Tóm tắt Luận án Nghệ thuật trang trí truyền thống trên kiến trúc phong cách Đông Dương ở Thành phố Hồ Chí Minh - Bùi Bá Nguyên Khanh

Các chủ đề (motip) văn hóa truyền thống phương Đông

trên Kiến trúc Phong cách Đông Dương

2.2.1. Motip Tam đa Phúc Lộc Thọ

Tức ba cái nhiều: nhiều phúc tức nhiều may mắn, nhiều thọ tức

sống lâu, nhiều lộc tức có nhiều b ng lộc.

2.2.2. Motip Tứ linh - Tứ quý- Tứ thời

Trong văn hóa c truyền phương Đông, đó là 4 con vật linh

thiêng, có nhiều phép màu nhiệm: Rồng - Kỳ Lân - Rùa - Phượng

hoàng (Long - Lân - Qui - Phụng). Đề tài tứ linh xuất hiện rất sớm ở

Việt Nam, có thể vào thời đầu Công Nguyên và phát triển mạnh từ

thời Lý với huyền thoại “Thăng Long”. Đề tài ảnh hưởng từ Trung

Hoa, xuất hiện khoảng thế kỷ XVII (tại Việt Nam). Tứ thời thường12

thể hiện bộ pano 4 miếng trên mỗi miếng vẽ hoặc chạm cây mai, cây

lan, cây cúc và cây tre có thể có hoa kèm theo.

2.2.3. Motip Bát bửu

Là tám loại đồ quí theo người Trung Quốc xưa đánh giá. Tác giả

Trần Lâm Biền cho biết: “. (ở Việt Nam) vào giữa thế kỷ XVII

chúng (bát bửu) xuất hiện không đầy đủ cả bộ.”

2.2.4. Motip bát giác

Là một cách diễn đạt đơn giản, trực quan nhất cho khái niệm

Bát quái. Trong nhiều nền văn hóa khác như phương Tây, Hồi giáo,

Ấn giáo, Shiva giáo (Champa). hình bát giác được sử dụng khá ph

biến, tuy nhiên, hàm ý văn hóa của những motip này hoàn toàn khác

biệt. không liên quan gì đến Bát quái. Nhưng trong những nền văn

hóa Hán hóa như Việt Nam, thì tất cả những hình thức có tám cạnh

(bát giác) đều được qui cho ý nghĩa của Bát quái.

 

