Tại một số tỉnh miền Bắc, Việt Nam đã ghi nhận 60 loài ong mật (họ Apidae)
thuộc phân họ Apinae và Xylocopinae với 7 giống, trong đó loài Ong nội Apis
cerana Fabricius, 1793 có 2 phân loài là Apis cerana cerana và Apis cerana indica.
Ghi nhận mới cho khu hệ ong mật của Việt Nam 10 loài và ghi nhận mới cho miền
Bắc Việt Nam 17 loài. Bổ sung vùng phân bố trên thế giới của 10 loài và đặc biệt là
loài Thyreus regalis.
+ Xác định được 9 loài ong mật có khă năng sử dụng làm chỉ thị sinh học cho
môi trường, trong đó 5 loài ong có khả năng dùng để xác định hàm lượng của một số
kim loại nặng, á kim thông qua cơ thể ong, phấn hoa, sáp ong và mật ong, đặc biệt là
phân loài Ong nội Apis cerana indica và 4 loài còn lại có thể sử dụng làm chỉ thị cho
các sinh cảnh.
+ Hàm lượng của 10 nguyên tố Fe, Mn, Zn, Pb, Cu, Co, Ni, Cu, As, Cd và
Hg trong cơ thể, ruột ong, sáp ong và mật ong Apis cerana indica ở các điểm
nghiên cứu tại Hà Giang, Cao Bằng và Hà Nội đều có sự thay đổi, trong đó có 3
nguyên tố kim loại nặng Fe, Zn và Mn có hàm lượng cao và biến động nhiều,
các nguyên tố Hg, Pb, As và Cd có hàm lượng thấp với giao động nhỏ. Tại các
điểm lấy mẫu thì các chỉ số giới hạn ô nhiễm Hg, Pb, As và Cd ở mật ong đều
dưới ngưỡng cho phép và đạt độ an toàn khi sử dụng.
26 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 05/03/2022 | Lượt xem: 435 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Nghiên cứu thành phần các loài ong mật (hymenoptera: apidae) và khả năng sử dụng một số loài làm chỉ thị đánh giá sự ô nhiễm môi trường trên các hệ sinh thái bị tác động ở miền bắc Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài thuộc phân giống
Ceratinidia ở Thái Lan, trong đó phát hiện một loài mới Ceratina chiangmaiensis và
khóa định loại cho từng giống cũng được cung cấp.
Theo danh sách các loài ong mật được 2 nhà khoa học Ascher và Pickring thống
kê, giống Ceratina hiện đang có 366 loài phân bố khắp thế giới, bao gồm 247 loài
của 12 phân giống thuộc giống Amegilla phân bố trên toàn thế giới (dẫn theo Ascher
and Pickering, 2016).
4
1.2.1.2. Nghiên cứu về khả năng sử dụng các loài ong mật làm chỉ thị sinh học
cho môi trường
Các nghiên cứu của Conti và Botre (2001) về việc sử dụng các sản phẩm của loài
ong mật Apis mellifera (mật ong, phấn hoa và sáp) tại thành phố Roma của Italy được
tiến hành thông qua việc xác định hàm lượng các kim loại nặng như Cd, Cr và Pd để
đánh giá sự ô nhiễm môi trường tại thành phố này. Một nghiên cứu sử dụng cơ thể
ong mật Apis mellifera để theo dõi sự ô nhiễm của môi trường ở Italy và xác định
250 cá thể ong mật chết mỗi tuần ở một điểm nghiên cứu do sử dụng phấn hoa và
mật hoa từ những loài thực vật nhiễm thuốc trừ sâu. (Porrini et al., 2003).
Ngoài ra còn có các kết quả nghiên cứu về lĩnh vực này của Ghini et al. (2004) ,
Madras (2005), Chauzat et al. (2006), Chauzat and Faucon (2007), Popescu et al.
(2010), Zhelyazkova (2012), Ruschioni et al., (2013), Naccari et al., (2014) và
Moniruzzaman et al., (2014).
