Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp thu mẫu
2.3.1.1. Thu mẫu bằng lưới mờ : Lưới mờ được sử dụng c kích thước mắt lưới 16–
20 mm; chiều cao 2,5–3 m; chiều dài 3–12 m. Mỗi lưới mờ có 3–5 lượt lưới.8
2.3.1.2. Thu mẫu bằng bẫy thụ cầm
Bẫy thụ cầm được sử dụng bao gồm một khung kim loại kích thước 1,6 x 1,8
m và 1,8 x 2,0 m với 4 dàn cước đặt song song, mỗi dàn cước cách nhau 5 cm gồm
các sợi dây cước được căng dọc theo chiều thẳng đứng, khoảng cách giữa các sợi
cước là 1,5–2,5 cm.
Ngoài ra còn dùng vợt hoặc bẫy di động (mobile trap) để bắt dơi ở trong hang.
2.3.2. Phương pháp xử lí mẫu
2.3.2.1. Xử lí mẫu trên thực địa
Mỗi mẫu dơi được xử lý: định loại sơ bộ, đo kích thước cơ thể, chụp ảnh, ghi
tiếng kêu siêu âm. Mỗi loài chỉ giữ lại 1 đến 3 mẫu. Các mẫu được cố định theo
phương pháp truyền thống. Các mẫu có những biểu hiện khác lạ được lấy vật phẩm
để phục vụ nghiên cứu sinh học phân tử sau này.
2.3.2.2. Xử lí mẫu trong phòng thí nghiệm
- Đo chỉ số hình thái ngoài: cho tất cả các mẫu thu được trong nghiên cứu này và
các mẫu của nghiên cứu trước.
- Đo chỉ số hộp sọ và răng: theo các tài liệu hiện đang được sử dụng phổ biến
(Bates và Harrison, 1997; Scorba và cs., 2003; Dietz và Von Helversen,2004;
Francis, 2008).
- Nhuộm sụn ngọc hành: theo Bates và cs. (2005).
- Định loại mẫu dơi đến loài: Định loại từng mẫu vật theo các tài liệu có liên
quan đến các loài thuộc giống Myotis và giống Pipistrellus ở Việt Nam: (Corbet và
Hill, 1992; Bates và Harrison, 1997; Borissenko và Kruskop, 2003; Kruskop, 2013).
- Những mẫu c đặc điểm khác biệt về hình thái sẽ được mô tả chi tiết và kiểm
tra vị trí phân loại của chúng dựa trên phân tích đa biến bằng phương pháp PCA hoặc
phân tích di truyền phân tử ở gen COI hoặc gen 16S. Quá trình kiểm định t-Test và
hàm Geomean được thực hiện trên phần mềm Excel (Microsoft office 2010).
2.3.3. Phương pháp ghi và phân tích tiếng kêu siêu âm
Ghi tiếng kêu siêu âm của dơi bằng hệ thống PCTage và máy thu siêu âm 6700X
(Petterson Electronik, Thụy Điển) ở 2 trạng thái: trạng thái tĩnh và trạng thái động.
Tất cả tiếng kêu siêu âm thu được được xử lý bằng phần mềm Selena, Batsound.
2.3.4. Phương pháp phân tích ADN
- Tách chiết ADN, điện di ADN trên agarose, nhân đoạn DNA bằng PCR, giải
trình tự ADN. . . được thực hiện tại Phòng Miễn dịch người (Viện nghiên cứu hệ gen
- Viện hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (sử dụng cặp mồi 1); Phòng thí
nghiệm Di truyền học và Phòng Sinh học Phân tử Tế bào thuộc Khoa Sinh học,
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc Gia Hà Nội (sử dụng cặp mồi 2)
và Phòng Hệ thống phân tử và Di truyền Bảo tồn thuộc Viện Sinh thái và Tài nguyên
sinh vật - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (sử dụng cặp mồi 3).
- Các trình tự gen thu được được tinh chỉnh bằng phần mềm Bioedit phiên bản
7.2.5. sau đ được được so sánh với các
27 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 530 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu phân loại các loài dơi thuộc giống Myotis và giống Pipistrellus (Chiroptera: Vespertilionidae) ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam dựa trên đặc điểm hình thái, tiếng kêu siêu âm và di truyền phân tử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệt Nam
1.2.1. Lƣợc sử nghiên cứu
Lịch sử nghiên cứu dơi ở Việt Nam được phân ra các giai đoạn theo quan điểm
phân chia lịch sử nghiên cứu thú của Đặng Huy Huỳnh và cộng sự (2008).
1.2.1.1. Giai đoạn trước năm 1945
Những nghiên cứu và ghi nhận về dơi ở Việt Nam trong giai đoạn này rất ít và đều
được thực hiện bởi người nước ngoài. Nhiều ghi nhận về các loài trong giai đoạn này có
vị trí phân loại không chính xác và được định loại lại trong những nghiên cứu sau đ .
