Tóm tắt Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng một số yếu tố sinh thái đến biến động khu hệ bướm ngày (Lepidoptera : Rhopalocera) tại vườn quốc gia Bidoup – núi Bà - Lê Hải Sơn

Tương quan tần số xuất hiện loài với lượng mưa

Kết quả Bảng 3.11 cho thấy ở thời điểm đỉnh lượng mưa vào

thời điểm đầu mùa trong 2 năm 2014 – 2015 thì số cá thể xuất hiện

với mật độ cao nhất (138,08 cá thể/giờ khảo sát năm 2014 và 206,29

cá thể/giờ khảo sát trong năm 2015). Tuy nhiên, đến thời điểm đỉnh

lượng mưa vào thời điểm cuối mùa thì số cá thể xuất hiện không gia

tăng đột biến như ở đầu mùa (Hình 3.8).

Mối tương quan giữa tổng số loài, tần suất xuất hiện và các cá

thể của loài với lượng mưa tại VQG Bidoup – Núi Bà được trình bày

ở hình 3.8; 3.9 và 3.10. Việc số loài tăng cao vào các thời điểm lượng

mưa xuống thấp trong nghiên cứu này hoàn toàn trái ngược với các

nghiên cứu trước đây. Điều này có thể được giải thích ở VQG Bidoup

– Núi Bà có địa hình núi cao và nhiệt trung bình thấp (Nguyễn Đăng13

Hội, Kuznetsov A.N, 2012), ngoài ra độ ẩm trung bình hàng năm ở

nơi đây cũng khá cao nhất là vào thời điểm mùa mưa (Tổng cục thống

kê 2015, 2016). Vào mùa mưa tại đây thường xuyên có mây mùa che

phủ và ít nắng kết hợp với nhiệt độ xuống thấp. Thời điểm có nhiều

nắng và ít sương mù lại vào mùa khô. Tập tính của các loài bướm là

ưa tập trung xuất hiện vào những thời điểm nắng và trời quang. Chính

vì vậy mùa khô lại là thời điểm xuất hiện loài cao hơn mùa mưa. Ngoài

ra, ghi nhận ở những nơi khác vào mùa khô sẽ có lượng mưa thấp nhất

và thậm trí bằng không (0). Tuy nhiên, qua số liệu thống kê 2 năm

2014 – 2015 tại nơi đây không có thời điểm bằng không (0), chính vì

thế thời điểm chuyển mùa hay lúc lượng mưa cao chỉ làm tăng độ ẩm

cũng như giảm nhiệt độ môi trường. Đây là những điều kiện không

thuận lợi cho việc gia tăng các quần thể bướm tại nơi đây.