1.2.1.3. Các nghiên cứu về mối quan hệ sinh thái và việc bảo tồn các loài ong
mật họ Apidae
Các nghiên cứu về lĩnh vực này gồm có các công trình của Vivian and Butz
(1997), Parker et al., 2010) , Becher et al., (2010), Radloff, 2011), Radloff, (2011),
Shaara ( 2014), Loren et al. (2016) và Juliano Nogueira (2014).
Ong thợ chiếm tỷ lệ lớn trong đàn ong nên là đối tượng chính trong việc phân
tích và nghiên cứu các chỉ tiêu hình thái, sinh học của các giống ong (Ruttner,1988).
Sức đẻ trứng của ong chúa là chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá khả năng phát triển
của đàn ong cũng như chất lượng giống ong (dẫn theo Shaara, 2014).
1.2.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
1.2.2.1. Nghiên cứu thành phần loài, sự phân bố của các loài ong mật họ
Apidae
+ Nghiên cứu về thành phần loài
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về thành phần loài và phân bố của các loài ong mật
họ Apidae chưa thực sự được quan tâm nhiều. Cho đến nay chỉ có ba nghiên cứu về
khu hệ các loài ong mật họ Apidae ở Việt Nam. Lê Xuân Huệ (2008) đã thống kế có
41 loài thuộc 11 giống của họ này đã được ghi nhận ở Việt Nam, trong đó có 25 loài
thuộc 8 giống ghi nhận ở miền Bắc. Năm 2010, một loài ong thuộc giống Bombus đã
được mô tả mới cho khoa học dựa trên mẫu vật của Việt Nam (Lê Xuân Huệ, 2010).
Gần đây nhất, 35 loài thuộc 9 giống được ghi nhận cho khu hệ các loài ong thuộc
họ Apidae ở miền Bắc và miền Trung (Khuat Dang Long et al., 2012), trong đó
thống kê 32 loài thuộc 9 giống có mặt ở miền Bắc.
+ Nghiên cứu các loài ong nuôi lấy mật và và sự phân bố
Ở Việt Nam trong nhiều năm qua, các nghiên cứu về ong mật chỉ tập chung vào
nghiên cứu các loài ong nuôi lấy mật .
Theo Phùng Hữu Chính và Phạm Thị Huyền (2004) đã phân chia các loài ong nuôi
như: ong ruồi có 2 loài (ong ruồi đỏ Apis florea, ong ruồi đen Apis andreniformis), ong
khoái Apis dorsata, ong đá Apis laboriosa, ong nội Apis cerana, ong ngoại Apis
mellifera Việt Nam có 4 loài ong mật chính bao gồm: Ong châu Âu (ong ngoại) Apis
mellifera, Ong Nội địa (ong châu Á): Apis cerana, Ong Khoái (ong gác kèo) Apis
dorsata và Ong Hoa (ong ruồi): Apis florea.
5
Theo Nguyễn Văn Niệm (2014) Ở Việt Nam, ong nội Apis cerana gồm có 2 phân
loài là A. cerana indica Fabricius, 1798 và A. cerana cerana Fabricius, 1793. Các
nghiên cứu của Phạm Hồng Thái (2008) cho thấy: chưa phát hiện thấy ong nội ở đảo
Lý Sơn ( Quảng Ngãi), đảo Phú Quý (Bình Thuận), bán đảo Cà Mau (Cà Mau).
