Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng MCV DNA được phát hiện ở 30 bệnh nhân (18,0%) trong số 167 bệnh nhân và đột biến EGFR được tìm thấy ở 31 trên 127 bệnh nhân (24,4%). Đột biến EGFR được phát hiện thường xuyên hơn ở bệnh nhân dương tính với MCV so với bệnh nhân âm tính với MC. Sự hiện diện của DNA MCV tương quan đáng kể với tiên lượng ung thư ở các nhóm bệnh nhân UTP. Những kết quả này cho thấy MCV có thể liên quan một phần đến sinh bệnh học và tiên lượng trong một số trường hợp UTP.
28 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 19/02/2022 | Lượt xem: 390 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu sự biểu hiện mrna của gen ciz1b, vegf và đột biến egfr với nhiễm virus merkel cell ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỹ thuật western blot), Higgins và cs đã có thể phân biệt được 98% các trường hợp UTP với nhóm người bình thường . Bên cạnh đó so sánh bệnh nhân giai đoạn 1 UTPKTBN với nhóm đối chứng hút thuốc cùng độ tuổi hay nhóm u phổi lành tính, marker này cũng có thể phân loại 95% các ca bệnh. Như vậy CIZ1b cho thấy tiềm năng là một dấu ấn phân tử có thể phát hiện sớm UTPKTBN với độ chính xác cao về mặt lâm sàng.
CIZ1b ảnh hưởng tới chức năng tái bản DNA của tế bào UTP. Sử dụng kĩ thuật RNAi để giảm sự biểu hiện của CIZ1b (mà không ảnh hưởng đến các dạng CIZ1 khác) trong dòng tế bào UTP SBC5 có thể kiềm chế sự tăng sinh của dòng tế bào này. Kết quả tương tự cũng thu được với thí nghiệm in vivo, khi cấy dòng tế bào ung thư này trong chuột, sự suy giảm CIZ1b có thể làm giảm tăng trưởng của khối u. Các thí nghiệm trên đã chứng minh biến thể CIZ1b đóng vai trò điều khiển sự tăng sinh các tế bào ung thư.
1.3. Biểu hiện của VEGF trong ung thư phổi không tế bào nhỏ.
VEGF có mối tương quan chặt chẽ với sự hình thành mạch máu bất thường và thúc đẩy sự phát triển của khối u, đã được chứng minh là đóng vai trò quan trọng trong UTP, yếu tố này đã áp dụng cho chẩn đoán phân biệt ở những bệnh nhân bị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính và UTP, tràn dịch màng phổi lành tính và ác tính. Đáng chú ý, đối với bệnh nhân có khối u được phát hiện bằng chụp X quang ngực hoặc chụp CT, mức độ biểu hiện VEGF trong dung dịch rửa phế quản phế quản là một dấu ấn có thể sử dụng để chẩn đoán UTP nguyên phát
1.4. Đột biến EGFR trong ung thư phổi không tế bào nhỏ
Thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (Epidermal growth factor receptor - EGFR) có trọng lượng phân tử 170 kiloDaltons (kDa).
Khi yếu tố tăng trưởng biểu mô (EGF) liên kết vào thụ thể (EGFR), hai phân tử EGFR kết hợp với nhau (dimer hóa) kích hoạt quá trình phosphoryl hóa vùng tyrosine kinase gây hoạt hoá các tyrosin đặc hiệu và các protein tín hiệu nội bào phụ thuộc thụ thể EGFR gây phiên mã các gen đích thúc đẩy quá trình tăng sinh, kháng chết theo chương trình, xâm lấn, di căn và tân tạo mạch.
EGFR đặc biệt quan trọng trong bệnh sinh của UTP KTBN, đặc biệt là ung thư biểu mô tuyến. Ở những người không hoặc hút thuốc ít, ở phụ nữ và người thuộc chủng tộc châu Á Sự biểu hiện của EGFR gặp ở trên 50% các trường hợp ung thư biểu mô tuyến phổi. Tuy nhiên, chúng cũng làm cho các tế bào ác tính có tính nhạy cảm với các thuốc TKIs, thậm chí có thể dự đoán đáp ứng với các thuốc TKI phổ rộng như erlotinib và gefitinib. Bên cạnh đột biến nhạy cảm với thuốc TKI, ở EGFR cũng có đột biến giúp cho tế bào ung thư kháng lại thuốc này như đột biến T790M xảy ra ở exon 20. Khoảng 50–60% bệnh nhân tái phát có đột biến T790M. Đột biến này làm giảm hiệu quả của thuốc TKI thế hệ thứ nhất, tuy nhiên đến nay TKI thế hệ thứ ba có thể giúp điều trị cho bệnh nhân kháng thuốc.