pdf23 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 452 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu ảnh hưởng một số yếu tố sinh thái đến biến động khu hệ bướm ngày (Lepidoptera : Rhopalocera) tại vườn quốc gia Bidoup – núi Bà - Lê Hải Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g sống thường rất lâu mới phát hiện được (Price P. W., 1975) và khó nhận thấy hơn so với các loài động vật không xương sống thì bướm lại có phản ứng sớm đối với sự thay đổi về môi trường. Khi rừng tự nhiên bị tác động, thành phần và cấu trúc thảm thực vật thay đổi thì quần xã bướm cũng thay đổi (Blau W.S, 1980; Bobo K.S., 2006; Janzen, 1968). Sự thay đổi về tình trạng các loài bướm theo thời gian phần lớn là do tác động của con người tới các quần xã trong thiên nhiên. Từ những năm đầu của thế kỷ 20, đã có nhiều công trình nghiên cứu về bướm được công bố như danh lục thành phần loài ở Việt Nam và các quốc gia vùng Đông Dương (Corber A.S., 1992). Cho đến nay, nghiên cứu bướm đã được tiến hành ở nhiều Vườn quốc gia (VQG) và Khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) trên cả nước. Tuy nhiên, việc nghiên cứu chủ yếu tập trung vào việc điều tra lập danh sách thành phần loài. 2 Gần đây một số nghiên cứu về sinh thái sinh học bướm đã được công bố trong một số đề tài tiến sĩ, thạc sĩ ở nhiều nơi tại Việt Nam như VQG Tam Đảo – Vĩnh Phúc của Vũ Văn Liên, 2008; KBTTN Tà Đùng của Lê Hải Sơn, Hoàng Đức Huy, 2011; KBTTN Tà Kou của Đặng Việt Đài, 2011; KBTTN Bình Châu - Phước Bửu của Bùi Hữu Mạnh, 1998 nhưng chưa có những thống kê một cách đầy đủ về thành phần loài cũng như các nghiên cứu sâu về sinh thái, sinh học của các loài bướm. Chính vì thế luận án tiến sĩ: “Nghiên cứu ảnh hưởng một số yếu tố sinh thái đến biến động khu hệ bướm ngày (Lepidoptera: Rhopalocera) tại Vườn quốc gia Bidoup – Núi Bà” nhằm nghiên cứu một số các yếu tố sinh học, sinh thái học đến biến động quần thể bướm tại khu vực được tiến hành. 2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích của luận án Đánh giá được ảnh hưởng của một số yếu tố sinh thái đến biến động khu hệ bướm ngày, dẫn liệu sinh học và tình trạng một số loài bướm quý, hiếm có nguy cơ bị đe doạ, trên cơ sở đó đề xuất biện pháp bảo tồn bướm ở VQG Bidoup – Núi Bà. 2.2. Yêu cầu của luận án Xác định thành phần loài, phân tích tính đa dạng loài bướm ở các sinh cảnh có thảm thực vật khác nhau tại VQG Bidoup – Núi Bà. Xác định dẫn liệu sinh học của một số loài bướm, đồng thời xác định ảnh hưởng của điều kiện thời tiết và tác động rừng đến biến động quần thể loài và biến động sự phong phú về cá thể của các loài trong quần xã bướm. 3 Đề xuất biện pháp bảo tồn bướm ở VQG Bidoup – Núi Bà. 3. Ý nghĩa khoa học của luận án Luận án đã thống kê một cách khá đầy đủ và toàn diện về thành phần loài bướm ở VQG Bidoup – Núi Bà, với tổng số 173 loài, trong đó, ghi nhận 02 loài trong danh lục sách đỏ Việt Nam và bổ sung 108 loài cho danh sách bướm của VQG Bidoup – Núi Bà. Luận án cũng đã xác định dẫn liệu sinh học của 31 loài bướm trong đó có loài quí, hiếm nằm trong danh lục sách đỏ Việt Nam. Ngoài ra, kết quả đã ghi nhận mới 12 loài thực vật làm cây chủ cho 13 loài bướm tại khu vực nghiên cứu. Kết quả cũng đã đánh giá một cách khá toàn diện về một số đặc điểm sinh thái như các sinh cảnh khác nhau, độ ẩm môi trường, nhiệt độ, lượng mưa... đến biến động quần thể bướm. 4. Kết cấu của luận án Luận án gồm Phần mở đầu; Chương 1: Tổng quan tài liệu; Chương 2: Vật liệu và phương pháp nghiên cứu; Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận; Kết luận và kiến