1.2.1.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975
Trong giai đoạn này, những nghiên cứu về dơi được mở rộng hơn, nhưng do điều
kiện chiến tranh nên phạm vi nghiên cứu chủ yếu được thực hiện riêng theo từng
miền Nam, Bắc.
1.2.1.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay
Trong giai đoạn này, nghiên cứu dơi được mở rộng và chuyên sâu hơn.
Giai đoạn trước năm 1994, những nghiên cứu về dơi thường kết hợp trong các
nghiên cứu về thành phần loài thú.
Từ năm 1994 đến nay, nghiên cứu riêng về dơi ngày càng gia tăng về số lượng và
phạm vi nghiên cứu, kết quả dẫn đến sự gia tăng số loài dơi được ghi nhận ở Việt
Nam. Từ năm 1994 –2005 đã phát hiện 16 loài dơi mới cho Việt Nam, trong đ c 2
loài mới và 1 giống mới cho khoa học. Từ năm 2006 đến nay, c 22 loài dơi mới ở
Việt Nam được công bố.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu tiếng kêu siêu âm và di truyền phân tử các loài dơi
ở Việt Nam
Trước năm 2007, những nghiên cứu về phân loại dơi ở Việt Nam chỉ dựa trên các
đặc điểm hình thái ngoài, hình thái sọ, răng và sụn ngọc hành. Từ năm 2007, phân
loại dựa vào tiếng kêu siêu âm và di truyền phân tử ngày càng tăng, nên phân loại dơi
ngày càng chính xác, số lượng các loài mới được ghi nhận ngày càng tăng.
Những nghiên cứu tiếng kêu siêu âm của dơi ở Việt Nam chủ yếu được thực hiện
ở các loài thuộc các họ Rhinolophidae và Hipposideridae. Nghiên cứu phân loại các
loài dơi thuộc các họ khác bằng tiếng kêu siêu âm còn hạn chế.
Nghiên cứu phân loại dơi bằng di truyền phân tử ở Việt Nam được tiến hành
trong khoảng hơn một thập niên gần đây nên kết quả đạt được còn hạn chế. Các
nghiên cứu chủ yếu tập trung vào công bố các loài mới hoặc định loại lại các loài có
6
vị trí phân loại không chính xác. Việc nghiên cứu sự phát sinh các loài dơi ở Việt
Nam bằng di truyền phân tử cũng rất hạn chế.
1.2.3. Nghiên cứu phân loại giống Myotis
Loài Myotis adversus (Vespertilio adversus) là loài dơi đầu tiên thuộc giống Myotis
được ghi nhận ở Việt Nam bởi Morice (1875). Những loài khác được ghi nhận tiếp theo
bao gồm: M. chinensis (Menegaux, 1906); M. siligorensis alticranius và M. longipes
(Osgood, 1932); M. mystacinus và M. siligorensis (Van Peenen và cs., 1969); M.
hasseltii (Topal, 1974); Từ năm 1992 đến 2018, 15 loài thuộc giống Myotis lần lượt
được phát hiện. Đặc biệt, năm 2018, trên cơ sở phân tích gen COI ở tổ hợp loài M.
annatesae, Kruskop công bố dạng loài mới M. cf. annatesae.
Trước năm 2008, tất cả nghiên cứu về phân loại các loài dơi thuộc giống Myotis chỉ
dựa vào hình thái ngoài, hình thái sọ và răng, chủ yếu là răng nanh và răng tiền hàm.
Phân loại các loài dơi thuộc giống Myotis bằng tiếng kêu siêu âm ở Việt Nam còn
hạn chế, chỉ có công bố của Borisenko và cs. (2008), Furey và cs. (2009), Kruskop
(2013) công bố một số thông số thuộc một số loài thuộc giống này.
Cho đến nay, nghiên cứu di truyền phân tử của các loài thuộc giống này ở Việt
Nam còn hạn chế, chỉ có nghiên cứu gen Cytochrome b ở loài M. phanluongi năm
2008, gen COI ở loài M. muricola năm 2013 và loài M. annatesae năm 2018. Năm
2010, Francis và cs. kết luận không thể phân biệt loài M. laniger và M. annamiticus
bằng gen trong ty thể.
1.2.4. Nghiên cứu phân loại giống Pipistrellus
Thomas (1904) miêu tả một loài mới thuộc giống Pipistrellus ở Việt Nam: P.
raptor, ngày nay được xác định là loài P. ceylonicus. Năm 1927-1928, Thomas tiếp tục
mô tả 2 loài mới gồm P. tralatitius, P. coromandrus tramatus. Nhưng năm 1992,
Cobert và Hill chứng minh 2 loài này lần lượt chính là loài P. javanicus, P. tenuis.