1.5. Virus Merkel cell (MCV- Merkel cell Carcinoma Virus) trong ung thư phổi không tế bào nhỏ
1.5.1. Virus Merkel cell và cơ chế gây ung thư
MCV thuộc họ Polyomaviridae và được cơ quan nghiên cứu ung thư thế giới liệt kê vào danh sách tác nhân gây ung thư lớp 2A. Hệ gene của MCV là một phân tử DNA kép (dsDNA) dạng vòng, kích thước khoảng 5 kb, được chia thành ba vùng chính: vùng không mã hóa điều hòa (a non-coding control region -NCRR) chứa tâm tái bản của virus. Các yếu tố điều hòa phiên mã nằm giữa hai vùng: vùng mã hóa sớm và vùng mã hóa muộn. Vùng mã hóa sớm, mã hóa cho các kháng nguyên: LT (Large T), ST (Small T). Vùng mã hóa muộn mã hóa cho các protein capsid, VP1 và VP2 .
Các kháng nguyên LT và sT đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành khối u gây ra bởi MCV. LT mang domain J (gắn với protein sốc nhiệt), mồi liên kết retinoblastoma (RB) (ức chế các thành viên họ RB), domain gắn tâm tái bản ở đầu C và domain helicase/ATPase (cần thiết cho sao chép DNA của virus). Phần lớn chức năng gây ung thư của kháng nguyên LT là do có ái lực cao với RB, gây ra sự cô lập và bất hoạt gen ức chế khối u này. Chức năng liên kết RB của MCV LT là cần thiết cho sự tăng trưởng bền vững của khối u MCC dương tính với MCV cả trong in vitro và trong các mô hình thực nghiệm.
1.5.2. Mối liên quan giữa virus Merkel và ung thư phổi
Dựa trên sự tương đồng về mô học giữa MCC và UTPTBN, mối liên quan giữa MCV và đã UTPTBN đã được nghiên cứu. Hai nghiên cứu ở Đức cho thấy có sự hiện diện của DNA MCV bằng kỹ thuật PCR với tỷ lệ phát hiện là 6,7% (2/30) và 38,9% (7/18). Đối với UTPKTBN nghiên cứu dịch tễ học được thực hiện ở Mỹ và châu Âu đã phát hiện DNA MCV ở 16,7% (5/30), 4,7% (4/86) và 9,1% (10/110) bệnh nhân UTPKTBN. Gần đây, Hashida và cs đã lần đầu tiên công bố tỉ lệ mắc MCV trong UTP châu Á và phát hiện DNA MCV trong 17,9% (20/112) bệnh nhân UTPKTBN ở Nhật Bản. Đặc biệt, nhóm nghiên cứu Nhật Bản đã tìm thấy hai trường hợp UTPKTBN bị nhiễm MCV mang dấu ấn đặc trưng của khối u. Các ca bệnh này có kháng nguyên LT biểu hiện trong các tế bào ung thư và tích hợp bộ gen của virus vào NST của tế bào và gây biến tính ung thư.
Như vậy, các dạng MCV tích hợp/đột biến đã được chứng minh trong một bệnh ung thư cụ thể khác với MCC, cho thấy MCV có liên quan đến sự phát sinh bệnh của một nhóm UTPKTBN. Tuy nhiên, ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào được thực hiện trong việc phát hiện MCV ở các bệnh nhân UTPKTBN.
CHƯƠNG 2:
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Nhóm bệnh: 100 bệnh nhân UTP KTBN, được xác định bằng mô bệnh học, có tuổi từ 27- 83.
2.1.2. Nhóm người khoẻ mạnh ( nhóm chứng): 51người khoẻ mạnh ( không bị ung thư), tuổi từ 48-60, tương đương về tuổi và giới so với nhóm bệnh.
2.1.3. Loại trừ: UTP tế bào nhỏ, UTP KTBN đã điều trị, UTP do di căn, các bệnh lý COPD, Hen PQ, viêm PQ cấp và mãn tính, bệnh nhân dùng corticoid, phụ nữ có thai, bệnh nhân có bệnh tự miễn. người không hợp tác tham gia nghiên cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Mô tả cắt ngang, có đối chứng, kết hợp với thăm khám lâm sàng và phân tích trong phòng thí nghiệm.