1.2.2.2. Nghiên cứu về khả năng sử dụng các loài ong mật làm chỉ thị sinh học
cho môi trường
Ở Việt Nam, khả năng sử dụng ong mật làm chỉ thị sinh học để đánh giá sự ô
nhiễm môi trường chưa được quan tâm và ít được nghiên cứu. Cho đến nay chưa có
bất cứ một kết quả nào nghiên cứu về các hàm lượng của kim loại nặng và á kim
trong cơ thể, ruột ong, sáp ong và mật ong. Các nghiên cứu bước đầu mới chỉ dừng
lại ở việc nghiên cứu xác định các hóa chất thuốc bảo vệ thực vật nhóm Clo có
trong mật ong trên hoa nhãn ở Hưng Yên của Phùng Hữu Chính và Đinh Quyết
Tâm (2004, 2007) và xác định giới hạn ô nhiễm của một số kim loại và á kim
có trong mật ong gồm Cd, Pb, Hg và As trong đó cadmi (Cd) (Cục An toàn vệ
sinh thực phẩm, 2011)
1.2.2.3. Các nghiên cứu về mối quan hệ sinh thái và việc bảo tồn các loài ong
mật họ Apidae
Các nghiên cứu về mối quan hệ sinh thái và việc bảo tồn các loài ong mật họ
Apidae ở Việt Nam chỉ tập trung ở các loài ong nuôi lấy mật như loài Ong nội Apis
cerana, Ong ngoại Apis mellifera, ong ruồi đỏ Apis florea, ong khoái Apis dorsata
(Hà Thị Huệ và cs., 2010). Ong mật có đặc tính sống thành xã hội, đàn ong là một
đơn vị sinh học hoàn chỉnh có 3 loại quan hệ mật thiết với nhau gồm: Ong chúa, ong
đực, ong thợ (Crane E., 1990; Lê Quang Trung và Nguyễn Tường Vân, 2012). Theo
Nguyễn Duy Hoan, 2002 và Nguyễn Duy Hoan và cs. (2008) đã cung cấp dẫn liệu
về các dạng sinh thái dưới tác động của các yếu tố ngoại cảnh khác nhau và các đặc
điểm thích nghi với điều kiện sống khác nhau của các phân loài của ong nội
A.cerana và ong ngoại A.mellifera.
Các nghiên cứu về cấu trúc của đàn ong, đặc điểm sinh học, kỹ thuật bắt ong
rừng về nuôi, kỹ thuật tạo chúa, chia đàn của các loài ong nội Apis cerana, ong
ngoại Apis mellifera, ong ruồi đỏ Apis florea, ong khoái Apis dorsata cũng đã được
thực hiện (Phùng Hữu Chính và Phạm Thị Huyền, 2004).
1.2.2.4. Một số nhận xét về nghiên cứu các loài ong mật họ Apidae
Cho đến nay ở Việt Nam, đã thống kế có 41 loài ong mật thuộc họ Apidae, thuộc
11 giống, trong đó có 35 loài thuộc 9 giống được ghi nhận ở miền Bắc và miền
Trung.
Các nghiên cứu khác chỉ tập trung vào các loài ong nuôi lấy mật như: loài ong
nội Apis cerana, ong ngoại Apis mellifera, ong ruồi đỏ Apis florea, ong khoái Apis
dorsata cũng đã được thực hiện. Khả năng sử dụng ong mật làm chỉ thị sinh học để
đánh giá sự ô nhiễm môi trường chưa được quan tâm và ít được nghiên cứu. Các
nghiên cứu bước đầu mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu xác định các hóa chất thuốc
bảo vệ thực vật nhóm Clo có trong mật ong trên hoa nhãn ở Hưng Yên.