Năm 1969, Van Peenen và cs. thông báo 3 loài thuộc giống Pipistrellus ở Miền Nam:
P. coromandra, P. javanicus (P. abramus), P. minus. Năm 1997, Bates và cs. ghi
nhận mới về 3 loài hiếm gặp thuộc giống Pipistrellus ở Việt Nam gồm P. cardonae, P.
pulvaratus, P. paterculus.
Phân loại các loài thuộc giống Pipistrellus bằng hình thái chủ yếu dựa vào đặc
điểm hình thái của xương cẳng tay, răng tiền hàm, răng nanh, chiều dài dương vật,
hình thái sụn ngọc hành.
Cho đến nay, nghiên cứu tiếng kêu siêu âm ở các loài thuộc giống Pipistrellus rất
hạn chế. Furey (2009), Kuskop (2013) ghi nhận chủ yếu về đặc điểm tiếng kêu siêu
âm của một số loài.
Kruskop (2013) đề cập đến nghiên cứu đặc điểm di truyền của gen trong ty thể ở
loài P. javanicus, P. tenuis và P. coromandra.
7
CHƢƠNG II. ĐỊA ĐIỂM, VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành từ năm 2012 – 2017 với 15 đợt khảo sát tại 17 khu
vực thuộc 15 tỉnh ở miền Bắc Việt Nam (Hình 2.1). Mỗi đợt khảo sát tiến hành từ 3–
5 ngày. Ngoài ra, còn thu mẫu dơi tại thành phố Hải Dương, trong khuôn viên Viện
Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (Hà Nội), huyện Hải Hậu, tỉnh Nam
Định. Tổng số 18 đợt khảo sát với 68 ngày khảo sát thực địa thu mẫu.
Hình 2.1. Sơ đồ vị trí các địa điểm khảo sát thực địa
Ghi chú: chỉ địa điểm điều tra thực địa trong nghiên cứu này.
Chữ số (1 – 18) ứng với số thứ tự đợt điều tra thực địa.
Nguồn bản đồ: Bản đồ Hành chính Việt Nam.
2.2. Dụng cụ, hóa chất và vật liệu nghiên cứu
Dụng cụ, hóa chất: bao gồm bẫy thu cầm, lưới mờ, vợt bắt dơi, các dụng cụ và
hóa chất phục vụ cho việc làm mẫu, thu tiếng kêu siêu âm.
Vật liệu nghiên cứu:
+ 349 mẫu thân dơi được sử dung trong nghiên cứu hình thái, kích thước cơ thể,
bao gồm 32 mẫu giống Myotis và 26 mẫu giống Pipistrellus thu được trong nghiên
cứu này và kế thừa 301 mẫu thu thập từ những nghiên cứu trước.
+ 109 mẫu sọ tách ra từ các mẫu thân dơi được sử dụng trong nghiên cứu hình
thái sọ.
+ 39 mẫu mô ức, mô não, mô tủy của 14 loài và phân loài thuộc giống Myotis, 5
loài thuộc giống Pipistrellus thu được trong các đợt khảo sát được sử dụng để phân
tích đặc điểm di truyền phân tử. Sử dụng 2 cặp mồi (cặp mồi 1, 2) để nhân đoạn
ADN của gen COI và 1 cặp mồi (cặp mồi 3) để nhân đoạn gen 16S.
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Phƣơng pháp thu mẫu
2.3.1.1. Thu mẫu bằng lưới mờ : Lưới mờ được sử dụng c kích thước mắt lưới 16–
20 mm; chiều cao 2,5–3 m; chiều dài 3–12 m. Mỗi lưới mờ có 3–5 lượt lưới.
8
2.3.1.2. Thu mẫu bằng bẫy thụ cầm
Bẫy thụ cầm được sử dụng bao gồm một khung kim loại kích thước 1,6 x 1,8
m và 1,8 x 2,0 m với 4 dàn cước đặt song song, mỗi dàn cước cách nhau 5 cm gồm
các sợi dây cước được căng dọc theo chiều thẳng đứng, khoảng cách giữa các sợi
cước là 1,5–2,5 cm.
Ngoài ra còn dùng vợt hoặc bẫy di động (mobile trap) để bắt dơi ở trong hang.
2.3.2. Phƣơng pháp xử lí mẫu
2.3.2.1. Xử lí mẫu trên thực địa
Mỗi mẫu dơi được xử lý: định loại sơ bộ, đo kích thước cơ thể, chụp ảnh, ghi
tiếng kêu siêu âm. Mỗi loài chỉ giữ lại 1 đến 3 mẫu. Các mẫu được cố định theo
phương pháp truyền thống. Các mẫu có những biểu hiện khác lạ được lấy vật phẩm
để phục vụ nghiên cứu sinh học phân tử sau này.
2.3.2.2. Xử lí mẫu trong phòng thí nghiệm
- Đo chỉ số hình thái ngoài: cho tất cả các mẫu thu được trong nghiên cứu này và
các mẫu của nghiên cứu trước.
