá nhân
của các ngành, cấp và chủ đầu tư trong việc không hoàn thành nhiệm vụ
được giao chưa được xem xét thoả đáng.
* Trong công tác chuẩn bị đầu tư:
Thứ nhất, mặc dù đã có qui định cụ thể của Thành phố về quản lý
đầu tư, tuy nhiên qui định còn một số bất cập chậm được điều chỉnh, sửa
đổi, gây khó khăn trong triển khai thực hiện một số dự án.
Thứ hai, việc xây dựng nhiệm vụ và thực hiện chuẩn bị đầu tư còn
dàn trải, số dự án được bố trí vốn thực hiện chuẩn bị đầu tư còn lớn.
Thứ ba, việc bố trí kế hoạch vốn hằng năm so với tổng dự toán chi
phí chuẩn bị đầu tư mới chỉ đạt trên dưới 40% và tỷ lệ giải ngân cũng chỉ
đạt trên 50% kế hoạch.
15
Thứ tư, chất lượng của công tác chuẩn bị đầu tư chưa cao. Qua theo
dõi và giám sát của HĐND, các Ban HĐND Thành phố cho thấy hầu hết
các dự án đầu tư XDCB những năm gần đây của Thành phố đều phải điều
chỉnh tổng mức đầu tư, trong đó nhiều dự án phải bổ sung, điều chỉnh hạng
mục công trình.
Thứ năm, thời gian qua, Thành phố luôn quan tâm bố trí đủ vốn cho
công tác chuẩn bị đầu tư, tuy nhiên thời gian chuẩn bị đầu tư vẫn kéo dài.
* Trong giám sát, đánh giá đầu tư:
Thứ nhất, các sở, ban, ngành, quận, huyện chưa quan tâm đúng mức
đến công tác giám sát, đánh giá đầu tư, thể hiện qua việc chậm tổ chức chỉ
đạo thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư.
Thứ hai, năng lực chủ đầu tư, cán bộ giám sát còn hạn chế về chuyên
môn, thiếu kinh nghiệm tổ chức thực hiện công việc.
Thứ ba, thực hiện chưa tốt chế độ báo cáo: Việc giám sát không kịp
thời, thiếu chủ động nên khi thực hiện có sai sót không được các cơ quan
quản lý xử lý kịp thời, thường là đặt các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt
điều chỉnh dự án vào tình thế đã rồi; gây lãng phí và thất thoát trong đầu tư
xây dựng.
Thứ tư, việc thực hiện giám sát chưa thường xuyên, còn thụ động;
nhiều dự án triển khai chậm dẫn đến tăng vốn, giảm hiệu quả nhưng không
báo cáo, chỉ khi dự án cần phê duyệt điều chỉnh thì mới tiến hành giám sát,
đánh giá đầu tư.
Thứ năm, hệ thống thông tin phục vụ giám sát, đánh giá dự án chưa
tốt. Cho đến nay, Thành phố vẫn chưa tổ chức được cơ sở dữ liệu về hoạt
động đầu tư thuộc phạm vi Thành phố quản lý, chưa chủ động trong việc
tổ chức giám sát, đánh giá, chủ yếu dựa vào báo cáo của cấp dưới.
Thứ sáu, chưa thực hiện tốt nhiệm vụ đánh giá dự án.
Thứ bảy, tổ chức thực hiện giám sát đầu tư cộng đồng chưa tốt.
* Một số hạn chế và bất cập khác:
Thứ nhất, các dự án được giao kế hoạch vốn đầu tư đầu năm nhưng
không đảm bảo đầy đủ các điều kiện để được ghi kế hoạch vốn theo qui định.
Thứ hai, còn một số dự án nhóm C sử dụng vốn NSNN có thời gian
thực hiện đầu tư quá 2 năm.
Thứ ba, công tác thanh quyết toán vẫn là một vấn đề cần được chỉ
đạo quyết liệt, tập trung và dứt điểm.
16
Thứ tư, nguồn vốn đầu tư XDCB mà Trung ương cân đối cho Hà Nội
có qui mô rất khiêm tốn, dẫn đến nhiều dự án đầu tư của Thành phố được
ghi kế hoạch nhưng không có vốn, hoặc có vốn nhưng phải ghi kế hoạch
vốn ra nhiều năm.
Thứ năm, mối quan hệ giữa vốn xây lắp, vốn thiết bị và vốn xây
dựng cơ bản khác trong tổng dự toán của dự án đầu tư (cơ cấu kỹ thuật vốn
đầu tư) còn lạc hậu.
Thứ sáu, trong khâu qui hoạch, vấn đề khớp nối đảm bảo tính đồng bộ
trong các hệ thống qui hoạch phát triển đã và đang triển khai trên địa bàn
Thủ đô có nhiều vấn đề cần phải xem xét rà soát kỹ để đảm bảo thống nhất.