6
Chƣơng 2
ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Điều tra thu mẫu ở trên một số hệ sinh thái bị tác động ở một số tỉnh thuộc miền
Bắc Việt Nam như: Hà Nội (Bãi giữa Sông Hồng, Long Biên, Trúc Khê, Láng Hạ,
VQG Ba Vì, Hoài Đức), Phú Thọ (Đồng Thịnh, Yên Lập), Bắc Ninh (Từ Sơn, Tiên
Du, Quế Võ); Hòa Bình (Yên Thủy, Mai Châu, Đà Bắc), Yên Bái (Yên Bình, Tân
Phượng và Việt Hồng), Sơn La (Mộc Châu, Mường Lựm, Yên Châu, Cò Ma, Thuận
Châu), Lai Châu (Mường Tè, Sìn Hồ), Điện Biên (Tủa Chùa, Quảng Lâm), Lào Cai
(Gần Thác Bạc, VQG Hoàng Liên Sơn, Sa Pa, Lào Cai), Vĩnh Phúc (VQG Tam
Đảo), Hà Giang (Quản Bạ, Đồng Văn), Cao Bằng (Phia Oắc, Nguyên Bình), Tuyên
Quang (Núi Dùm, Na Hang), Bắc Kạn (Lãng Ngâm, Ngân Sơn, Kim Hỷ, Na Rì),
Thái Nguyên (Phú Lương), Lạng Sơn (Mẫu Sơn, Hữu Lũng), Bắc Giang (Khe Rỗ,
Sơn Động), Quảng Ninh (Đông Triều, Ba Che, Tiến Yên)
Các nghiên cứu thực nghiệm, xử lý số liệu được thực hiện tại Phòng sinh thái
côn trùng, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật và phòng phân tích hóa thuộc Viện
Hóa học-Môi trường Quân sự
Đề tài được tiến hành nghiên cứu từ năm 2014 đến 2017.
2.2. Vật liệu nghiên cứu
Những dụng cụ điều tra và thực nghiệm trong phòng thí nghiệm bao gồm:
Vợt bắt côn trùng, ống nghiệm, giá đựng ống nghiệm, các khay to đựng mẫu,
đĩa petri và lọ tam giác nút mài, lọ nhựa đựng mẫu, đệm bông đựng mẫu, các
loại lọ độc giết côn trùng bằng độc tố Ethyl acetate, Naphthalene..., các lọ bảo
quản mẫu, Panh, kéo, bút lông, kim mổ, các lồng lưới có kích thước, kính hiển
vi soi nổi Olympus SZX7, kính lúp 2 mắt, nhiệt độ và ẩm kế tự động, tủ định
ôn Sanyo và tủ Wise Cuber, tủ sấy, đèn bàn và tủ lạnh bảo quản mẫu, vải màn,
giấy bản, bông thấm nước và bông không thấm nước, sổ sách ghi chép số liệu
thí nghiệm và số liệu điều tra.
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp điều tra thành phần loài, sự phân bố và mô tả đặc điểm
hình thái của các loài ong mật ghi nhận mới
2.3.1.1.Điều tra và thu mẫu ngoài thực địa
Phương pháp được sử dụng là những phương pháp điều tra côn trùng thông
thường như: Phương pháp điều tra phát hiện côn trùng. Quy trình và kỹ thuật sưu
tầm, xử lý và bảo quản côn trùng. Phương pháp điều tra cơ bản côn trùng và phương
pháp của Grootaert et al.(2010) bao gồm: Điều tra theo tuyến, Điều tra theo sinh
cảnh, Các cách thu bắt mẫu.
2.3.1.2. Bảo quản, lên tiêu bản và phân loại
+ Bảo quản và lên tiêu bản mẫu: bảo quản bằng đệm bông, cồn 70% để giữ
mẫu và 90% cho các nghiên cứu về AND sau này.
+ Phân loại bằng hình thái học: dựa trên các tài liệu Michener (2005, 2007),
He (2004).
7
+ Phân loại bằng sinh học phân tử: Mẫu DNA sau khi khuếch đại và tinh sạch
được gửi đi đọc tại hãng 1st BASE (Malaysia). Trình tự sau khi đọc được phân tích
và xử lý bằng phần mềm Bioedit.
2.3.1.3. Mô tả đặc điểm hình thái của các loài ong mật ghi nhận mới
Trên cơ sở dựa trên các đặc điểm về hình thái của các phần đầu, phần ngực,
scutellum, bụng, cánh.