nghị; Danh mục các công trình của tác giả; Tài liệu tham khảo; 12 phụ lục; Luận án có 38 hình và 21 bảng. 4 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu bướm trên thế giới và trong khu vực Trên thế giới và trong khu vực, bướm được nghiên cứu khá kỹ, nhiều kết quả nghiên cứu về thành phần loài được xuất bản như của Smart (1989) về bướm thế giới, Chou (1994) về bướm Trung Quốc; Corbet và Pendlebury (1992) về bướm Malaysia, D’Abrera (1982 – 1986) về bướm ở khu vực Đông Phương – Úc; Osada và cs. (1999) về Bướm Lào; Carter (2000) về bướm và ngài tại Singapore; Pinratana (1974 – 1988) và Pisuth Ek-Amnuay (2012) về Bướm Thái Lan; Wynter-Blyth (1957) về bướm ở Ấn Độ. Có nhiều nghiên cứu về sinh học và sinh thái bướm được công bố trong khu vực. Trong đó các công trình có giá trị cho khoa học như việc xác định cây chủ, vòng đời, tập tính và phân bố của bướm. Trong số các loài bướm, có nhiều loài quý, hiếm trong danh lục của CITES và IUCN cũng được nghiên cứu. Những tài liệu này giúp ích trong công tác bảo tồn nhân nuôi bướm (Igarashi S., 1997-2000; 2001). 1.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam Bướm Việt Nam đã được nghiên cứu từ những năm đầu của thế kỷ XX. Trong đó, công trình nghiên cứu đầu tiên là cuốn “Côn trùng Đông Dương” với danh lục 611 loài (thuộc 7 họ) của nhóm tác giả Dubois và Vitalis De Salvaza (1919), đây là danh lục bướm đầu tiên của các Quốc gia vùng Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia). Đến năm 1957, Metaye đã xác định danh lục 454 loài bướm ở Việt Nam (Metaye R., 1957). Nghiên cứu về bướm từ trước đến nay chủ yếu tập trung vào điều tra thành phần loài. Gần đây nghiên cứu sinh thái bướm đã được 5 quan tâm hơn nhưng vẫn còn ít và chủ yếu tập trung vào các đề tài thạc sĩ, luận án tiến sĩ sinh học, sinh thái học bướm. Đặc biệt là nghiên cứu về đặc điểm sinh học bướm như vòng đời, cây chủ giúp cho công việc nhân nuôi bảo tồn các nguồn gen quý, hiếm vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức. Chính vì thế, chúng tôi tiến hành khảo sát đặc điểm sinh thái cũng như sinh học bướm tại nơi đây nhằm tìm ra các quy luật về biến động các quần thể bướm cũng như nghiên cứu chu trình đời sống của bướm (trứng, sâu non, nhộng, cây chủ) để phục vụ cho công tác bảo tồn và du lịch sinh thái tại nơi đây. 6 CHƯƠNG 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Vật liệu nghiên cứu Các loài bướm ngày (Lepidoptera: Rhopalocera) được nghiên cứu trên các sinh cảnh từ rừng tự nhiên đến khu vực dân cư và đất canh tác nông nghiệp. 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Phương pháp nghiên cứu sinh thái chung Phương pháp chung được sử dụng trong điều tra sinh thái là phương pháp nghiên cứu tuyến (Pollard walk) 2.2.2. Nghiên cứu đa dạng thành phần loài và tần số bắt gặp 2.2.2.1. Đánh giá độ thường gặp Để đánh giá mức độ phổ biến của các quần thể bướm tại các khu vực nghiên cứu , sử dụng công thức tính tần suất bắt gặp trong quá trình điều tra Tần suất bắt gặp (%) = Số lần bắt gặp mẫu Tổng số lần điều tra x 100 (1) 2.2.2.2. Ước lượng độ giàu loài Từ kết quả của các lần điều tra, thiết lập đường cong tích lũy số lượng loài bổ sung. Số liệu đường cong ở giai đoạn cuối làm cơ sở để ước lượng độ giàu loài. 2.2.2.3. Chỉ số tương đồng Bray-Curtis Để so sánh thành phần loài bướm giữa các sinh cảnh hay giữa các khu vực, chỉ số tương đồng được đưa ra (hệ số tương đồng Bray- Curtis: S’jk) (Charles J. Krebs, 1999) về thành phần loài bướm giữa các 7 loại sinh cảnh hay giữa các khu vực nghiên cứu được tính theo công thức (Clarke et Gorley, 2001) 2.2.3. Nghiên cứu sinh học bướm Tiến hành thu thập mẫu cây chủ (hoặc một phần cây chủ để làm thức ăn cho ấu trùng), sâu non của bướm ngoài tự nhiên từ rừng tự nhiên cho đến khu dân cư và đất canh tác nông nghiệp. Phương pháp nghiên cứu thông qua việc theo dõi các cá thể bướm cái đẻ trứng trong rừng, chụp hình cây chủ, thu mẫu thực vật, trứng, sâu non và nhộng (nếu có). 