2.2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: Bộ môn Sinh lý bệnh - Học viện Quân y, Bệnh viện Quân y 175 và Bệnh viện Trung ương Quân đội 108.
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 10/2014 đến tháng 2/2018.
2.2.3. Phương pháp chọn mẫu
- Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu thuận tiện.
2.2.4. Phương pháp thu thập số liệu
Lựa chọn bệnh nhân, lập hồ sơ bệnh án nghiên cứu theo mẫu thống nhất, mã hóa các thông tin triệu chứng bệnh nhân, khai thác thông tin, thu thập số liệu đăng ký, vào hồ sơ.
2.2.5. Các kỹ thuật thực hiện
2.2.5.1. Chẩn đoán ung thư phổi không tế bào nhỏ
Dựa trên hướng dẫn: chẩn đoán và điều trị UTP KTBN của Bộ Y tế Việt Nam áp dung cho các cơ sở khám chữa bệnh trên toàn quốc.
2.2.5.2. Chẩn đoán giai đoạn bệnh
Phân loại TNM của WHO về UTP năm 2015
2.2.5.3. Chẩn đoán mô bệnh học, độ biệt hoá
Dựa theo phân loại của WHO về UTP 2015
2.2.5.4. Sử dụng kỹ thuật real-time PCR , kỹ thuật PCR, kỹ thuật giải trình tự trực tiếp để xác định:
- Mức độ biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF trong máu ngoại vi
- Xác định đột biến EGFR
- Xác định sự hiện diện của virus Merkel cell trong máu ngoại vi của người khoẻ mạnh, trong máu và mô ung thư của bệnh nhân
2.2.6. Các chỉ tiêu đánh giá
- Mức độ biểu hiện của mRNA VEGF và mRNA CIZ1b ở nhóm UTP KTBN và nhóm chứng.
- Tỷ lệ đột biến EGFR
- Tỷ lệ nhiễm virus Merkel cell ở nhóm UTP và nhóm chứng.
- Mối liên quan giữa mức độ biểu hiện mRNA VEGF, mRNA CIZ1b với một số yếu tố cận lâm sàng: chức năng thận, chức năng gan, đường máu, CEA, CYFRA21-1, đột biến EGFR, giai đoạn bệnh và type mô bệnh học, độ biệt hoá và liên quan các yếu tố với nhiễm MCV.
2.3. Xử lý số liệu
- Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 20.0
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
3.1.1. Tuổi và giới
Bảng 3.1. So sánh về tuổi và giới giữa hai nhóm
Đặc điểm
Nhóm UTPKTBN
(n = 100)
Nhóm chứng
(n = 51)
P
X
±
SD
Trung vị
X
±
SD
Trung vị
Tuổi
60,0
±
10,5
61,0
53,9
±
2,9
53,0
0,158
Giới (Nam/Nữ)
73/27
35/16
0,47
Không có sự khác biệt về tuổi và giới ở hai nhóm ( bệnh và chứng)
3.1.2. Kết quả mô bệnh học ở nhóm nghiên cứu
Bảng 3.2. Mô bệnh học của nhóm UTPKTBN
STT
Kết quả Mô bệnh học (n=100)
Số lượng
Tỷ lệ %
1
Ung thư biểu mô tuyến (Adeno carcinoma)
91
91
2
Ung thư biểu mô tế bào gai (Squamus cell)
9
9
Carcinom tuyến chiếm đa số ( 91%), carcinom tế bào gai chỉ chiếm 9%. Không có carcinom tế bào lớn và tế bào hỗn hợp.
3.1.3. Kết quả đánh giá độ biệt hoá ở nhóm bệnh
Bảng 3.3. Độ biệt hoá của tế bào khối u của nhóm UTPKTBN
STT
Độ biệt hoá (n=100)
Số lượng
Tỷ lệ %
1
Không đánh giá
37
37
2
Được đánh giá
(n=63)
Độ 1
6/63
9,52
Độ 2
35/63
55,56
Độ 3
22/63
34,92
Độ biệt hoá trung bình thường gặp nhất, sau đó đến độ biệt hoá cao, độ biệt hoá thấp chỉ chiếm 9%.