2.3.2. Phương pháp nghiên cứu khả năng sử dụng một số loài ong mật làm chỉ
thị sinh học
Việc lựa chọn loài chỉ thị theo phương pháp của Chauzat et al. (2006) và Ghini
et al. (2004)
2.3.2.1. Phương pháp điều tra cộng đồng và đánh giá tiềm năng sử dụng
Sử dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp người dân địa phương để thu thập
thông tin
2.3.2.2. Khảo sát hàm lượng kim loại nặng trên cơ thể và các sản phẩm của
ong mật
Theo phương pháp khối phổ plasma cảm ứng ICP-MS (Inductively Coupled
Plasma Emission Mass Spectrometry) (EPA, 2007), phương pháp phân tích quang
phổ hấp thụ nguyên tử, phương pháp phân tích ICP-MS (TCVN 7602:2007, TCVN
7603:2007, TCVN 7604:2007; phương pháp phân tích sắc ký lỏng hiệu năng cao
(HPLC), phương pháp phân sắc ký khí khối phổ GCMS
2.3.3. Phương pháp nghiên cứu mối quan hệ sinh thái của các loài ong mật
với các sinh cảnh
Nhóm sinh cảnh (SC) để nghiên cứu mối liên quan sinh thái gồm:
(1) SC rừng thường xanh gắn với Hệ sinh thái rừng tự nhiên
(2) SC rừng trồng gắn với Hệ sinh thái rừng trồng
(3) SC vườn cây lâu năm gắn với Hệ sinh thái vườn cây lâu năm
(4) SC cây hàng năm (lúa, ngô, đậu, lạc, mía, đay, rau ...) gắn với
Hệ sinh thái đồng ruộng
Sử dụng các phương pháp thu bắt và tính toán như ở mục 2.3.1
2.3.4. Phương pháp xử lý số liệu và công thức tính toán
Các số liệu được xử lý, phân tích và tính toán trên máy tính theo các phương pháp
toán học được ứng dụng trong sinh học với mức xác xuất (P<0.05 với một số
chương trình thống kê sinh học SPSS 9.0 và RESTART 4.0 trong Windows 2000.
Chƣơng 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thành phần loài và phân bố của các loài thuộc họ ong mật Apidae ở
một số tỉnh thuộc miền Bắc Việt Nam
3.1.1. Thành phần các loài ong mật họ Apidae tại điểm nghiên cứu
Trên các sinh cảnh được điều tra ở 18 tỉnh thuộc miền Bắc Việt Nam, đã ghi
nhận được 60 loài ong mật thuộc 2 phân họ (phân họ ong mật Apinae và phân họ
ong xẻ Xylocopinae) của 7 giống thuộc họ ong mật Apidae.
8
10 loài được ghi nhận mới cho khu hệ ong mật của Việt Nam gồm: loài
Thyreus abdominalis rotratus, Thyreus ceylonicus lilanius, Thyreus decorus,
Thyreus centrimacula, Thyreus regalis, Elaphropoda khasiana, Ceratina
lieftinck, Ceratina collusor, Ceratina humilor, Ceratina sutepensis và bổ sung
mới cho khu hệ ong mật miền Bắc 17 loài (ngoài 10 loài còn ghi nhận thêm
được 7 loài ong mật gồm: loài Amegilla himalajensis, Ceratina smaragdula,
Ceratina simillima, Ceratina unimaculata, Xylocopa aestuans, Xylocopa
dejeanii, Xylocopa ruficornis). Riêng loài ong mật Thyreus regalis ghi nhận tại
huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc và đây là thông tin quan trọng bổ sung dữ liệu về sự
phân bố của loài Thyreus regalis trên bản đồ phân bố trên thế giới.
Cấu trúc thành phần loài ong mật theo các giống bao gồm: giống Ceratina có
nhiều loài nhất 17 loài, tiếp theo là giống Xylocopa có 11 loài, giống Thyreus có 9
loài giống Bombus có 7 loài, giống Amegilla có 6 loài và giống Apis và Elaphropoda
có 5 loài. Tuy nhiên, tỷ lệ (%) bắt gặp cao nhất tập trung ở giống Apis (chiếm
35,12%) và tỷ lệ bắt gặp thấp nhất thuộc giống Elaphropoda (chiếm 0,04%) (Hình
3.1).