2.2.4. Nghiên cứu sinh thái bướm 2.2.4.1. Biến động quần thể bướm trong ngày Thời gian điều tra theo tuyến trong ngày từ 9h00 đến 16h00. Tuy nhiên, để so sánh hoạt động của bướm vào các thời điểm khác nhau trong ngày, thời gian nghiên cứu một số ngày được tiến hành từ 7h00 đến 17h (Vũ Văn Liên, 2008). 2.2.4.2. Biến động quần thể bướm theo sinh cảnh Nghiên cứu bướm theo sinh cảnh sẽ được thực hiện tại các sinh cảnh tại khu vực nghiên cứu: RTN, RTĐ, TC và NN 2.2.4.3. Ảnh hưởng của yếu tố môi trường đến hoạt động của bướm Nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố môi trường đến hoạt động của bướm bao gồm: đánh giá thời gian hoạt động của bướm trong ngày, biến động quần thể bướm theo lượng mưa qua các tháng và mùa trong năm, ảnh hưởng của độ ẩm môi trường đến biến động quần thể bướm 8 CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1. Đa dạng thành phần loài bướm tại VQG Bidoup – Núi Bà 3.1.1. Đa dạng thành phần loài và độ thường gặp Tại VQG Bidoup – Núi Bà có 173 loài bướm trong 10 họ đã được định danh bao gồm: 22 loài họ Papilionidae, 52 loài họ Nymphalidae, 31 loài họ Pieridae, 15 loài họ Danaidae, 21 loài họ Satyridae, 01 loài họ Libytheidae, 02 loài họ Riodinidae, 01 loài họ Amathusiidae, 25 loài họ Lycaenidae và 09 loài họ Hesperiidae. Số loài họ Nymphalidae ở cả VQG Bidoup và Mã Đà là đa dạng nhất với 52/173 loài (Bidoup) và 50/137 loài (Mã Đà) chiếm tỉ lệ trên 30% tổng số loài nghiên cứu được ở mỗi khu vực. Ngoài ra, số loài đơn độc của họ Nymphalidae cũng cao, điều này cho thấy đây là họ có số loài đông đảo và phong phú nhất tại cả 02 khu vực nghiên cứu. Trong quá trình khảo sát tại Mã Đà không phát hiện thấy 3 họ Amathusiidae, Libytheidae và Riodinidae. Kết quả nghiên cứu tại Bidoup bổ sung thêm 108 loài bướm cho khu vực so với kết quả của Bùi Xuân Phương (2002) và Nguyễn Đăng Hội và Kuznetsov (2012). Kết quả này đã nâng tổng số loài bướm hiện diện tại Bidoup lên 264 loài. 3.1.2. Các loài đặc trưng 3.1.2.1. Loài quý, hiếm trong danh lục đỏ Việt Nam Theo danh lục sách đỏ Việt Nam (SĐVN) năm 2000 có 4 loài được ghi nhận tại Bidoup gồm: Lamproptera curius curius (Fabricius, 1787) (mức độ T: bị đe dọa), Troides aeacus aeacus (C. & R. Felder, 1860), T. helena cerberus (C. & R. Felder, 1865) (mức độ EN: đang 9 nguy cấp) và Graphium antiphates pompilius (Fabricius, 1787) (Mức độ EN: đang nguy cấp) đều thuộc họ Papilionidae. Theo SĐVN 2007 tại Bidoup còn hiện diện 02 loài Troides aeacus aeacus (C. & R. Felder, 1860), T. helena cerberus (C. & R. Felder, 1865) (Họ Papilionidae) với mức độ nguy cấp thuộc nhóm VU (Vulerable: sẽ nguy cấp) cần phải được bảo tồn. 3.1.2.2. Các loài đặc hữu và các loài phổ biến a. Loài đặc hữu trên các tuyến khảo sát Tại Bidoup có 31 loài đơn độc, các loài đơn độc cho thấy tính đặc hữu loài đặc trưng cho mỗi khu vực nghiên cứu, điều này cũng cho thấy tập tính ưu thích về sinh cảnh của các loài bướm. Ngoài ra, việc xác định các loài đơn độc ở các tuyến khảo sát giúp ước lượng được độ giàu loài tại khu vực nghiên cứu. b. Loài ít phổ biến và phổ biến Qua tần số bắt gặp các loài cho thấy hầu hết các loài khảo sát đều là hiếm gặp. Tại Bidoup không có loài phổ biến chỉ có 5 loài