pdf27 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 640 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghệ thuật trang trí truyền thống trên kiến trúc phong cách Đông Dương ở Thành phố Hồ Chí Minh - Bùi Bá Nguyên Khanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gành nghệ thuật trang trí kiến trúc và các đề tài liên quan đến lý luận và lịch sử mỹ thuật. + Góp phần làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công việc bảo tồn, phục chế, phục dựng, trùng tu... các chi tiết trang trí mỹ thuật truyền thống trên Kiến trúc phong cách Đông Dương trên phạm vi cả nước. 7. Kết quả dự kiến của luận án - Nghệ thuật trang trí truyền thống trên Kiến trúc phong cách Đông Dương tại Sài Gòn với những mô tả, t ng kết đầy đủ, toàn diện nhất trong điều kiện nghiên cứu hiện tại. Những đóng góp thực tiễn của nó đối với nên mỹ thuật Việt Nam đương đại. 8. Cấu trúc của luận án: có ba phần chính và phụ lục Phần Mở đầu (15 trang); Phần Nội dung nghiên cứu: ba chương (105 trang) gồm: + Chương 1. T ng quan về nghệ thuật trang trí tru ền thống trên iến trúc Phong cách Đông Dương (32 trang); + Chương 2. Cơ sở hoa học nghiên cứu các nghệ thuật trang trí tru ền thống trên iến trúc Phong cách Đông Dương (37 trang); + Chương 3. Đánh giá nghệ thuật trang trí tru ền thống trên iến trúc phong cách Đông Dương ở TP. Hồ Chí Minh (36 trang); 6 Phần ết luận (04 trang); Phụ lục gồm: giải thích từ ngữ, khái niệm được sử dụng; các bảng thống kê; hình ảnh minh hoạ... làm rõ nội dung luận án. Chƣơng 1 TỔNG QUAN VỀ NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRUYỀN THỐNG TRÊN KIẾN TRÚC PHONG CÁCH ĐÔNG DƢƠNG 1.1. Sự xuất hiện của các motip nghệ thuật trang trí truyền thống trên Kiến trúc Phong cách Đông Dƣơng Năm 1923, KTS E. Hebrard đã đề xuất một cách thức thiết kế kiến trúc mới, phù hợp với các địa phương ở xứ Đông Dương, mà hiện nay được gọi là Kiến trúc phong cách Đông Dương và để gia tăng chất lượng nghệ thuật, các họa tiết, motip trang trí mỹ thuật truyền thống địa phương – đã được sử dụng trên phong cách kiến trúc mới này. Với đặc điểm chung là: sử dụng những giải pháp kết cấu, cấu tạo của kiến trúc bản địa để khắc phục những bất lợi của thời tiết khí hậu, điều mà một hình mẫu kiến trúc phương Tây thuần túy tỏ ra có những bất cập. 1.2 Các hình thức nghệ thuật trang trí truyền thống trên Kiến trúc Phong cách Đông Dƣơng: Đó là 12 motip sau 1.2.1. Motip Tam đa (Phúc Lộc Thọ) Được sử dụng nhiều nhất, đặc biệt là motip Thọ. 1.2.2. Motip Tứ linh - Tứ quý - Tứ thời Tứ linh: Hình tượng rồng phụng được thể hiện cách điệu như dây lá hoá rồng, trúc hoá rồng... thì hình tượng đó lại chủ yếu mang tính nghệ thuật, ít có ý nghĩa của sự biểu lộ uy quyền, hoặc hàm ý quý phái, thanh thoát, nhẹ nhàng. Tứ thời là sự ám chỉ thời gian luân chuyển không ngừng nghỉ, nên cách thức trình bày này mang ý nghĩa: sự tưởng nhớ “trước sau 7 như một” trọn vẹn trong cả bốn mùa đối với công lao của những người được tưởng niệm 1.2.3. Motip Ngũ hành Sự biểu hiện của motip Ngũ hành trong nghệ thuật trang trí truyền thống nhìn chung khá đơn giản, mặc dù nội dung triết lý của khái niệm này thực sự khá phức tạp. 1.2.4. Motip Bát bửu Bát bửu là tám loại đồ quí theo đánh giá của người Trung Quốc xưa, đâ cũng là những quan niệm có nguồn gốc Trung Quốc, nhưng hiện chưa xác định thời điểm du nhập vào Việt Nam. Tuy nhiên khi du nhập vào Việt Nam thì phần lớn cách thức biểu đạt chỉ còn giữ lại những khái niệm, còn những hình thức diễn đạt thì hầu như đã được "bản địa hóa", Việt hóa. 1.2.5. Motip hình