- Đo chỉ số hộp sọ và răng: theo các tài liệu hiện đang được sử dụng phổ biến
(Bates và Harrison, 1997; Scorba và cs., 2003; Dietz và Von Helversen,2004;
Francis, 2008).
- Nhuộm sụn ngọc hành: theo Bates và cs. (2005).
- Định loại mẫu dơi đến loài: Định loại từng mẫu vật theo các tài liệu có liên
quan đến các loài thuộc giống Myotis và giống Pipistrellus ở Việt Nam: (Corbet và
Hill, 1992; Bates và Harrison, 1997; Borissenko và Kruskop, 2003; Kruskop, 2013).
- Những mẫu c đặc điểm khác biệt về hình thái sẽ được mô tả chi tiết và kiểm
tra vị trí phân loại của chúng dựa trên phân tích đa biến bằng phương pháp PCA hoặc
phân tích di truyền phân tử ở gen COI hoặc gen 16S. Quá trình kiểm định t-Test và
hàm Geomean được thực hiện trên phần mềm Excel (Microsoft office 2010).
2.3.3. Phƣơng pháp ghi và phân tích tiếng kêu siêu âm
Ghi tiếng kêu siêu âm của dơi bằng hệ thống PCTage và máy thu siêu âm 6700X
(Petterson Electronik, Thụy Điển) ở 2 trạng thái: trạng thái tĩnh và trạng thái động.
Tất cả tiếng kêu siêu âm thu được được xử lý bằng phần mềm Selena, Batsound.
2.3.4. Phƣơng pháp phân tích ADN
- Tách chiết ADN, điện di ADN trên agarose, nhân đoạn DNA bằng PCR, giải
trình tự ADN. . . được thực hiện tại Phòng Miễn dịch người (Viện nghiên cứu hệ gen
- Viện hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (sử dụng cặp mồi 1); Phòng thí
nghiệm Di truyền học và Phòng Sinh học Phân tử Tế bào thuộc Khoa Sinh học,
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc Gia Hà Nội (sử dụng cặp mồi 2)
và Phòng Hệ thống phân tử và Di truyền Bảo tồn thuộc Viện Sinh thái và Tài nguyên
sinh vật - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (sử dụng cặp mồi 3).
- Các trình tự gen thu được được tinh chỉnh bằng phần mềm Bioedit phiên bản
7.2.5. sau đ được được so sánh với các trình tự gen tương ứng tại ngân hàng gen
(Genbank) bằng công cụ Blast.
9
CHƢƠNG III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
3.1. Thành phần loài dơi thuộc giống Myotis và Pipistrellus ở khu vực nghiên
cứu
3.2. Những loài dơi ghi nhận mới cho khu vực nghiên cứu và ViệtNam
3.2.1. Loài Myotis altarium Thomas, 1911.
Quá trình nghiên cứu phát hiện 14 mẫu thuộc giống Myotis có những đặc điểm
khác lạ. Trong luận án đã mô tả chi tiết hình thái ngoài (màu sắc bộ lông, màng bay,
những phần cơ thể không c lông, hình thái và kích thước tai, mấu tai, đối mấu tai và
cựa ở gốc ngón chân) và thấy những đặc điểm của 14 mẫu thu được này giống với
đặc điểm của loài M.altarium được công bố bởi Thomas (1911), Blood và cs. (1987),
Zhang và cs. (2010) trước đây
Phân tích hình thái ngoài, hình thái sọ, răng và di truyền phân tử chứng minh 14
mẫu trên thuộc loài M. altarium. (Hình 3.1 và Bảng 3.3).
STT Tên khoa học Nguồn
1 Myotis altarium* M
2 M. annamiticus M, [4, 137]
3 M. annectans M, [4, 137]
4 M. chinensis M, [4, 137]
5 M. hasseltii M, [4, 137]
6 M. horsfieldii M, [4, 137]
7 M. indochinensis M, [164]
8 M. laniger M, [4, 137]
9 M.cf. laniger* M
10 M. montivagus M, [4, 137]
11 M.cf. montivagus* M
12 M. muricola M, [4, 137]
13 M. pilosus M, [4]
14 M. siligorensis M, [4, 137]
15 Pipistrellus abramus M, [4, 137]
16 P. coromandra M, [4, 137]
17 P. javanicus [4, 137]
18 P. paterculus M, [4, 137]
19 P. tenuis M, [4, 137]
Ghi chú: Kí hiệu M chỉ những loài ghi nhận trong nghiên cứu
này, * chỉ những loài dơi được ghi nhận mới cho khu hệ
dơi miền Bắc Việt Nam.
Kết quả phân tích 349 mẫu thân,
124 mẫu sọ, 14 loài và dạng loài
thuộc giống Myotis và 5 loài thuộc
giống Pipistrellus ghi nhận được ở
khu vực nghiên cứu (Bảng 3.1).