ít phổ biến. Tuy nhiên, nếu xét theo từng sinh cảnh nghiên cứu thì tại Bidoup có 2 loài phổ biến trên sinh cảnh trảng cỏ là: Y. baldus và N. hylas. Tại Mã Đà có 03 loài phổ biến và 11 loài ít phổ biến. Có 7 loài xuất hiện trên tất cả các sinh cảnh từ rừng tự nhiên cho đến đất canh tác nông nghiệp tại cả 2 khu vực Bidoup và Mã Đà. Điều này cho thấy đây là những loài phổ biến và có phân bố rộng ở tất cả các sinh cảnh từ khu vực đồng bằng cho đến khu vực núi cao. 10 3.1.3. Ước lượng độ giàu loài Jackknife Căn cứ kết kết quả điều tra, khảo sát tại Bidoup tiến hành thiết lập số loài lũy tuyến theo thời gian để lập đồ thị đường cong phát hiện loài cho Bidoup Số loài ước lượng tại Bidoup (�̂�NB) = 203,87  204 loài. Ước lượng giới hạn số lượng loài của khu vực nghiên cứu với độ tin cậy 95% có kết quả là: Bidoup  12 loài Vậy, độ giàu loài ước lượng tại Bidoup: SNB = 204 ± 12 loài. Có nghĩa là giới hạn độ giàu loài tại Bidoup theo công thức Jackknife dao động 192 – 216 loài 3.1.4. Chỉ số tương đồng Bray-Curtis 3.1.4.1. Chỉ số tương đồng giữa Bidoup và một số khu vực khác Kết quả về mức độ tương đồng về thành phần loài giữa Bidoup và các khu vực khác qua Error! Reference source not found. và Error! Reference source not found. cho thấy thành phần loài ở Bidoup gần với Khu BTTN Tà Đùng (Lê Hải Sơn, Hoàng Đức Huy, 2011) (65,34%) hơn các khu vực khác. Về mặt vị trí địa lý Khu BTTN Tà Đùng thuộc tỉnh ĐắkNông nằm về phía Nam của Bidoup là khu vực có địa hình núi cao và trung bình nên mức độ tương đồng về thành phần loài của Bidoup và Khu BTTN Tà Đùng là cao nhất so với các khu vực khác. Mặc dù Bidoup và Mã Đà (Lê Hải Sơn và cs., 2017) có vị trí địa lý, địa hình và đai độ cao khác nhau nhưng mức độ tương đồng chỉ thấp hơn so với Tà Đùng (56,77%) vì thành phần loài của các loài trong họ phổ biến Nymphalidae, Papilionidae, Pieridae và Danaidae có nhiều loài tương đồng. 11 3.1.4.2. Chỉ số tương đồng theo họ Kết quả chỉ số tương đồng (Phụ lục 12) ở các họ Papilionidae, Nymphalidae, Pieridae và họ Danaidae cho thấy giữa các khu vực đều có chỉ số tương đồng cao (trên 50%). Điều này cho thấy đây là các họ phổ biến có phân bố rộng trên nhiều sinh cảnh và độ cao khác nhau. Kết quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu trước đây (Vũ Văn Liên, 2008; Lê Hải Sơn, Hoàng Đức Huy, 2011). Đối với các họ bướm khác đều có chỉ số tương đồng giữa các khu vực thấp (họ Libytheidae có số loài ít nên không đánh giá chỉ số tương đồng). Điều này cho thấy tính đặc hữu về thành phần loài của các họ bướm trên tương đối cao. 3.2. Nghiên cứu sinh thái bướm 3.2.1. Biến động quần thể bướm theo sinh cảnh Kết quả Error! Reference source not found. cho thấy thành phần loài giảm dần theo sinh cảnh, tổng số loài xuất hiện cao nhất tập trung ở rừng tự nhiên (RTN) 138 loài (79,8% tổng số loài) và giảm dần thấp nhất tại sinh cảnh nông nghiệp. Kết quả Bảng 3.9 cho thấy tần số xuất hiện loài ở sinh cảnh rừng tự nhiên cao nhất với 8,09 loài/1 giờ khảo sát và thấp nhất tại sinh cảnh nông nghiệp. Tuy nhiên, tại sinh cảnh trảng cỏ (7,81 loài/1 giờ khảo sát) và rừng tác động (7,56 loài/1 giờ khảo sát) có tần số xuất hiện loài gần như tương đồng. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra tại VQG Bidoup – Núi Bà, các sinh cảnh trảng cỏ thường gần với rừng tự nhiên (Lán Tranh, Đưng K’Nớ, Giang Ly...) và thường có nhiều loài 12 hoa đẹp giúp thu hút nhiều loài bướm tập trung vì thế tần số xuất hiện loài tại rừng tác động và sinh cảnh trảng cỏ khá tương đồng nhau. Chỉ số tương đồng về thành phần loài bướm giữa các sinh cảnh khác nhau được trình bày ở Bảng 3.10 và Hình 3.7 quả cho thấy ở sinh cảnh Rừng tự nhiên có thành phần loài gần với Rừng tác động, tiếp đến là sinh cảnh Trảng cỏ và nông nghiệp có thành phần loài khác biệt nhất so với rừng tự nhiên. Từ các kết quả trên cho thấy tần số xuất hiện loài tại VQG Bidoup – Núi Bà chịu ảnh hưởng bởi sinh cảnh khảo sát. Tần số xuất hiện loài và số loài đều cao nhất tại sinh cảnh rừng tự nhiên và thấp nhất tại nông nghiệp. 3.2.2. Biến động quần thể bướm theo lượng mưa và mùa trong năm 3.2.2.1. Tương quan tần số xuất hiện loài với lượng mưa Kết quả Bảng 3.11 cho thấy ở thời điểm đỉnh lượng mưa vào thời điểm đầu mùa trong 2 năm 2014 – 2015 thì số cá thể xuất hiện với mật độ cao nhất (138,08 cá thể/giờ khảo sát năm 2014 và 206,29 cá thể/giờ khảo sát trong năm 2015). Tuy nhiên, đến thời điểm đỉnh lượng mưa vào thời điểm cuối mùa thì số cá thể xuất hiện không gia tăng đột biến như ở đầu mùa (Hình 3.8). Mối tương quan giữa tổng số loài, tần suất xuất hiện và các cá thể của loài với lượng mưa tại VQG Bidoup – Núi Bà được trình bày ở hình 3.8; 3.9 và 3.10. Việc số loài tăng cao vào các thời điểm lượng mưa xuống thấp trong nghiên cứu này hoàn toàn trái ngược với các nghiên cứu trước đây. Điều này có thể được giải thích ở VQG Bidoup – Núi Bà có địa hình núi cao và nhiệt trung bình thấp (Nguyễn Đăng 13 Hội, Kuznetsov A.N, 2012), ngoài ra độ ẩm trung bình hàng năm ở nơi đây cũng khá cao nhất là vào thời điểm mùa mưa (Tổng cục thống kê 2015, 2016). Vào mùa mưa tại đây thường xuyên có mây mùa che phủ và ít nắng kết hợp với nhiệt độ xuống thấp. Thời điểm có nhiều nắng và ít sương mù lại vào mùa khô. Tập tính của các loài bướm là ưa tập trung xuất hiện vào những thời điểm nắng và trời quang. Chính vì vậy mùa khô lại là thời điểm xuất hiện loài cao hơn mùa mưa. Ngoài ra, ghi nhận ở những nơi khác vào mùa khô sẽ có lượng mưa thấp nhất và thậm trí bằng không (0). Tuy nhiên, qua số liệu thống kê 2 năm 2014 – 2015 tại nơi đây không có thời điểm bằng không (0), chính vì thế thời điểm chuyển mùa hay lúc lượng mưa cao chỉ làm tăng độ ẩm cũng như giảm nhiệt độ môi trường. Đây là những điều kiện không thuận lợi cho việc gia tăng các quần thể bướm tại nơi đây. 3.2.2.2. Biến động quần thể bướm theo mùa Kết quả ANOVA (Bảng 3.13) về tương quan tần số xuất hiện loài theo mùa có P-value = 0,01 < α = 0,05, cho kết luận các mùa trong năm ảnh hưởng đến tần số xuất hiện bướm có ý nghĩa thống kê. Thời gian nghiên cứu mùa khô có tần số bắt gặp loài cao nhất với 22 loài/giờ khảo sát, thời điểm giao mùa và mùa mưa có tần số xuất hiện loài tương đương nhau (16 – 17 loài) Tại VQG Bidoup – Núi Bà vào mùa mưa có lượng mưa cao, nhiệt độ thấp cùng với sương mù bao phủ các khu vực nghiên cứu. Trong khi đó, tập tích của bướm lại tập trung vào thời điểm trời quang và nắng nhiều (Vũ Văn Liên, 2008). Vì vậy, vào mùa khô khi lượng mưa thấp, nắng nhiều là điều kiện thuận lợi cho sự xuất hiện của các quần thể bướm. Ngoài ra, vào mùa khô độ ẩm môi trường khảo sát được tại Bidoup luôn cao nên các loài thực vật trong đó có các loài cây 14 chủ của bướm vẫn phát triển tốt. Vì thế tần số xuất hiện loài vào mùa khô tại Bidoup lại cao hơn vào mùa mưa. 3.2.3. Thời gian hoạt động trong ngày đến tập tính sinh thái bướm Vào buổi sáng từ 7 – 8 giờ, số loài xuất hiện ít chủ yếu là các loài thuộc họ Pieridae, Lycaenidae, thành phần loài bắt đầu tăng nhanh từ thời điểm 9 giờ trở đi và đỉnh cao số loài xuất hiện là vào thời điểm từ 12 – 14h trong ngày. Đến cuối ngày số loài giảm dần. Qui luật này cũng hoàn toàn phù hợp với các kết