bát giác Có nguồn gốc và là sự tượng trưng cho khái niệm Bát quái trong Kinh Dịch. 1.2.6. Motip Cửu cung “Cửu cung” cho thấ sự nhất quán về quan niệm triết học trong thiết ế cũng như sự hợp lý về ngu ên lý thị giác. 1.2.7. Motip Chim thú Chim: 4 loại phụng, hạc, trĩ, công thể hiện tại Đền thờ vua Hùng vẽ trên các bức tranh tường nhiều màu. Các bức tranh tường vẽ các loài chim quý với loại cây cặp đôi với chúng như: trúc - tước (chim công và cây trúc), phụng - ngô đồng, trĩ - mẫu đơn tùng sen - hạc. Long mã cổ đồ: Thời Nguyễn, long mã c đồ thường được trang trí tại những công trình kiến trúc lớn hoặc công trình mang ý nghĩa Dịch học như cung điện, lăng tẩm cũng như đền miếu và thậm chí nhà riêng của quan chức... Với kiểu tượng tròn chạm khắc hoặc phù 8 điêu. Lăng Trương Vĩnh Ký đã sử dụng đồ án này nhưng với một phong cách khá khác biệt. 1.2.8. Motip Thực vật Các loại cây cối, hoa lá... được sử dụng để làm motip trang trí, bao gồm: lá bồ đề, hoa chanh (hoa thị), hoa sen, búp sen, cây tùng, cây ngô đồng, cây hoa mẫu đơn... được chế tác bằng các phương pháp đắp vữa, gỗ chạm, tr , vẽ tranh tường bằng màu... Các loại dây lá hoá rồng, dây lá hóa phụng, dây lá hoá chữ Thọ và motip cây tùng, cây ngô đồng, cây hoa mẫu đơn, cây tre cặp đôi. 1.2.9. Cửa võng (bao lam) Còn gọi là Y môn, nghĩa là: “áo của chiếc cửa”. Với ý nghĩa đó, nó thường được đặt ở vị trí giữa 2 cây cột của nơi thờ tự các vị thần, Phật trong đình, chùa với chức năng như cửa vào của một không gian trang trọng nhất của căn nhà. Cách đặt tên như vậy chứa đựng những nội dung văn hóa rất sâu sa, nhưng người Việt lại thường nôm na hóa trong thực tế thành cửa võng, bao lam. 1.2.10. Hoa văn hình học - hồi văn chữ Vạn (卍) Hồi văn chữ Vạn không chỉ thuần túy là một dạng trang trí, nhưng khi kết hợp với những motip khác thì có thể khiến cho những ý nghĩa văn hóa sâu xa. 1.2.11. Motip chữ Hán Làm tăng thêm vẻ Đông phương cho các công trình. 1.3. Một số nhận định sơ bộ của giới nghiên cứu về các motip văn hóa truyền thống phƣơng Đông trên Kiến trúc Phong cách Đông Dƣơng 1.3.1. Các nghiên cứu về mỹ thuật Các nghiên cứu về mỹ thuật Trung Hoa, về mỹ thuật c Việt Nam... cho thấy nguồn gốc Trung Quốc của nhiều đề tài trang trí mỹ 9 thuật được du nhập vào Việt Nam và trở thành nét "truyền thống". Đồng thời một số trang trí mỹ thuật c thuần Việt như lá đề, hoa thị (hoa chanh), hoa sen ... cũng hiện diện tại Kiến trúc phong cách Đông Dương ở TP. HCM. Điều này chứng minh, trên Kiến trúc phong cách Đông Dương không chỉ có hoa văn, biểu tượng văn hoá có nguồn gốc Trung Quốc mà còn có sự kế thừa biểu tượng và hoa văn trang trí mỹ thuật truyền thống thuần Việt. 1.3.2. Các nghiên cứu về văn hoá Trong quá trình giao lưu văn hoá với Trung Hoa, nền văn hoá Việt Nam đã tiếp thu khá nhiều biểu tượng nghệ thuật từ nền văn hoá lâu đời này. Cùng với các bộ tam đa, tứ linh, tứ quý, ngũ phúc... mà chúng tôi đã giới thiệu... bát tiên cũng là một biểu tượng có vai trò quan trọng trong văn hoá, tín ngưỡng và nghệ thuật truyền thống ở Việt Nam. Trong quá trình giao lưu đó, văn hoá Việt Nam đã thu nạp và Việt hoá các yếu tố văn hoá Trung Hoa trở thành những biểu tượng truyền thống gần gũi của người Việt. 1.3.3. Các chuyên khảo về văn hóa TP. Hồ chí Minh Chủ đề trang trí mỹ thuật của Việt Nam thường gặp trên Kiến trúc Phong cách Đông Dương như: Tam đa, Tứ linh, tứ quý, Bát bửu... những biểu tượng tuy có cùng tên gọi, cùng chứa đựng những hàm ý triết học, văn hoá, nhưng về hình thức biểu đạt lại khác với Trung Hoa. Cho nên, những chủ đề, motip nói trên thực tế đã trở thành những yếu tố văn hoá chung của khu vực Đông Á. 1.3.4. Các nghiên cứu về kiến trúc cổ Việt Nam Đề tài và nội dung đồ án có tính chất phong kiến, tôn giáo thường là tứ linh, bát vật. Ngoài tứ linh còn thêm cá, dơi, hạc, h và những động vật khác như voi, ngựa, chóvà hình người tiên nữ cưỡi phượng, vũ nữ và tấu nhạcvề thảo mộc, hoa quả có bát bảo: quả 10 bầu, bút lông, quạt vả, ống tiêu, giỏ hoa, cây kiếm, cái khánh và phất trần; bát quả: đào, lựu, mận, lê, phật thủ, nho, bầu và bí; tứ quý hoặc tứ thời như: mai (mùa Xuân), sen (mùa hạ), cúc (mùa Thu), trúc hoặc tùng (mùa Đông). Những hiện tượng thiên nhiên như mặt trời, mây, sông nước, ngọn lửahoặc tách riêng hoặc kết hợp như rồng với mây, cá với nước, long mã phụ đồtrong sáng tạo nghệ thuật, những người thợ thủ công Việt Nam còn biết cách điệu, biến hình các đề tài nói trên cùng với những chữ nho (tượng hình) dùng làm văn tự trong xã hội xưa được thể hiện theo lối viết Triện để sử dụng làm hoạ tiết trang trí kiến trúc hồi văn, như các chữ Phúc Lộc Thọ Hỷtrong các công trình c và chữ vạn của Phật giáocùng với các hình ngọn lửa, hoa văn cánh sen uốn lượn. 1.3.5. Những ý kiến đáng chú ý khác Những chủ đề của nghệ thuật trang trí trên Kiến trúc phong cách Đông Dương đều là các đề tài trang trí của người Việt Nam, hoặc tiếp thu từ Trung Quốc, Ấn Độ... nên chúng thuộc về nghệ thuật trang trí truyền thống của người Việt. Và hầu hết các nhà nghiên cứu văn hoá, iến trúc và mỹ thuật đều thống nhất rằng các motip trang trí trên iến trúc phong cách Đông Dương đã thuộc nghệ thuật trang trí tru ền thống Việt Nam. Quá trình nà được gọi là tiếp biến văn hóa (acculturation) hoặc bản địa hóa (vernacularize). Tức là, sự biến đ i của các ếu tố văn hóa ngoại lai trong quá trình giao lưu, tiếp xúc, học hỏi lẫn nhau. Tiểu kết Sự thừa nhận tính chất của giao lưu văn hóa trong lịch sử Việt Nam - Trung Hoa với hệ quả tất yếu là ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa đã được người Việt Nam tiếp thu, cải biến và đã từ rất lâu đời, chúng trở thành một bộ phận hữu cơ của văn hóa truyền thống Việt Nam. 11 Chƣơng 2 CƠ SỞ KHOA HỌC NGHIÊN CỨU CÁC NGHỆ TRANG TRÍ TRUYỀN THỐNG TRÊN KIẾN TRÚC PHONG CÁCH ĐÔNG DƯƠNG 2.1. Các quan niệm - triết lý trong văn hóa truyền thống phƣơng Đông có ảnh hƣởng trực tiếp đến các motip nghệ thuật trang trí truyền thống trên Kiến trúc Phong cách Đông Dƣơng Các quan niệm - triết lý văn hóa như: Triết lý Âm – Dương, Quan niệm Tam tài, Quan niệm Tứ tượng, Triết lý Ngũ hành, Quan niệm Bát quái, Quan niệm Cửu cung có một vị trí vô cùng quan trọng trong nền văn hóa Phương Đông và ở Việt Nam. Những quan niệm - triết lý văn hóa nà chính là cơ sở hoa học then chốt để tìm hiểu những biểu hiện đã được vận dụng trong các công trình iến trúc phong cách Đông Dương ở Việt Nam nói chung và ở Sài Gòn nói riêng, với những biến tấu, sáng tạo rất điêu lu ện của những nghệ nhân Việt Nam. 2.2. Các chủ đề (motip) văn hóa truyền thống phƣơng Đông trên Kiến trúc Phong cách Đông Dƣơng 2.2.1. Motip Tam đa Phúc Lộc Thọ Tức ba cái nhiều: nhiều phúc tức nhiều may mắn, nhiều thọ tức sống lâu, nhiều lộc tức có nhiều b ng lộc. 2.2.2. Motip Tứ linh - Tứ quý- Tứ thời Trong văn hóa c truyền phương Đông, đó là 4 con vật linh thiêng, có nhiều phép màu nhiệm: Rồng - Kỳ Lân - Rùa - Phượng hoàng (Long - Lân - Qui - Phụng). Đề tài tứ linh xuất hiện rất sớm ở Việt Nam, có thể vào thời đầu Công Nguyên và phát triển mạnh từ thời Lý với huyền thoại “Thăng Long”. Đề tài ảnh hưởng từ Trung Hoa, xuất hiện