Hình 3.1. Phân bố giai đoạn bệnh của nhóm UTPKTBN
3.1.4. Kết quả đánh giái giai đoạn của nhóm UTP KTBN
Giai đoạn IV gặp tỷ lệ cao nhất ( 76%) sau đó đến GĐ IIIB, các giai đoạn sớm gặp ít hơn.
3.2. Biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF, đột biến EGFR và tỷ lệ nhiễm MCV ở bệnh nhân UTP KTBN
3.2.1. Biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF ở hai nhóm nghiên cứu
Bảng 3.4. Biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF ở hai nhóm nghiên cứu
Biểu hiện VEGF
(2-∆Ct)
Nhóm UTPKTBN
(n = 100)
Nhóm người bình thường
(n = 51)
p
X
±
SD
Trung vị
X
±
SD
Trung
vị
Biểu hiện CIZ1b
(2-∆Ct)
10,5
±
6,3
8,9
7,8
±
2,6
7,0
0,008
Biểu hiện VEGF
(2-∆Ct)
2,3
±
2,3
1,7
1,5
±
1,0
1,3
0,007
Mức độ biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF ở nhóm UTP KTBN cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm người khoẻ mạnh
3.2.2. Đột biến EGFR ở nhóm UTP KTBN
Bảng 3.5. Đột biến EGFR của nhóm bệnh UTPKTBN
STT
Vị trí đột biến
Số lượng BN thực hiện (n=51)
Tỷ lệ %
1
Exon 19
11
21,57
2
Exon 20
2
3,92
3
Exon 21
13
25,49
4
Không đột biến
25
49,02
Tỷ lệ đột biến ở exon 21 gặp nhiều nhất, sau đó là đột biến ở exon 19, đột biến ở exon 20 chỉ gặp 4%.
3.2.3. Tỷ lệ nhiễm MCV ở bệnh nhân UTP KTBN
Bảng 3.6. Tỷ lệ nhiễm MCV ở bệnh nhân UTP KTBN và người bình thường
Kết quả
Nhóm bệnh (%)
Nhóm chứng (%) (Máu)
OR
(95% CI)
P
MCV máu (%)
MCV mô (%)
Dương tính
25 (25)
25 (25)
3 (5,9)
5,33
(1,49-28,83)
0,004
Âm tính
75 (75)
75 (75)
48 (94,1)
Tổng số
100 (100)
100 (100)
51 (100)
Tỷ lệ nhiễm MCV ở bệnh nhân UTP KTBN (25%) cao hơn so với người bình thường ( 5,9%), người bị nhiễm MCV có nguy cơ bị UTP cao hơn 5,3 lần so với người không bị nhiễm MCV.
3.3 Mối liên quan giữa mức độ biểu hiện mRNA của gen CIZ1b, VEGF, đột biến EGFR với nhiễm virus Merkel cell và một số triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân UTP KTBN
3.3.1. Mối liên quan giữa biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF với giai đoạn của bệnh
Bảng 3.7. Biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF, giai đoạn của bệnh
Giai đoạn bệnh
Gen
Giai đoạn I+II+III
(n = 22)
Giai đoạn IV
(n = 69)
p
X
±
SD
Trung vị
X
±
SD
Trung vị
CIZ1b
9,6
±
5,1
8,1
10,7
±
6,7
9,4
> 0,05
VEGF
2,2
±
1,3
2,0
1,5
±
1,3
1,6
> 0,05
Chưa thấy mối liên quan giữa biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF với giai đoạn bệnh.
3.3.2. Mối liên quan giữa biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF với mô bệnh học của khối u
Bảng 3.8. Biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF huyết tương và đặc điểm mô bệnh học của khối u
Mô bệnh
học
Gen
Carcinom Tuyến (n=91)
Carcinom TB Gai (n=9)
p
X
±
SD
Trung vị
X
±
SD
Trung vị
CIZ1b
10,1
±
6,1
8,6
14,5
±
9,5
13,8
> 0,05
VEGF
2,3
±
2,4
1,7
1,9
±
1,2
1,2
> 0,05
Chưa thấy mối liên quan giữa biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF với mô bệnh học
3.3.3. Mối liên quan giữa biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF với độ biệt hóa của khối u
Bảng 3.9. Biểu hiện mRNA của CIZ1b, VEGF và độ biệt hóa của khối u
Độ biệt hoá
Gen
Độ 1 (n = 6)
Độ 2 (n = 35)
Độ 3 (n = 22)
P
X ± SD
Trung vị
X ± SD
Trung vị
X ± SD
Trung vị
CIZ1b
11,8±5,8
10,9
11,5±6,7
9,9
9,3±6,9
7,7
> 0,05
VEGF
6,1±6,5
3,8
1,9±1,3
1,7
1,9±0,9
1,7
> 0,05
Chưa thấy mối liên quan giữa biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF với độ biệt hoá của tế bào khối u.