Thứ bảy, các thủ tục hành chính còn cồng kềnh, có những thủ tục phải
qua nhiều khâu thoả thuận vòng vèo..., các ngành, các cấp chưa thực sự làm
hết trách nhiệm, có nơi, có lúc còn gây phiền hà cho chủ đầu tư; năng lực tổ
chức thực hiện các dự án của tư vấn và chủ đầu tư còn yếu kém...
Thứ tám, công tác lập, trình duyệt TKKT - TDT, đấu thầu, giao đất,
đền bù GPMB, thoả thuận các nội dung liên quan đến qui hoạch chi tiết
của dự án, thanh toán khối lượng, quyết toán công trình hoàn thành bàn
giao... nhìn chung tiến độ còn chậm, mất nhiều công đoạn và thời gian.
Ngoài ra, đến nay Thành phố vẫn chưa xây dựng được qui trình quản
lý cấp phát, thanh quyết toán vốn phù hợp từ huy động đến quản lý cấp
phát và quyết toán.
Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN TẬP TRUNG TỪ
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC DO THÀNH PHỐ HÀ NỘI QUẢN LÝ
3.1 MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ NHU CẦU VỀ VỐN
ĐẦU TƯ CỦA HÀ NỘI ĐẾN NĂM 2010
3.1.1 Bối cảnh sử dụng vốn đầu tư nói chung
* Thuận lợi:
- Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhờ sự tập trung đầu tư
khá mạnh của Trung ương và của Thành phố nên mặc dù chưa đạt đến
trình độ hiện đại nhưng hệ thống cơ sở hạ tầng này đã được xây dựng
tương đối đồng bộ.
- Nhờ tốc độ tăng trưởng cao liên tục nhiều năm qua đã tạo ra một số
17
tiền đề vật chất quan trọng để nâng cao ĐTPT. Là trung tâm giao lưu và
giao dịch quốc tế, đồng thời là nơi hội tụ các ngành nghề SXKD truyền
thống, đa dạng; nơi mà Quỹ đất, Quỹ nhà có giá trị rất cao.
- Có đội ngũ nhân lực rất lớn, trong đó số lượng có hàm lượng kỹ
thuật và nghiên cứu tập trung rất đông đảo (trên 60% của cả nước).
* Khó khăn:
- Một số mất cân bằng về hạ tầng kinh tế - xã hội; công tác quản lý
đô thị, đặc biệt quản lý qui hoạch đất đai, nhà ở, giao thông không theo kịp
quá trình đô thị hóa quá nhanh. Tình trạng "xây - đập - xây" trong thi công
các dự án giao thông - điện - nước... đang diễn ra nhiều nhưng chưa có giải
pháp khắc phục triệt để mang tính chiến lược.
- Sự phối hợp chưa hợp lý trong việc khai thác và sử dụng vốn đầu tư
trên địa bàn Thành phố đã làm giảm hiệu quả của các nguồn vốn đầu tư.
- Thủ đô là nơi có số lượng DNNN lớn với phần lớn là máy móc,
công nghệ lạc hậu và cũ nát.
3.1.2 Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội đến năm 2010
Việc sử dụng vốn đầu tư XDCB tập trung từ NSNN do Thành phố
quản lý cần bám sát phương hướng, mục tiêu của qui hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2001 - 2010 của thành phố Hà Nội; Nghị
quyết 15 của Bộ Chính trị và Pháp lệnh Thủ đô như sau:
- Phát triển thủ đô Hà Nội phải có tầm nhìn xa, hướng tới văn minh
hiện đại. Phải giữ vị trí tiên phong trong sự nghiệp CNH, HĐH và đô thị
hóa đối với cả nước nói chung và vùng Bắc Bộ nói riêng.
- Hà Nội phải đổi mới mạnh mẽ để trong thời gian ngắn không thua
kém một số Thủ đô của các nước trong khu vực, giữ được giá trị độc đáo
về Thành phố "An toàn, môi trường và văn hóa" cho nhân dân cả nước và
đông đảo nhân dân thế giới.
- Phát triển Hà Nội phải đặt trong mối quan hệ hợp tác và cạnh tranh
quốc tế, nhất là với các nước trong khu vực.
- Phát triển kinh tế song song với phát triển xã hội và bảo vệ môi
trường sinh thái, lấy hiệu quả kinh tế, kết hợp với bảo đảm an ninh chính
trị, trật tự xã hội và phát triển con người làm tiêu chuẩn cao nhất.
3.1.3 Dự báo nhu cầu về vốn đầu tư của Hà Nội đến năm 2010
Trên cơ sở dự báo các tham số về tốc độ tăng GDP và chỉ số ICORs
thực hiện, có thể xác định nhu cầu vốn đầu tư XDCB tập trung cho giai
đoạn 2006 - 2010 như sau:
18
* Quy mô nguồn vốn: Tổng nguồn vốn ĐTXH trong cả thời kỳ 2006
- 2010 sẽ vào khoảng 210.000 - 225.000 tỷ đồng, bình quân mỗi năm sẽ
cần khoảng 42.000 - 45.000 tỷ đồng. Như vậy tốc độ tăng vốn ĐTXH bình
quân sẽ là 12% - 12,5%/năm.