khoảng thế kỷ XVII (tại Việt Nam). Tứ thời thường 12 thể hiện bộ pano 4 miếng trên mỗi miếng vẽ hoặc chạm cây mai, cây lan, cây cúc và cây tre có thể có hoa kèm theo. 2.2.3. Motip Bát bửu Là tám loại đồ quí theo người Trung Quốc xưa đánh giá. Tác giả Trần Lâm Biền cho biết: “... (ở Việt Nam) vào giữa thế kỷ XVII chúng (bát bửu) xuất hiện không đầy đủ cả bộ...” 2.2.4. Motip bát giác Là một cách diễn đạt đơn giản, trực quan nhất cho khái niệm Bát quái. Trong nhiều nền văn hóa khác như phương Tây, Hồi giáo, Ấn giáo, Shiva giáo (Champa)... hình bát giác được sử dụng khá ph biến, tuy nhiên, hàm ý văn hóa của những motip này hoàn toàn khác biệt. không liên quan gì đến Bát quái. Nhưng trong những nền văn hóa Hán hóa như Việt Nam, thì tất cả những hình thức có tám cạnh (bát giác) đều được qui cho ý nghĩa của Bát quái. 2.2.5. Motip chim thú (phụng, hạc, trĩ, công, long mã) Đó là các hình tượng phụng, hạc, trĩ, công, long mã... đâ cũng là những hình tượng xuất hiện tại Việt Nam từ lâu đời, trong đó trĩ, long mã có nguồn gốc Trung Hoa. Ngoài hình tượng phượng hoàng và long mã đã nêu ở phần Tứ linh và chim thú, ba hình tượng còn lại là: hạc, trĩ và công cũng đều có chứa một hàm ý triết học hoặc văn hóa sâu sắc. 2.2.6. Motip thực vật (lá đề, hoa sen, hoa chanh) Ý nghĩa của mỗi hình tượng cây cối, hoa lá là khá phong phú, tùy thuộc vào thể loại chức năng. 2.2.7. Motip cửa võng Cửa võng là một thành phần quan trọng của nghệ thuật trang trí nội thất trong iến trúc c Việt Nam, thường được làm bằng gỗ, chạm thủng, sơn son, thếp vàng để trang trí trong các đình, chùa và nhà cửa của những tầng lớp trên. Cửa võng (phía Nam gọi là bao 13 lam): là một diềm bằng gỗ, chạm thủng những đề tài trang trí đa dạng tù theo tính chất của việc thờ tự. 2.2.8. Hoa văn hình học - hồi văn chữ Vạn Là những trang trí bằng đường nét hình học ỷ hà để tạo ra những hoa văn có tính lặp lại (hồi văn). Đâ là một thể thức trang trí thường gặp trong iến trúc c cả ở phương Đông lẫn phương Tâ . 2.2.9. Motip chữ Hán Do có tính chất tượng hình, nên chữ Hán há phù hợp với nhu cầu trang trí, cách điệu và là một trong những dạng nghệ thuật trang trí há đặc biệt, tức là sử dụng văn tự để trang trí cho iến trúc. 2.2.10. Motip gạch hoa chanh Gạch hoa chanh là chất liệu gốm được sử dụng rất nhiều trên các công trình Kiến trúc Phong cách Đông Dương. Về hình thức và tên gọi thì nó thuộc nhóm các chủ đề nghệ thuật trang trí thực vật. Chúng tôi xếp gạch hoa chanh như một motip trang trí độc lập. 2.3. Mối quan hệ giữa các motip nghệ thuật trang trí truyền thống trên Kiến trúc Phong cách Đông Dƣơng với các triết lý - quan niệm văn hóa cổ truyền Diện mạo và tính chất của nghệ thuật trang trí truyền thống được bộc lộ qua hai nội dung cụ thể là: + Các triết lý - quan niệm văn hóa bao gồm: Âm Dương, Tam tài, Tứ tượng, Ngũ hành, Bát quái, Cửu cung. Về cơ bản thì hầu hết đâ là những cơ sở văn hóa để hình thành nên các motip trang trí c truyền. Nhưng có những triết lý - quan niệm trở thành/ chính là motip trang trí (Ngũ hành, Bát quái, Cửu cung); lại cũng có quan niệm chỉ ảnh hưởng đến kiến trúc mà thôi (Tam tài). + Các motip trang trí bao gồm: Tam đa, Tứ linh - Tứ quý, Ngũ hành, Bát bửu, hình bát giác, Cửu cung, chim thú, thực vật, cửa võng, hồi văn - hình học, chữ 14 Hán, chữ Vạn. Trong đó, Tứ tượng được thể hiện qua các motip trang trí về Tứ linh, Tứ quý; Ngũ hành được thể hiện qua các motip trang trí có 5 hình hình học lồng vào; Bát quái được thể hiện qua các motip trang trí hình bát giác; Cửu cung được thể hiện qua các