3.3.4. Mối liên quan giữa biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF với đột biến gen EGFR
Bảng 3.10. Biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF và đột biến gen EGFR
Đột biến gen EGFR
Gen
Có đột biến
(n = 26)
Không có đột biến
(n = 25)
p
X
±
SD
Trung vị
X
±
SD
Trung
vị
CIZ1b
10,3
±
4,9
8,3
10,4
±
7,7
9,0
> 0,05
VEGF
1,6
±
0,8
1,4
2,3
±
1,8
1,9
> 0,05
Chưa thấy mối liên quan giữa biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF với đột biến EGFR.
3.3.5. Mối liên quan giữa nhiễm MCV với các giai đoạn ung thư phổi không tế bào nhỏ
Bảng 3.11. Mối liên quan giữa giai đoạn bệnh và nhiễm MCV
Giai đoạn
MCV
p
Dương tính n(%)
Âm tính n(%)
IA
0
2 (3)
>0,05
IIA
0
4 (6)
IIIA
0
2 (3)
IIIB
3 (12)
11 (16,7)
IV
22 (88)
47 (71,3)
Tổng số
25 (100)
66 (100)
Chưa thấy mối liên quan giữa nhiễm MCV với giai đoạn bệnh.
3.3.6. Mối liên quan giữa độ biệt hoá tế bào khối u và nhiễm MCV
Bảng 3.12. Mối liên quan giữa độ biệt hoá tế bào khối u và nhiễm MCV
Độ biệt hoá
MCV
p
Dương tính n(%)
Âm tính n(%)
Grad 1
1 (4)
5 (6,7)
>0,05
Grad 2
8 (32)
27 (36)
Grad 3
7 (28)
15 (20)
Không xác định
9 (36)
28 (37,3)
Tổng số
25 (100)
75 (100)
Chưa thấy mối liên quan giữa nhiễm MCV với độ biệt hoá của tế bào khối u.
3.3.7. Mối liên quan giữa độ biệt hoá tế bào khối u và nhiễm MCV
Bảng 3.13. Mối liên quan giữa nhiễm MCV với marker ung thư
Đặc điểm
MCV dương tính
(n = 25)
MCV âm tính
(n = 75)
p
X ± SD
Trung vị
X ± SD
Trung vị
CEA (ng/mL)
121,7 ± 250,2
6,9
95,2±273,8
6,02
>0,05
CYFRA 21.1 (ng/mL)
24,7±70,5
2,69
8,98±21,5
3,8
>0,05
Chưa thấy mối liên quan giữa nhiễm MCV với biểu hiện các dấu ấn ung thư.
3.3.8. Mối liên quan giữa nhiễm MCV với đột biến EGFR
Bảng 3.14. Mối liên quan giữa nhiễm MCV với đột biến EGFR
Đột biến EGFR
MCV dương tính
MCV âm tính
OR (95% CI)
p
Có đột biến
17 (85)
9 (29)
13,8 (2,8-86,5)
Chi2(1): 15,24
0,0001
Không đột biến
3 (15)
22 (71)
Tổng số BN phân tích
20 (100)
31 (100)
Tỷ lệ đột biến EGFR ở nhóm UTP KTBN có nhiễm MCV cao hơn có ý nghĩa so với nhóm không có đột biến, ở bệnh nhân UTP KTBN có nhiễm MCV thì nguy cơ bị đột biến EGFR tăng 13,8 lần.
3.3.9. Mối liên quan giữa nhiễm MCV với mức độ biểu hiện gen VEGF và CIZ1b
Bảng 3.15. Mối liên quan giữa nhiễm MCV với mức độ biểu hiện gen VEGF và CIZ1b
Đặc điểm
MCV dương tính
(n = 25)
MCV âm tính
(n = 75)
p
X ± SD
Trung vị
X ± SD
Trung vị
VEGF (2-∆Ct)
2,07±1,1
1,89
2,33±2,5
1,66
>0,05
CIZ1b (2-∆Ct)
12,15±7,0
9,45
9,77±5,9
8,34
>0,05
Chưa thấy mối liên quan giữa nhiễm MCV với mức độ biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF.