Hình 3.1. Cấu trúc thành phần loài ong mật họ Apidae ở miền Bắc, Việt Nam
Hình 3.2. Tỷ lệ bắt gặp các loài ong mật họ Apidae ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam
9
Điều tra sự phân bố và tỷ lệ bắt gặp của các loài ong mật ở 20 tỉnh miền Bắc cho
thấy: Loài Apis cerana phân bố rộng nhất và bắt gặp ở 16/20 tỉnh nghiên cứu, tiếp
theo là loài ong ngoại Apis mellifera, ong khoái Apis dorsata và ong bầu đen
Bombus sp. phân bố ở 8/20 tỉnh nghiên cứu, ong hoa Apis florea phân bố ở 7/20 tỉnh
nghiên cứu. Các loài còn lại phân bố ở 1-3 tỉnh nghiên cứu. (Hình 3.2)
3.1.2. Đặc điểm hình thái của các loài ghi nhận mới ở Việt Nam
3.1.2.1. Đặc điểm hình thái của loài Ceratina collusor Cockerell, 1919
Cá thể cái
Hình 3.3. Hình thái ngoài của loài ong mật Ceratina collusor
A. Mặt trước phần đầu E. Đốt ngực trước
B. Đốt háng chân trước F. Vảy nhỏ
C. Khoảng giữa mắt đơn và mắt kép G. Mặt lưng phần bụng
D. Mặt lưng phần ngực H. Toàn bộ cơ thể
3.1.2.2. Đặc điểm hình thái của loài Ceratina humilor Cockerell, 1916
Cá thể cái
Hình 3.4. Hình thái ngoài của loài ong mật Ceratina humilor
A. Mặt nghiêng phần đầu E. Vảy nhỏ
B. Môi trên F. Mặt lưng phần bụng
C. Đốt ngực trước G. Toàn bộ cơ thể
D. Mặt trên phần đầu và phần ngực
3.1.2.3. Đặc điểm hình thái của loài Ceratina sutepensis Cockerell, 1929
10
Cá thể cái
Hình 3.5. Hình thái ngoài của loài ong mật Ceratina sutepensis
A.Mặt trước phần đầu D. Khoảng giữa mắt đơn và mắt kép
B. Mặt nghiêng phần đầu E. Mặt lưng phần bụng
C. Mặt lưng phần ngực F. Toàn bộ cơ thể
3.1.2.4. Đặc điểm hình thái của loài Ceratina lieftinck van der Vecht, 1952
Cá thể cái
Hình 3.6. Hình thái ngoài của loài ong mật Ceratina lieftinck
A. Mặt trước phần đầu D. Khoảng giữa mắt đơn và mắt kép
B. Mặt nghiêng phần đầu F. Toàn bộ cơ thể
C. Mặt lưng phần bụng
3.1.2.5. Đặc điểm hình thái của loài Elaphropoda khasiana (Schulz, 1906)
Cá thể cái
Hình 3.7. Hình thái ngoài của loài ong mật Elaphropoda khasiana
11
A. Mặt nghiêng phần đầu D. Đốt ống chân sau
B. Mặt dưới râu E. Mặt lưng phần bụng
C. Cánh F. Toàn bộ cơ thể
3.1.2.6. Đặc điểm hình thái của loài Thyreus abdominalis rostratus (Friese,
1905)
Cá thể đực
Hình 3.8. Hình thái ngoài của loài ong mật Thyreus abdominalis rostratus
A. Mặt trước phần đầu D. Đốt ống chân giữa
B. Vảy nhỏ E. Mặt lưng phần ngực
C. Mặt lưng đốt bụng 4-7 F. Toàn bộ cơ thể
3.1.2.7. Đặc điểm hình thái của loài Thyreus ceylonicus lilacinus (Cockrell,
1919)
Cá thể cái
Hình 3.9. Hình thái ngoài của loài ong mật Thyreus ceylonicus lilacinus