Kế thừa những kết quả nghiên
cứu trước và những ghi nhận mới
trong nghiên cứu này, 21 loài và
dạng loài thuộc giống Myotis, 6 loài
thuộc giống Pipistrellus được ghi
nhận ở Việt Nam.
So với các công bố trước đây,
kết quả này đã bổ sung 01 loài và 02
dạng loài dơi mới cho khu hệ dơi
miền Bắc Việt Nam là M. altarium,
M. cf. montivagus và M. cf. laniger
(Bảng 3.1).
10
Hình 3.1. Kết quả phân tích sự sai khác về kích thước (I), hình dạng (II) của loài M.
altarium (x), M. annectans (o), M. montivagus (□), M. indochinensis (∆)
bằng phương pháp PCA theo 5 chỉ số: FA, E, Cr, HF, HB.
Bảng 3.3. Kết quả so sánh trình tự của gen COI thuộc loài M. altarium trong nghiên
cứu này với trình tự của một số gen COI trên ngân hàng gen
STT
Gen COI trong
nghiên cứu này
Tên loài trên ngân
hàng gen
Tỷ lệ
bao phủ (%)
Mức độ
giống nhau (%)
1 JF443976.1 M. altarium 95 99
2 KF111724.1 M. ikonnikovi 96 91
3 JF443001.1 M. ikonnikovi 95 90
4 JF442999.1 M. ikonnikovi 95 90
5 JF443028.1 M. petax 95 88
Ghi chú: Tỷ lệ bao phủ (Query cover) là phần trăm (%) độ dài giữa gen nghiên cứu và vùng
gen được tìm kiếm trên ngân hàng gen; Mức độ giống nhau (Ident) là tỷ lệ % số
Nu giống hệt nhau giữa vùng tìm kiếm và gen nghiên cứu.
Hình thái ngoài, hộp sọ, răng, cấu trúc tiếng kêu siêu âm và vùng phân bố của
loài này ở Việt Nam được trình bày ở Hình 3.3.
I II
11
Hình 3.3. Hình thái hộp sọ, răng (A), hình thái ngoài (B), cấu trúc tiếng kêu siêu âm (C) và
khu phân bố (D) loài M. altarium ở Việt Nam.
Ghi chú: Ảnh (B) và (C) do Vũ Đình Thống cung cấp.
Tiếng kêu siêu âm của loài này có họa âm thứ 2 mờ, không rõ ràng, chỉ có
thành phần sóng FM, không có sóng CM với dải tần số dao động 82,8 kHz đến 27,8
kHz; DUR từ 0,5-1,5 ms lúc bay, 0,9-1,4 ms lúc cầm tay; cấu trúc tiếng kêu lúc cầm
tay và lúc bay tương đối giống nhau.
3.2.2. Dạng loài Myotis cf. montivagus
Quá trình nghiên cứu đã phát hiện 8 mẫu c đặc điểm khác lạ, trong đ 3 mẫu có
kích thước lớn hơn giống với mô tả loài M. montivagus của Kruskop (2013) nên
được tạm gọi là M. montivagus. Năm mẫu còn lại c kích thước nhỏ hơn loài M.
montivagus, chúng vừa c đặc điểm của loài M. montivagus, đồng thời lại có một số
đặc điểm khác nên được tạm gọi là dạng loài M. cf. montivagus.
Hình thái ngoài của loài M. cf. montivagus tương đối giống với loài M.
montivagus như bộ lông , hình thái tai, màng bay Nhưng sọ và răng của loài này có
một số đặc điểm khác với loài M. montivagus (Hình 3.4).
Kết quả so sánh một số chỉ số hình thái ngoài, tai, răng, sọ và trình tự gen COI
của các mẫu loài M. cf. montivagus cho thấy có sự khác biệt hoàn toàn với loài M.
montivagus (Bảng 3.4; Hình 3.5).
So với loài M. ater và loài M. muricola, loài M. cf. montivagus c kích thước lớn
hơn một chút. So sánh hình thái ngoài giữa 5 mẫu thuộc loài M. cf. montivagus với 3
mẫu thuộc loài M. montivagus và 20 mẫu thuộc loài M. muricola bằng phương pháp
PCA trên 5 chỉ số FA, E, Cr, HF, HB (Hình 3.5) cho thấy đồ thị của loài M. cf.
montivagus nằm tách biệt hoàn toàn so với đồ thị của loài M. montivagus và loài M.
muricola. Điều này chứng tỏ loài M. cf. montivagus khác biệt hoàn toàn về hình thái
so với loài M. montivagus và loài M. muricola. Kết quả phân tích trình tự gen COI
thuộc loài M. cf. montivagus (Bảng 3.5) chỉ ra rằng loài M. cf. montivagus có thể là
dạng trung gian của 3 loài M. montivagus, M. ater và M. muricola.