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN
4.1. Một số đặc điểm chung của nhóm bệnh nhân UTPKTBN
4.1.1. Tuổi mắc bệnh
Đa số theo các tác giả trong và ngoài nước thì bệnh thường gặp ở độ tuổi 50 đến 70. Trong nghiên cứu này, tuổi mắc bệnh trung bình là 60 ± 10,5, trong đó lứa tuổi từ 55 đến 74 tuổi có 61 bệnh nhân, chiếm 61% trong tổng số bệnh nhân nghiên cứu. Chúng tôi nhân thấy về tuổi mắc bệnh trong nghiên cứu này thấp hơn thống kê của Patricia M.de Goot, điều này có thể do thống kê của chúng tôi chưa đủ lớn, cũng có thể xu hướng trẻ hóa độ tuổi người bị UTP tại Việt Nam.
4.1.2. Giới
UTP thường gặp ở nam nhiều hơn nữ, trong nghiên cứu này tỷ lệ nam/nữ là 3,7/1. Chúng tôi nhận thấy tỷ lệ này thì nữ giới đang có xu hướng mắc UTP tăng lên. Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc UTP cũng đang có xu hướng cân bằng giữa nam và nữ, theo Globocan 2018 tỷ lệ nam/nữ là 2,5/1. Có sự khác biệt về tỷ lệ mắc giữa nam và nữ trong nghiên cứu này với tỷ lệ chung của Globocan có thể do số mẫu của chúng tôi chưa đủ lớn, hơn nữa số lượng chúng tôi chỉ lấy tại một trung tâm điều trị ung thư, điều này cũng ảnh hưởng tới sự phân bố tỷ lệ giữa nam và nữ.
4.2. Mức độ biểu hiện mRNA của gen CIZ1b, VEGF, đột biến EGFR và tỷ lệ nhiễm Virus Merkel Cell ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ.
4.2.1. Mức độ biểu hiện mRNA của gen CIZ1b ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ.
Trong nghiên cứu trước đây được thực hiện bởi Higgins và cs vào năm 2012, đã chứng minh CIZ1b là một biomarker có giá trị trong chẩn đoán UTP. CIZ1b chỉ được phát hiện thấy ở bệnh nhân UTP nhưng không thấy ở những người bình thường. Do đó, CIZ1b được đề xuất là một điểm đánh dấu phù hợp cho giai đoạn đầu UTP.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng biến thể CIZ1b đủ nhạy để cho phép xác định chính xác bệnh nhân bị ung thư ở giai đoạn 1, ở các nhóm có nguy cơ cao, bao gồm các bệnh nhân có hạch phổi lành tính, viêm phổi, hen suyễn, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính) và người hút thuốc. Người ta cũng nhận thấy các bệnh nhân ung thư có nồng độ CIZ1b cao hơn rất nhiều so với người bình thường không có ung thư. Khi phân tích theo từng giai đoạn ung thư thì nồng độ CIZ1b cũng tăng lên theo giai đoạn ở các bệnh nhân UTP KTBN.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, các cặp mồi đặc hiệu đã được thiết kế để khuếch đại và định lượng sự biểu hiện mRNA của gen CIZ1b trong máu bằng phương pháp real-time PCR. Phương pháp dựa trên kỹ thuật PCR cho kết quả nhanh và chính xác sự biểu hiện của mRNA của CIZ1b trong máu.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy mức độ biểu hiện mRNA của gen CIZ1b ở huyết tương những bệnh nhân UTP KTBN cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng. Kết quả này khảng định sự biểu hiện gen CIZ1b bị tác động bởi quá trình phát triển UTP và gen CIZ1b có một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển UTP. Từ kết quả này cho thấy gen CIZ1b có tiềm năng rất lớn để được sử dụng như là một Biomarker để chẩn đoán, theo dõi quá trình phát triển UTP cũng như theo dõi tiên lượng điều trị UTP.