motip trang trí hình 9 ô... Những motip còn lại thì một số trong đó có nguồn gốc Trung Hoa như: Tam đa, Tứ linh, Tứ quý, Bát bửu, hồi văn, chữ Hán; một số có nguồn gốc Ấn Độ như: chữ Vạn; nguồn gốc pha trộn Việt - Hoa là các motip chim thú, thực vật; duy nhất có motip cửa võng là thuần Việt. 2.4. Cơ sở lý luận của văn hóa - nghệ thuật hiện đại 2.4.1. Danh xưng “Kiến trúc phong cách Đông Dương” Là một sự phản ánh quá trình nhận thức chung của giới nghiên cứu đối với các thành tựu cụ thể trong những kiến trúc - nghệ thuật hưởng ứng đề xuất của TS Hesbrard và thực hiện từ 1923 - 1942. 2.4.2. Một số lý luận của văn hóa - nghệ thuật hiện đại + Lý luận văn hóa và giao thoa văn hóa: iến trúc - nghệ thuật Việt Nam giai đoạn từ cuối thế ỷ XIX đến giữa thế ỷ XX đã thể hiện một sự cộng sinh văn hóa đặc sắc. Đó là sự tự điều chỉnh và tự tha đ i thái độ của các iến trúc sư người Pháp từ chỗ áp đặt hòan tòan trong sang thừa nhận để thích nghi. Về phía người Việt Nam cũng có sự tha đ i thái độ tương ứng. Từ chỗ buộc phải chấp nhận - vì bị áp đặt sang việc thừa nhận để dung hợp, và cuối cùng là những nỗ lực tiếp biến, khi tìm cách chủ động tiếp nhận (để hội nhập) các ếu tố iến trúc hiện đại tiếp thu được của phương Tâ . NNC Phan Ngọc đã viết: “chỉ có 60 năm (1886 - 1945), văn hoá Pháp đã thực hiện được điều mà văn hoá Trung Hoa hông làm n i qua hai mươi thế ỷ: cấu trúc lại một nền văn hoá phương Đông theo mẫu mực hiện đại, châu Âu”. 15 + Lý luận về tính nhập nhằng (Ambiguity) trong iến trúc của Robert Venturi - KTS Hậu Hiện đại người Mỹ: Venturi khái quát cái tính chất đặc biệt này bằng cụm từ “both – and”, tạm dịch là đặc tính “vừa là – vừa là”. Tức là, do kiến trúc là một vật thể nghệ thuật có “đặc tính lưỡng năng" (double functioning) hay là "sự tối nghĩa, tính nhập nhằng (ambiguity) hoặc thái độ nước đôi”. Như vậy, theo quan điểm của Venturi thì kiến trúc là một thực thể phức tạp, mâu thuẫn, có thể vừa là cái này vừa là cái kia... điều này trong thực tế nghệ thuật là hoàn toàn đúng. + Lý thuyết cộng sinh của Kisho Kuro awa (1934 -2007): Có thể thấy rõ là những biểu thị cơ bản trong lý thuyết của Kurokawa đều là sự cộng sinh giữa quá khứ và hiện đại và giữa các nền văn hoá với nhau, ở đâ là văn hóa, quan niệm và nghệ thuật trang trí truyền thống Việt Nam (quá khứ) với các giải pháp kiến trúc C điển phương Tây. + Lý thuyết về ký hiệu học: Louis Trolle Hjelmslev là một nhà Ký hiệu học người Đan Mạch, ông đã phân biệt Ký hiệu học biểu thị và Ký hiệu học hàm nghĩa. Lý luận của Hjelmslev được Roland Barthess, một nhà ký hiệu học người Pháp tiếp thu và giải thích: - Ký hiệu học biểu thị bao gồm hai mặt: Hình ảnh, hình tượng biểu thị và ý nghĩa biểu đạt chúng thành một ký hiệu thông thường (đơn nghĩa) - Ký hiệu học hàm nghĩa bao hàm hai mặt: ký hiệu biểu thị – hiển ngôn và ký hiệu ẩn dụ - mật ngôn. Chúng tạo nên thế giới của “siêu ký hiệu – thế giới biểu tượng” (đa nghĩa) [19, 20, Tr.3 - 4]. Như vậy, một hình tượng nghệ thuật hay một ký hiệu nghệ thuật là ký hiệu biểu thị và khi được gán cho những ý nghĩa hàm chứa trong đó thì trở thành ký hiệu hàm nghĩa và có tính biểu tượng. 