12
Bảng 3.4. Một số chỉ số hình thái ngoài, hình thái sọ, răng của loài M. cf. montivagus
và loài M. montivagus trong nghiên cứu này và nghiên cứu trước.
Chỉ số
đo
Loài M. cf.
montivagus
Loài M. montivagus
Nghiên cứu này Görföl (2013) Benda (2010)
FA 36,11-38,25 44,09-45,21 39,2–41,5 -
Cr 15,62-17,55 18,5-19,03 - -
HF 6,44-7,86 7,35-8,73 - -
E 12,28-12,98 14,42-15,88 - 11,78
HB 36,68-38,01 53,25-54,68 - -
GL 13,45-14,51 16,74 15,62–15,76 15,27
CCL 12,78-14 16,22 14,07–14,10 14,57
C
1
-C
1
3,41-3,97 4,90 4,39–4,51 4,48
M
3
-M
3
5,39-6,08 7,46 6,50–6,79 6,50
ZW 8,52-8,97 11,87 - -
MW 6,09-6,53 7,60 7,93–8,01 -
IOW 3,15-3,38 4,01 3,74–3,88 3,73
BCW 6,18-6,71 7,91 7,15–7,19 7,23
BCH 4,45-5,38 5,83 5,73–5,76 5,50
C
1
-M
3
5,21-5,61 6,56 6,09–6,17 6,12
C
1
-P
4
1,86-2,12 2,47 2,89–2,94 -
ML 9,78-10,92 13,14 11,48–11,85 11,78
C1-M3
5,55-6,05 7,07 6,35–6,47 6,48
CPH 3,28-3,82 4,82 - 3,85
Hình 3.4. Hình thái sọ, răng của loài M. cf. montivagus (A) và M. montivagus (B).
13
Hình 3.5. Kết quả phân tích sự sai khác về kích thước (I), hình dạng (II) giữa loài M.
cf. montivagus (□) với loài M. montivagus (∆), M. muricola (o) bằng phân
tích PCA trên 5 chỉ số (FA, E, HF, Cr, và HB).
Bảng 3.5. Kết quả so sánh trình tự của gen COI thuộc loài M. cf. montivagus trong
nghiên cứu này với trình tự của một số gen COI trên ngân hàng gen.
STT
Gen COI
trong nghiên
cứu này
Gen COI trên
ngân hàng gen
Tên loài trên
ngân hàng gen
Tỷ lệ
bao phủ
(%)
Mức độ
giống
nhau (%)
1
T.140607.1
HM541056.1 M. cf. muricola 96 100
2 HM541053.1 M. cf. muricola 96 100
3 HM541045.1 M. cf. muricola 96 100
4 HM541055.1 M. cf. muricola 96 99
5 JF443979.1 M. cf. ater 96 99
6 HM914900.1 M. cf. ater 96 99
7 HM914933.1 M. cf. ater 96 99
8
T.140607.4
HM914900.1 M. cf. ater 97 100
9 JF443979.1 M. ater 97 99
10 HM541055.1 M. cf. muricola 97 99
11 HM541051.1 M. cf. muricola 97 99
12 HM914903.1 M. cf. muricola 97 99
3.2.3. Dạng loài Myotis cf. laniger
Hệ thống phân loại của loài M. laniger tương đối phức tạp và chưa rõ ràng.
Nghiên cứu này đã phát hiện ra 41 mẫu dơi vừa c đặc điểm giống loài M. laniger, vừa
I II
14
c một số đặc điểm giống với loài M. annamiticus và lại c một số đặc điểm khác nên
tạm gọi các mẫu này là dạng loài M. cf. laniger.
Hình thái ngoài của loài M. cf. laniger khá giống với loài M. laniger về bộ lông,
màu sắc, màng bay, hình thái tai, chiều dài cảnh tay. Tuy nhiên cẳng tay và kiểu gắn
của màng bay vào bàn chân của M. cf. laniger lại gần giống với loài M. annamiticus,
bàn chân của M. cf. laniger ngắn hơn một chút so với bàn chân của loài M. laniger
nhưng độ dày lớn hơn.
Hình thái sọ và răng loài M. cf. laniger tương đối giống loài M. laniger. Nhưng
gờ lambda của sọ loài M. laniger phồng hơn một chút so với loài M. cf. laniger.
ương gò má của loài M. cf. laniger thẳng còn ở loài M. laniger hơi lõm vào trong
một chút ở giữa. Hàm trên của loài M. laniger c răng nanh cao, sắc, nhọn, cao hơn
nhiều so với chiều cao của răng tiền hàm. Đặc điểm hình thái hộp sọ và răng của 2
loài được thể hiện ở hình 3.7.
Hình 3.7. Hình thái hộp sọ và răng của loài M. cf. laniger (A) và loài M. laniger (B)
So sánh hình thái ngoài của 37 mẫu thuộc loài M. cf. laniger với 12 mẫu thuộc
loài M. laniger bằng phương pháp PCA trên 5 chỉ số: FA, E, Cr, HF, HB. Kết quả
phân tích cho thấy đồ thị của loài M. cf. laniger và loài M. laniger nằm tách biệt nhau
hoàn toàn trong phân tích về kích thước (Hình 3.9). Kết quả này cùng với kết quả so
sánh trình tự gen COI của loài M. cf. laniger với gen COI trên ngân hàng gen (bảng
3.6) cho thấy loài M. cf. laniger trong nghiên cứu này khác biệt c ý nghĩa với loài
M. laniger.
15
Hình 3.9. Kết quả phân tích sự khác biệt về kích thước (I), hình dạng (II) giữa loài M. cf.
laniger (□) và loài M. laniger (o) bằng phân tích PCA theo 5 chỉ số (FA, E, HF, Cr,
và HB).
Bảng 3.6. Kết quả so sánh trình tự của gen COI thuộc loài M. cf. laniger trong nghiên
cứu này với trình tự của một số gen COI trên ngân hàng gen.
STT
Gen COI trong
nghiên cứu này
Gen COI trên
ngân hàng gen
Loài trên ngân
hàng gen
Tỷ lệ
bao phủ
(%)
Mức độ
giống nhau
(%)
1
XN.10.10.2015.3
HM541036.1 M. cf. laniger 97 100
2 HM541035.1 M. cf. laniger 97 100
3 HM541025.1 M. cf. laniger 97 99
4 HM541038.1 M. cf. laniger 97 99
5 JF442937.1 M. daubentonii 97 99
6 HM541171.1
M. adversus
taiwanensis
97 97
7
PL.10.09.2017.21
PL.10.09.2017.3
HM541036.1 M. cf. laniger 97 99
8 HM541035.1 M. cf. laniger 97 99
9 HM541025.1 M. cf. laniger 97 99
10 JF442937.1 M. daubentonii 97 99
11 HM541020.1 M. cf. laniger 95 98
12 HM541171.1
M. adversus
taiwanensis
97 97
3.3. Đặc điểm hình thái nhận dạng các loài dơi thuộc giống Myotis và giống
Pipistrellus thuộc vùng nghiên cứu
3.3.1. Đặc điểm hình thái ngoài
Để định dạng các loài dơi thuộc giống Myotis và giống Pipistrellus ở vùng
nghiên cứu, chúng tôi đã đo và phân tích một số chỉ số và đặc điểm hình thái ngoài:
I II
16
cẳng tay, tai, cẳng chân và bàn chân ở các mẫu thuộc 14 loài thuộc giống Myotis và 5
loài thuộc giống Pipistrellus.
3.3.1.1. Đặc điểm cẳng tay
Về chiều dài xương cẳng tay, có thể chia 14 loài thuộc giống Myotis thành 4 nhóm:
Nhóm 1 có FA: 61,12 – 69,66 mm (loài M. chinensis); Nhóm 2 với FA: 51,31 – 57 mm
(loài M. pilosus); Nhóm 3 với FA: 40–49mm (4 loài: M. annectans, M. montivagus, M.
altarium, M. indochinensis); Nhóm 4 với FA: 28 – 39 mm (8 loài và dạng loài: M.
laniger, M. cf. laniger, M. annamiticus, M. horfieldii, M. hasseltii, M. siligorensis, M. cf.
montivagus, M. muricola).
Như vậy, chiều dài cẳng tay có thể được sử dụng để định loại các loài thuộc nhóm
1 và nhóm 2. Đặc điểm về vị trí tương đối của chiều dài cẳng tay so với mút mõm và
mút tai có thể được sử dụng để định loại một số loài thuộc giống Myotis (Bảng 3.9).
Bảng 3.9: Vị trí tương đối chiều dài cẳng tay so với mút mõm và mút tai của một số
loài thuộc giống Myotis trong nghiên cứu này.
Loài n
Vị trí tương đối của cẳng tay
so với mút mõm (mm)
Vị trí tương đối của cẳng
tay so với mút tai (mm)
M. annamiticus 72 >3-5 >2-4
M. siligorensis 6 <1-2 <1-2
M. muricola 21 >1-2 0
M. montivagus 3 >0-1 0
M. laniger 12 <1-3 <3-7
M. horsfieldii 47 <1-3 <1-4
M. hasseltii 4 >1-2 >0-1
M. annectans 10 <1-2 <3-5
M. altarium 14 <1-2 <8-10
M. indochinensis 2 0-1
Ghi chú: n là số lượng mẫu phân tích, dấu “>” và “<” chỉ mức độ vượt qua và không vượt
qua của cẳng tay so với mút tai và mút mõm.