4.2.2. Mức độ biểu hiện mRNA của gen VEGF ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ.
Một nghiên cứu đánh giá sự biểu hiện mRNA của VEGF trên ba nhóm bệnh nhân bao gồm ung thư biểu mô tế bào vảy, ung thư biểu mô tuyến, và ung thư biểu mô tế bào không biệt hóa. Kết quả cho thấy trong 65% trường hợp thì biểu hiện mRNA của VEGF cao hơn trong mô ung thư so với mô bình thường. Biểu hiện mRNA của VEGF cao hơn trong ung thư biểu mô không phải tế bào vẩy và cao hơn ở khối u với di căn hạch. Tương tự như vậy, nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra rằng biểu hiện mRNA của VEGF ở máu ngoại vi cũng cao hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm bệnh nhân UTP so với nhóm chứng.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi không quan sát thấy mối liên quan của sự biểu hiện mRNA của VEGF đối với các đặc điểm lâm sàng như rối loạn chức năng gan, rối loạn Glucose, mô bệnh học của khối u, giai đoạn của bệnh. Chúng tôi cũng chưa thấy sự khác biệt về độ biểu hiện mRNA của VEGF giữa các giai đoạn biệt hóa của khối u (p>0,05). Điều này cho thấy rằng mức độ biểu hiện của VEGF tăng có ý nghĩa giữa nhóm UTP với người khoẻ mạnh (p<0,05) nhưng, chưa thấy sự khác biệt với các yếu tố lâm sàng, cận lâm sàng khác.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, phân tích hiệu quả chẩn đoán xác định bệnh nhân UTP cho thấy biểu hiện mRNA của VEGF có khả năng xác định bệnh nhân UTP với giá trị AUC=0,615.
Do đó, nghiên cứu này cùng với các nghiên cứu trước đó chỉ ra rằng đánh giá sự biểu hiện mRNA của VEGF trong huyết tương là một biện pháp không can thiệp có thể sử dụng phối hợp với các phương pháp chẩn đoán khác để chẩn đoán sàng lọc UTP ở những nhóm nguy cơ cao như ở những bệnh nhân có bệnh phổi, có tiền sử gia đình bị UTP, hay ở những nhóm thường xuyên tiếp xúc với các tác nhân độc hại như nhóm những người hút thuốc, nhóm lao động trong hầm mỏ. Tuy nhiên, có thể sử dụng yếu tố này như một dấu ấn hữu hiệu để theo dõi, đánh giá hiệu quả điều trị trong UTP KTBN.
4.2.3. Đột biến EGFR ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ trong nghiên cứu
Đột biến EGFR đóng vai trò hết sức quan trọng trong bệnh sinh UTP KTBN. Hơn nữa, đây là một đích phân tử trong việc sử dụng các thuốc ức chế phân tử nhỏ (TKIs) vào điều trị.
Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra: có khoảng trên 50 % UTP KTBN dạng ung thư biểu mô tuyến có đột biến EGFR. Trong nghiên cứu của chúng tôi có 51 trường hợp ung thư biểu mô tuyến được xác định đột biến EGFR và có 26 trường hợp xác định có đột biến, chiếm 51%. Mặc dù số lượng bệnh nhân được làm đột biến EGFR còn nhỏ, nhưng tỷ lệ gặp bệnh nhân có đột biến EGFR trong nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây.
4.2.4. Tỷ lệ nhiễm MCV ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ trong nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành xác định sự có mặt của virus MCV trong các mô UTP và trong máu ngoại vi của bệnh nhân UTP. Kết quả cho thấy tỷ lệ nhiễm MCV ở bệnh nhân UTP (25%) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng (5,9%). Kết quả phân tích mối liên quan cho thấy nhiễm MCV có liên quan đến UTP. Ở những người nhiễm MCV có nguy cơ mắc UTP cao hơn 5,33 lần so với những người không nhiễm MCV (OR = 5,33). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương đồng với một số nghiên cứu trước đây trên thế giới. Một nghiên cứu trước đây đã cho thấy 30 trong số 163 bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến và 2 trong số 8 bệnh nhân ung thư tế bào vẩy dương tính với MCV.
Đối với UTPKTBN nghiên cứu dịch tễ học được thực hiện ở Mỹ và châu Âu đã phát hiện DNA MCV ở 16,7% (5/30), 4,7% (4/86) và 9,1% (10/110) bệnh nhân UTPKTBN. Gần đây, Hashida và cs đã lần đầu tiên công bố tỉ lệ mắc MCV trong UTP châu Á và phát hiện DNA MCV trong 17,9% (20/112) bệnh nhân UTPKTBN ở Nhật Bản. Đặc biệt, nhóm nghiên cứu Nhật Bản đã tìm thấy hai trường hợp UTPKTBN bị nhiễm MCV mang dấu ấn đặc trưng của khối u. Các ca bệnh này có kháng nguyên LT biểu hiện trong các tế bào ung thư và tích hợp bộ gen virus NST của tế bào ung thư. Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ nhiễm MCV ở người khỏe mạnh là 7,8% và ở nhóm bệnh nhân UTP là 25%, cao hơn nhiều so với các nghiên cứu của các tác giả trên thế giới.