quả nghiên cứu trước đây tại KBTTN Tà Đùng (Lê Hải Sơn và Hoàng Đức Huy, 2011) hay tại VQG Tam Đảo – Vĩnh Phúc (Vũ Văn Liên, 2008). Tuy nhiên, có sự sai khác nhỏ về đỉnh thời gian xuất hiện loài tại Bidoup so với tại KBTTN Tà Đùng – ĐăkNông. Ở KBTTN Tà Đùng – ĐăkNông thời gian xuất hiện loài cao nhất là từ 9-13h trong ngày. Đây là thời gian có nhiệt độ và cường độ ánh sáng tăng cao, các quần thể bướm sẽ bay từ trong rừng ra dọc các ven suối hoặc ven bên vệ đường để lấy nước. Trong khi ở VQG Bidoup – Núi Bà, nhiệt độ và cường độ ánh sáng cao bắt đầu từ 11 – 14 giờ trong ngày. Tương tự, tần số xuất hiện của loài và số cá thể loài theo giờ trong ngày cũng bắt đầu tăng dần từ thời điểm 9 giờ. Tần số xuất hiện loài và số cá thể trung bình xuất hiện cao nhất vào thời điểm 12 – 13 giờ (10,26 loài/giờ và 107,39 cá thể/giờ) trong khi đó số loài xuất hiện ở thời điểm này chỉ 99 loài. Tại thời điểm 13 – 143h trong ngày tuy tần số xuất hiện loài và số cá thể trung bình loài không cao bằng thời điểm từ 12 – 13 giờ nhưng tổng số loài ghi nhận được lại cao hơn. Ngoài ra, ngoại trừ thời điểm từ 7 – 8 giờ có tần số xuất hiện loài thấp và từ 12 – 13 giờ có tần số xuất hiện loài cao thì các thời 15 điểm khác tại VQG Bidoup – Núi Bà đều có số loài khá tương đồng nhau. Kết quả thống kê cũng cho thấy tần số xuất hiện loài và số cá thể xuất hiện trung bình tại VQG Bidoup – Núi Bà chịu ảnh hưởng bởi thời gian hoạt động trong ngày. Từ các kết quả về hoạt động của bướm vào các thời điểm khác nhau trong ngày tại VQG Bidoup – Núi Bà cho thấy các loài bướm xuất hiện thấp nhất vào buổi sáng sớm (7 – 8h) và cuối buổi chiều (16 – 17h) và tăng lên đến cực đại vào thời điểm từ 12 – 14h. Nhận định này giúp tính toán được các thời điểm số loài bướm xuất hiện cao hỗ trợ cho việc khảo sát, nghiên cứu bướm được hiệu quả hơn và giúp phát triển công tác du lịch sinh thái sau này. 3.2.4. Độ ẩm môi trường đến biến động quần thể bướm Ảnh hưởng của độ ẩm môi trường đến sự biến động của các quần thể bướm tại Bidoup – Núi Bà cho thấy tổng số loài và số cá thể trung bình xuất hiện cao nhất tại Bidoup có độ ẩm môi trường trong khoảng 50-60%. Độ ẩm quá cao, hoặc quá thấp cũng hạn chế sự xuất hiện loài. Khi độ ẩm trên 80%, một số loài không xuất hiện. Tuy nhiên, tần số xuất hiện loài tại Bidoup cũng cao nhất trong khoảng ẩm độ 30-40%. Độ ẩm môi trường càng cao thì tần số xuất hiện loài lại càng giảm. Điều này cũng giải thích tại sao vào thời điểm mùa khô khi độ ẩm môi trường giảm thì tại đây có tần số xuất hiện loài cao hơn vào mùa mưa. Như vậy, tại VQG Bidoup – Núi Bà, khi độ ẩm môi trường gia tăng thì số loài và số cá thể loài gia tăng theo và đạt cao nhất ở 50- 60%. Khi qua ngưỡng 60% thì số loài và số cá thể giảm xuống và thấp 16 nhất khi độ ẩm trên 80%. Tần số xuất hiện loài có xu thế tỷ lệ nghịch với sự gia tăng của độ ẩm môi trường. Khi độ ẩm môi trường càng thấp thì tần số xuất hiện loài càng cao. 3.3. Dẫn liệu sinh học và mô tả chu trình đời sống một số loài bướm tại VQG Bidoup – Núi Bà Nghiên cứu dẫn liệu sinh học của các loài bướm tại Bidoup, chúng tôi đã mô tả được chu trình đời sống của 31 loài bướm trong 5 họ bướm (8 loài họ Papilionidae; 6 loài họ Pieridae; 13 loài họ Nymphalidae; 3 loài họ Danaidae và 1 loài họ Satyridae) và cây ký chủ, nghiên cứu đã ghi nhận được 12 loài thực vật làm cây chủ mới cho 13 loài bướm. Việc nghiên cứu về chu trình đời sống (trứng, sâu non, cây chủ) của các loài bướm cho đến nay nhìn chung còn rất ít trong khi phân bố các loài bướm đẹp, quí hiếm như loài Troides aeacus, T. helena, Pachliopta aristolochiae ngày càng bị thu hẹp. Vì vậy, việc xác định vòng đời của các loài bướm sẽ giúp nhân nuôi các loài bướm này khỏi bờ tuyệt chủng trong tương lai gần. 17 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Đã ghi nhận và định danh được 173 loài thuộc 10 họ bướm (Lepidoptera : Rhopalocera) bao gồm 22 loài thuộc họ Papilionidae, 52 loài thuộc họ Nymphalidae, 31 loài thuộc họ Pieridae, 15 loài thuộc họ Danaidae, 21 loài thuộc họ Satyridae, 01 thuộc họ loài Libytheidae, 02 loài thuộc họ Riodinidae, 01 loài thuộc họ Amathusiidae, 25 loài thuộc họ Lycaenidae và 09 loài thuộc họ Hesperiidae. Đã ước lượng 192 – 216 loài bướm có thể xuất hiện tại VQG Bidoup – Núi Bà. Đã bổ sung 108 loài cho khu hệ bướm tại VQG Bidoup – Núi Bà. Trong thành phần loài tại Bidoup có 02 loài Troides helena cerberus và Troides aeacus aeacus trong danh lục SĐVN 2007 (sẽ nguy cấp VU). Sinh cảnh rừng tự nhiên chiếm ưu thế về phần bố thành phần loài cũng như tần số xuất hiện loài bướm và thấp nhất tại sinh cảnh nông nghiệp tại VQG Bidoup – Núi Bà Tại VQG Bidoup – Núi Bà, số loài và tần số xuất hiện loài có xu thế tăng vào thời điểm mùa khô. Thời điểm mùa khô có tần số xuất hiện loài cao nhất số với các thời điểm khác trong năm. Về thời gian hoạt động của bướm trong ngày: mức độ đa dạng về thành phần loài, tần số và cá thể xuất hiện đều thấp vào buổi sáng sớm và cuối buổi chiều. Các chỉ số loài gia tăng cao nhất từ 12 – 14h trong ngày. Độ ẩm môi trường gia tăng thì số loài và số cá thể loài gia tăng theo và đạt cao nhất ở 50-60%. Khi qua ngưỡng 60% thì số loài và số 18 cá thể giảm xuống và thấp nhất khi độ ẩm trên 80%. Tần số xuất hiện loài có xu thế tỷ lệ nghịch với sự gia tăng của độ ẩm môi trường. Khi độ ẩm môi trường càng thấp thì tần số xuất hiện loài càng cao. Nghiên cứu dẫn liệu sinh học bướm tại Bidoup đã ghi nhận chu trình đời sống của 31 loài bướm, trong đó có 12 loài thực vật được ghi nhận mới tại Việt Nam và trong khu vực là cây chủ của 13 loài bướm tại khu vực nghiên cứu. 2. Kiến nghị VQG Bidoup – Núi Bà có mức độ phong phú loài tuy không cao nhưng có các loài đặc trưng cho sinh cảnh vùng núi cao cũng như các loài bướm trong danh lục SĐVN và thế giới cần phải được quản lý và bảo tồn một cách hợp lý nếu không sẽ bị suy giảm trong tương lai. Để bảo tồn tại chỗ cho các loài bướm nên tiến hành xây dựng các vườn bướm nhằm tạo cảnh quan sinh thái và giúp ích cho công tác giáo dục bảo tồn tại VQG Bidoup – Núi Bà nói riêng cũng như những khu vực khác nói riêng. 19 NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN Luận án đã thống kê một cách khá đầy đủ và toàn diện về thành phần loài bướm ở VQG Bidoup – Núi Bà, với tổng số 173 loài, ghi nhận 02 loài trong danh lục sách đỏ Việt Nam và bổ sung 108 loài cho danh sách bướm của VQG Bidoup – Núi Bà. Luận án cũng đã xác định dẫn liệu sinh học của 31 loài bướm. Ngoài ra, kết quả đã ghi nhận mới 12 loài thực vật làm cây chủ cho 13 loài bướm tại khu vực nghiên cứu. Luận án đã đánh giá một cách khá toàn diện về một số đặc điểm sinh thái như các sinh cảnh khác nhau, độ ẩm môi trường, nhiệt độ, lượng mưa... đến biến động quần thể bướm. 20 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ 1. Lê Hải Sơn, Hoàng Đức Huy, Nguyễn Thị Phương Thảo, Mai Phú Quý (2014), Đa dạng loài bướm ngày (Lepidoptera: Papilionoidea) vùng Nam Tây nguyên (Vườn quốc gia Bidoup – Núi Bà và Khu bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng), Hội

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_an_nghien_cuu_anh_huong_mot_so_yeu_to_sinh_thai.pdf
Tài liệu liên quan