Trong 14 loài thuộc giống Myotis, duy nhất chỉ có loài M. annamiticus có chiều
dài cẳng tay vượt quá chiều dài mút tai (3-5 mm) và mút mõm (2-4 mm). Đây là đặc
điểm quan trọng giúp định loại nhanh và chính xác các mẫu thuộc loài này.
Có thể phân biệt 4 loài trong nhóm 3 bằng vị trí tương đối của chiều dài cẳng tay so
với mút mõm và mút tai. ương cẳng tay của M. montivagus bằng hoặc vượt quá mút
mõm một chút (0–1 mm), 3 loài còn lại đều c xương cẳng tay không vượt quá mút
mõm. Tuy nhiên, loài M. altarium, M. annectans, M. indochinensis có vị trí tương đối
của chiều dài xương cẳng tay so với mút tai khác nhau (lần lượt là <8-10 mm,<3-5
mm và >0-1 mm) nên dễ dàng phân biệt được chúng.
3.3.1.2. Đặc điểm của tai
Hình dạng tai của các loài thuộc giống Myotis có 3 kiểu (Hình 3.10).
Dựa vào hình dạng và kích thước tai không thể phân biệt được chính xác bất kì loài
nào thuộc giống Myotis trong nghiên cứu này. Tuy nhiên, vị trí tương đối của chiều dài
tai so với mút mõm có thể được sử dụng để định dạng được một số loài và nhóm loài
trong giống Myotis (Bảng 3.10).
17
Hình 3.11. Các kiểu hình thái tai cơ bản ở các loài dơi thuộc giống Myotis
Bảng 3.10. Vị trí tương đối giữa chiều dài tai so với mút mõm của một
số loài thuộc giống Myotis.
Tên loài n Độ dài tai so với mút mõm (mm)
M. annamiticus 72 >0-1
M. siligorensis 6 >0-1
M. muricola 19 >0-1
M. montivagus 2 >0-1
M. laniger 12 >3-4
M. horsfieldii 47 >1-2
M. hasseltii 4 >1-2
M. annectans 10 >1-2
M. altarium 14 >7-10
M. indochinensis 3 <1-2
M. chinensis 10 >0-1
M. pilosus 15 <1-2
Ghi chú: n là số lượng mẫu phân tích, dấu “>” và “<” chỉ mức độ vượt qua và
không vượt qua của chiều dài tai so với mút mõm.
Loài M. altarium và loài M. laniger c tai vượt quá mút mõm lần lượt là 7–10
mm và 3–4 mm nên có thể sử dụng để định loại 2 loài này. Loài M. annectans và loài
M. indochinensis có vị trí tương đối của tai so với mút mõm lại khác nhau. Loài M.
annectans c tai vượt quá mút mõm còn ở loài M. indochinensis thì không nên có thể
dùng đặc điểm đ để định loại hai loài này.
Với 5 loài thuộc giống Pipistrellus, hình dạng, kích thước tai và vị trí tương đối
của chiều dài tai so với mút mõm khá giống nhau nên không thể dùng làm cơ sở để
định loại chúng. Tuy nhiên, mấu tai của 5 loài này có thể được sử dụng để định loại
một số loài trong giống này (hình 3.12).
18
Hình 3.12. Các kiểu hình thái mấu tai ở các loài thuộc giống Pipistrellus trong nghiên cứu này
3.3.1.3. Đặc điểm cẳng chân và bàn chân
Cẳng chân và bàn chân cũng c thể được sử dụng để định loại một số loài thuộc
giống Myotis. Căn cứ vào đặc điểm của cẳng chân và bàn chân có thể chia các loài
thuộc giông Myotis ra làm 3 nhóm:
Về cẳng chân: Nhóm 1 c xương cẳng chân lớn nhất (27,38 –32,14 mm) (ở loài
M. chinensis); Nhóm 2 có cẳng chân ≥17,6 mm và ≤ 23mm (ở các loài M. pilosus, M.
annectans, M. altarium, M. montivagus và M. indochinensis); Nhóm 3 có cẳng chân
≤17,6 mm (ở các loài M. laniger, M. cf. laniger, M. annamiticus, M. horsfieldii, M.
siligorensis, M. hasseltii, M. cf. montivagus và M. muricola).
Về bàn chân: Ở nhóm 2, loài M. pilosus có bàn chân dài bằng khoảng 2/3 chiều
dài cẳng chân và màng bay gắn vào mép ngoài xương cẳng chân. Ở 4 loài còn lại
trong nhóm 2 có màng bay gắn vào bàn chân ở mép ngoài gốc ngón nên không thể sử
dụng đặc điểm này cho định loại chúng. Ở nhóm 3, ba loài (M. annamiticus, M.
hasseltii, M. horsfieldii) có màng bay gắn gần như vuông g c vào bàn chân. Loài M.
laniger có màng bay gắn vào vị trí dưới mắt cá chân một chút, thu hẹp nhanh về phía
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_nghien_cuu_phan_loai_cac_loai_doi_thuoc_gion.pdf