4.3. Mối liên quan giữa mức độ biểu hiện mRNA của gen CIZ1b, VEGF, đột biến EGFR với nhiễm virus Markel cell và một số triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ.
4.3.1. Mối liên quan giữa biểu hiện mRNA của gen CIZ1b và VEGF với lâm sàng và cận lâm sàng ở ung thư phổi không tế bào nhỏ
Trong nghiên cứu này, chúng tôi không thấy có mối liên quan giữa biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF với các chỉ số huyết học, ion đồ, các chỉ số bất thường của chức năng gan, chức năng thận và nồng độ Glucose. Điều này cho thấy sự biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF ít có liên quan đến các biểu hiện cận lâm sàng ở các bệnh nhân UTP.
Bên cạnh đó chúng tôi cũng phân tích mối liên quan giữa biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF với các đặc điểm cận lâm sàng khác như phân loại UTP, độ biệt hóa của khối u UTP và giai đoạn phát triển của bệnh. Kết quả phân tích cho thấy không nhận thấy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa sự biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF với các dạng UTP khác nhau, độ biệt hóa tế bào cũng như sự tiến triển của bệnh.
Chúng tôi cũng tiến hành so sánh kết quả biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF giữa những bệnh nhân UTP có đột biến và nhóm bệnh nhân UTP không có đột biến trên gen EGFR. Tuy nhiên kết quả so sánh cho thấy mức độ biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF ở huyết tương của hai nhóm bệnh nhân này không khác nhau có ý nghĩa thống kê. Điều này cho thấy biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF không có liên quan đến sự xuất hiện đột biến ở gen EGFR.
Chúng tôi cũng tiến hành so sánh kết biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF giữa những bệnh nhân UTP KTBN có nhiễm MCV và không nhiễm MCV. Tuy nhiên kết quả so sánh cho thấy mức độ biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF ở máu ngoại vi của hai nhóm bệnh nhân này không có sự khác biệt. Điều này cho thấy biểu hiện mRNA của CIZ1b và VEGF không có liên quan đến yếu tố MCV.
4.3.2. Mối liên quan giữa tình trạng nhiễm MCV và đột biến EGFR ở ung thư phổi không tế bào nhỏ
Trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tình trạng nhiễm MCV có liên quan đến tỉ lệ đột biến gene EGFR. Ở nhóm bệnh nhân UTPKTBN nhiễm MCV có tỷ lệ đột biến gen EGFR (85%) cao hơn so với nhóm bệnh nhân không nhiễm MCV (29%), và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P=0,0001). Có hai giả thuyết giải thích cho mối tương quan này. Trước hết, sự đột biến vật chất di truyền của virus thường xuyên xảy ra với mục đích chống lại hệ thống bảo vệ của vật chủ hay các tác nhân chống virus, bởi vậy sự lây nhiễm virus tạo ra tính không ổn định của genome, dẫn tới sự xuất hiện của các đột biến somatic gây phát sinh ung thư. Có thể nói rằng sự lây nhiễm MCV làm tăng nguy cơ phát sinh đột biến EGFR, từ đó dẫn tới phát sinh UTP. Nghiên cứu của Xu và cs hỗ trợ cho điều này khi cho thấy nguy cơ đột biến EGFR cao hơn 5.71 lần ở các dạng giải phẫu bệnh (95% CI: 2.03–16.04, P = 0.001) và 7.84 lần ở dạng adenocarcinoma (95% CI: 2.54–24.25, P = 0.0004). Nghiên cứu của chúng tôi đưa ra kết quả những bệnh nhân nhiễm MCV có nguy cơ đột biến gene EGFR cao hơn 13,8 lần so với bệnh nhân không nhiễm MCV (p=0,0001) với cỡ mẫu ít hơn so với nghiên cứu trên. Nếu như mối liên hệ này được chứng minh chặt chẽ hơn thì sự lây nhiễm MCV có thể được sử dụng là một trong các yếu tố dự đoán sớm hay tiên lượng cho bệnh UTPKTBN, đặc bi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_nghien_cuu_su_bieu_hien_mrna_cua_gen_ciz1b_v.docx