* Cơ cấu nguồn vốn: Trong tổng vốn ĐTXH giai đoạn 2006 - 2010,
nguồn vốn từ NSNN sẽ chiếm 25% - 27%, phần các DNNN tự đầu tư
chiếm 31,8% , từ các doanh nghiệp ngoài nhà nước là 18,8%, hộ gia đình
7,4% và từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 12,7%. Cơ cấu vốn đầu tư
cho công nghiệp - xây dựng sẽ là 41% - 42%, cho thương mại - dịch vụ là
54-55 % và cho nông nghiệp là 2,0% - 2,5%; vốn đầu tư XDCB tập trung
từ NSNN chỉ chiếm khoảng 16,2% tổng vốn đầu tư, nếu tính cả vốn ODA
thì chiếm khoảng 20%. Tuy phần vốn này chiếm tỷ trọng nhỏ, song đây là
nguồn vốn có vị trí rất quan trọng, nhu cầu vốn đầu tư XDCB tập trung từ
NSNN giai đoạn 2006 - 2010 khoảng 60.000 tỷ đồng, trong đó đầu tư
XDCB từ NSĐP khoảng 30.000 tỷ đồng.
3.2 CÁC QUAN ĐIỂM SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN TỪ
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC DO THÀNH PHỐ HÀ NỘI QUẢN LÝ
Thứ nhất, cần có sự chỉ đạo tập trung, thống nhất từ Trung ương đến
địa phương nhằm khẩn trương tổ chức thực hiện, kiện toàn hệ thống chính
trị thành phố Hà Nội sau khi điều chỉnh địa giới nhằm bảo đảm mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô.
Thứ hai, trong tương lai trung hạn, việc sử dụng vốn đầu tư XDCB
tập trung thuộc NSNN vẫn có vai trò quyết định việc ĐTPT cơ sở hạ tầng
kinh tế, kỹ thuật và văn hoá xã hội và thu hút các nguồn vốn khác.
Thứ ba, gắn quá trình sử dụng vốn đầu tư XDCB tập trung với quá
trình cải cách hành chính, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước
trên địa bàn Thủ đô, đẩy mạnh phân cấp trong quản lý nhà nước.
Thứ tư, sử dụng vốn đầu tư XDCB tập trung từ NSNN phải gắn liền
với thực hiện mục tiêu phát triển KTTT có sự điều tiết của Nhà nước.
3.3 NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN TẬP TRUNG TỪ NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC DO THÀNH PHỐ HÀ NỘI QUẢN LÝ
Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB tập trung từ NSNN
do thành phố Hà Nội quản lý, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp mang
tính hệ thống, nhất quán từ các cấp, ngành, trong đó đặc biệt coi trọng các
giải pháp sau:
19
3.3.1 Nâng cao chất lượng qui hoạch và thực hiện quản lý đầu tư xây
dựng theo qui hoạch
Một: Đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các qui hoạch ngành, qui hoạch
chi tiết hạ tầng các quận, huyện, qui hoạch chi tiết các quận mới thành lập,
qui hoạch chi tiết các xã, phường, khu vực đang và sắp đô thị hoá mạnh ...
làm căn cứ triển khai các dự án đầu tư.
Hai: Rà soát đánh giá tình hình triển khai các qui hoạch, đảm bảo
tính đồng bộ, khớp nối và thống nhất trong hệ thống qui hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, qui hoạch phát triển ngành và qui hoạch xây dựng.
Ba: Tập trung chỉ đạo và ưu tiên bố trí vốn để triển khai các qui
hoạch chi tiết; đảm bảo qui hoạch đi trước một bước, phục vụ triển khai
các dự án đầu tư.
Bốn: Kiểm tra việc thực hiện qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến
năm 2010 cũng như kế hoạch hàng năm; tiếp tục đổi mới qui trình thủ tục
giao đất, cho thuê đất và thu hồi đất; hạn chế để xảy ra trường hợp giao đất
nhưng sử dụng lãng phí.
Năm: Qui hoạch phát triển các khu đô thị mới phải tính toán đảm
bảo qui mô phát triển dân số hợp lý, phân bố lại dân cư trên địa bàn, giãn
dân phố cổ, phố cũ; gắn kết, hài hoà môi trường, cảnh quan kiến trúc và
phát triển bền vững của Thủ đô.
Sáu: Qui hoạch chi tiết sử dụng đất phải dành đủ Quỹ đất và gắn với
các biện pháp phát triển hạ tầng, phát triển hệ thống giao thông.
3.3.2 Hoàn thiện công tác kế hoạch hoá vốn đầu tư xây dựng cơ bản
và đảm bảo tính công khai, minh bạch, chống khép kín trong đầu tư
từ ngân sách nhà nước
Một: Nâng cao chất lượng việc lập kế hoạch vốn đầu tư trung và dài
hạn, đặc biệt là kế hoạch 5 năm.
Hai: Cầ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung từ ngân sách nhà nước do thành phố Hà Nội quản lý.pdf