16 + Lý thuyết về biểu tượng học: Biểu tượng (Dictionary of Symbol), Carl G. Liungman định nghĩa biểu tượng như sau: “Những gì được gọi là biểu tượng khi nó được một nhóm người đồng ý rằng nó có nhiều hơn một ý nghĩa là đại diện cho bản thân nó”. Một định nghĩa khác về biểu tượng được NNC Đinh Hồng Hải dẫn ra trong cuốn Nghiên cứu biểu tượng- một số hướng tiếp cận lý thuyết cũng cần được nhắc đến: “biểu tượng là một đối tượng đại diện cho một đối tượng hác”. Các hình tượng nghệ thuật tuy có những ý nghĩa khác nhau, khi được xã hội công nhận sẽ trở thành biểu tượng. Như vậy, một tác phẩm nghệ thuật ngoài đặc trưng riêng là tính hình tượng còn bao hàm cả tính biểu tượng. Tiểu kết Nghệ thuật trang trí tru ền thống trên iến trúc Phong cách Đông Dương ở Sài Gòn với các cơ sở lý luận và các quan điểm lý thu ết đã viện dẫn. Các lý luận của văn hóa - nghệ thuật hiện đại, là những hệ thống lý luận hoàn chỉnh, có tính logic cao. Đâ chính là sự b sung cho hệ thống triết lý - quan niệm văn hóa c đại có tính chất trực quan và inh nghiệm. Chƣơng 3 ĐÁNH GIÁ NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TRUYỀN THỐNG TRÊN KIẾN TRÚC PHONG CÁCH ĐÔNG DƢƠNG Ở TP. HỒ CHÍ MINH 3.1. Đối chiếu với một số motip mỹ thuật tiền đề 3.1.1. Đối chiếu với motip mỹ thuật bản địa - truyền thống Một số trang trí mỹ thuật trên các công trình Kiến trúc Phong cách Đông Dương ở Sài Gòn là bản sao trực tiếp từ các hoa văn thời Nguyễn, hoặc chịu ảnh hưởng sâu sắc từ mỹ thuật Nguyễn. Các hoa văn, đồ án... được tiếp thu từ các nền văn minh khác trong quá trình 17 giao thoa, tiếp xúc của lịch sử đã được biến đ i. Các yếu tố văn hóa ngoại lai trong quá trình giao lưu, tiếp xúc, học hỏi đã được Việt hóa. Đó là hiện tượng tiếp biến văn hóa (acculturation) hoặc bản địa hóa(vernacularize). Như vậ , các loại hoa văn, đồ án trang trí trên iến trúc phong cách Đông Dương ở Sài Gòn đều có mối quan hệ với nghệ thuật trang trí tru ền thống, chúng thực là sự nối dài của nghệ thuật trang trí tru ền thống Việt Nam mà xa nhất là từ thời Lý với những hoa văn búp sen, lá đề; thời Lê với hoa văn hoa chanh thuần Việt; Chúng còn là sự nối dài những hoa văn đồ án tiếp thu của Trung Quốc với nét Việt hoá của đề tài Tam Đa, Tứ Linh, Tứ Thời, Bát Bảo hoặc tiếp thu của Ấn Độ với hồi văn chữ Vạn, lá bồ đề 3.1.2. Đối chiếu với các motip trang trí truyền thống của Trung Hoa Các hoa văn như lưỡng long triều nguyệt, chữ thọ, bát bửu trên Kiến trúc phong cách Đông Dương ở Tp. HCM đều có những khác biệt so với motip truyền thống Trung Hoa, không phải là những bản sao chép. Dấu ấn, ảnh hưởng lớn nhất của văn hóa Trung Hoa đối với kiến trúc Việt c chủ yếu là trên phương diện quan niệm, tư tưởng, triết học chứ không phải là ở các motip diễn đạt của chúng. 3.1.3 Đối chiếu với motip mỹ thuật phương Tây Kiến trúc phong cách Đông Dương ra đời với sự hiện diện đồng thời của hoạ tiết trang trí truyền thống Việt Nam và hoạ tiết trang trí phương Tây như: búp hoa châu Âu, chữ Latin... chính là sự hội tụ nghệ thuật Đông - Tây, tạo cho kiến trúc Tp. HCM càng thêm đa dạng. Đó là một dạng quan hệ mỹ thuật và tiếp biến văn hoá trong nghệ thuật trang trí. 18 3.1.4. Đối chiếu với các motip trang trí truyền thống trên Kiến trúc phong cách Đông Dương ở Hà Nội Nhiều motip trang trí truyền thống trên Kiến trúc phong cách Đông Dương tại Hà Nội đã không được thực hiện như ở Sài Gòn. Những motip này tại Hà Nội, tuy vẫn sử dụng những sản phẩm của văn hóa truyền thống, nhưng lại là những phần “tinh hoa” nhất của phương Đông như: Âm – Dương, bát quái, Hồi văn, chữ Hán, chữ Vạn... Như vậy, tuy cùng một “xu hướng” nhưng Kiến trúc phong cách Đông Dương ở Hà Nội và TP.HCM chỉ có sự tương đồng trong việc sử dụng triết lý Đông phương và các chủ đề trang trí nhưng vẫn khác nhau ở biểu hiện cụ thể, sự diễn tả chi tiết và kỹ thuật thực hiện. 3.2. Những giá trị của các motip nghệ thuật trang trí truyền thống trên Kiến trúc Phong cách Đông Dƣơng 3.2.1. Chủ đề (motip) trang trí Chủ đề là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với một tác phẩm nghệ thuật nói chung và nghệ thuật trang trí nói riêng. Chủ đề chính là nội dung văn hóa - nghệ thuật mà tác giả cần truyền đạt. Trong nhóm các chủ đề trang trí của Kiến trúc Phong cách Đông Dương ở Sài Gòn, những triết lý - quan niệm văn hóa c truyền đã được sử dụng rất phong phú, với những ý nghĩa tốt đẹp tương hỗ hoặc làm nền cho nhau, đã góp phần tạo cho nghệ thuật trang trí đạt được những giá trị quan trọng cả về văn hoá - học thuật và chuyên môn. 3.2.2. Sử dụng motip - ngôn ngữ nghệ thuật địa phương Ngôn ngữ tạo hình của nghệ thuật trang trí truyền thống trên Kiến trúc Đông Dương ở Sài Gòn có tính biểu trưng và đặc thù địa phương rõ ràng, thông qua những ẩn dụ từ các motip văn hoá truyền thống. Những motip đặc sắc, rõ ràng nhất là: Tam đa, Tứ linh, Tứ 19 quý, Bát bửu, Cửu cung, Chim, Chim – Cây, Thú, Thực vật, Cửa võng... 3.2.3. Ý nghĩa của motip phù hợp với chức năng Những thành phần nghệ thuật trang trí truyền thống trên có các loại hoa văn, đồ án thể hiện sự phù hợp với từng kiến trúc theo chức năng và ý nghĩa của công trình. Chẳng hạn, motip Bát bửu được trang trí tại nhà bảo tàng chủ yếu là với hàm ý dành cho nơi có chức năng giữ gìn những đồ vật quí giá của đất nước. 3.2.4. Nghệ thuật bố cục của các motip trang trí Các giải pháp cơ bản về bố cục của các môtip nghệ thuật trang trí truyền thống của Kiến trúc Phong cách Đông Dương thường biểu hiện qua những quy tắc sau: bố cục đăng đối và ưu tiên theo thứ tự quan trọng: trên - dưới, trái - phải, trước - sau, trong - ngoài... 3.2.5. Nghệ thuật sử dụng màu sắc trong các motip trang trí Việc thể hiện màu sắc trên trang trí có hu nh hướng chuộng gam màu sáng, đậm và rực rỡ, có ưu thế và đâ cũng chính là một phần giá trị nghệ thuật riêng biệt của iến trúc Phong cách Đông Dương ở Tp. HCM. 3.2.6. Kỹ thuật chế tác của các motip trang trí: Các hoa văn, đồ án trang trí mỹ thuật trên một công trình kiến trúc được chế tác theo hai cách thức: a) Chế tác ngay trên kiến trúc như là một thành phần trang trí; b) Đó là những thành phần trang trí được chế tác ở một nơi khác, rồi được gắn lên kiến trúc. 3.3. Tinh thần sáng tạo và đề cao văn hóa dân tộc Biểu hiện với những tính chất sau: Tính lịch sử, tính độc đáo, tính đa dạng, tính hiệu quả, tính thực tế... Với những tính chất đó, nghệ thuật trang trí truyền thống trên Kiến trúc phong cách Đông Dương ở Sài Gòn là một hiện tượng văn hoá đáng chú ý của giai 20 đoạn 1923 – 1942, là một bước “đột phá”, đem lại một số ý nghĩa quan trọng trong lịch sử nghệ thuật trang trí cũng như lịch sử nghệ thuật trang trí kiến trúc Việt Nam. Từ khi nghệ thuật trang trí truyền thống xuất hiện trên Kiến trúc phong cách Đông Dương ở Sài Gòn, có thể thấy loại nghệ thuật trang trí này rời khỏi “ao nhà” với môi trường c kính của kiến trúc đình, chùa, cung điện, lăng tẩm để khoác một ý nghĩa mới - chứng minh nghệ thuật trang trí dân tộc là có thể phù hợp trong nhiều trường hợp và ngoài ý nghĩa tự thân của các motif trang trí, còn là sự phù hợp với mục đích của công năng sử dụng của các công trình mà trên đó có các motip trang trí được sử dụng. Chính vì giành được “qu ền” có mặt trên Kiến trúc phong cách Đông Dương, nghệ thuật trang trí truyền thống đồng thời thể hiện ưu thế và vai trò của mỹ thuật trong lịch sử. Qua đó, bản sắc dân tộc được bảo toàn. Đó chính là đóng g

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_an_nghe_thuat_trang_tri_truyen_thong_tren_kien.pdf
Tài liệu liên quan