A. Mặt trước phần đầu (con đực) E. Mặt lưng phần ngực (con cái)
B. Mặt lưng phần ngực (con đực) F. Mặt nghiêng phần bụng (con cái)
C. Mặt lưng phần bụng (con đực) G. Toàn bộ cơ thể con đực
D. Mặt trước phần đầu (con cái) H. Toàn bộ cơ thể con cái
12
3.1.2.8. Đặc điểm hình thái của loài Thyreus centrimacula (Pérez, 1905)
Cá thể cái
Hình 3.10. Hình thái ngoài của loài ong mật Thyreus centrimacula
A. Mặt trước phần đầu C. Toàn bộ cơ thể
B. Đốt ống chân giữa và chân sau
3.1.2.9. Đặc điểm hình thái của loài Thyreus decorus (Smith, 1852)
Cá thể cái
Hình 3.11. Hình thái ngoài của loài ong mật Thyreus decorus
A. Mặt trước phần đầu C. Mặt ngoài đốt ống chân sau
A. Mặt lưng phần bụng D. Toàn bộ cơ thể
3.1.2.10. Đặc điểm hình thái của loài Thyreus regalis Lieftinck, 1962
13
Cá thể cái
Hình 3.12. Hình thái ngoài của loài ong mật Thyreus regalis
A. Mặt trước phần ngực D. Mặt dưới đốt bụng thứ 6
B. Mặt lưng phần ngực E. Toàn bộ cơ thể
C. Vảy nhỏ
3.1.3. Đặc điểm sinh học phân tử của quần thể ong nội Apis cerana tại một
số tỉnh phía Bắc, Việt Nam
Để đánh giá sự đa dạng của các quần thể ong nghiên cứu, phương pháp PCR
được sử dụng để khuếch đại đoạn gen ty thể cox1 với cặp mồi COI. Kết quả cho
thấy một băng đặc hiệu có đúng kích thước mong muốn (Hình 3.13)
Hình 3.13. Sản phẩm PCR gen cox1 trên gel agarose 1%
Phân tích trình tự nucleotide bằng phần mềm BioEdit ver 7.0.9 (Hình 3.14).
(a) Trình tự gen ty thể cox 1 mẫu ong tại Ba Vì
(b) Trình tự gen ty thể cox 1 mẫu ong tại Lạng Sơn
(c) Trình tự gen ty thể cox 1 mẫu ong tại Vĩnh Phúc
14
(d) Trình tự gen ty thể cox 1 mẫu ong tại Đồng Văn
(f) Trình tự gen ty thể cox 1 mẫu ong tại Cao Bằng
Hình 3.14. Trình tự gen ty thể cox 1 của 5 mẫu ong nội Apis cerana
Mối quan hệ của các quần thể ong nội nghiên cứu được xác định dựa trên trình
tự của gen ty thể cox1, cây phát sinh loài được trình bày ở Hình 3.15 cho thấy: 5
quần thể ong nội nghiên cứu tạo thành 2 nhóm di truyền khác nhau. Nhóm 1 gồm
các quần thể: BaVi, CaoBang, VinhPhuc; nhóm 2 gồm: DongVan-HaGiang,
LangSon.
Hình 3.15. Kết quả alignment 5 quần thể ong nghiên cứu
(Các vị trí nucleotide được bôi màu là vị trí bị đột biến)
BaVi
CaoBang
VinhPhuc
DongVan-HaGiang
LangSon
Hình 3.16. Phân nhóm quan hệ của 5 quần thể ong nội ở một số tỉnh phía
Bắc theo trình tự đoạn gen ty thể cox1.
15
3.2. Nghiên cứu khả năng sử dụng một số loài ong mật làm chỉ thị sinh học
nhằm đánh giá sự ô nhiễm môi trƣờng ở các sinh cảnh nghiên cứu
3.2.1. Các loài ong mật có thể sử dụng làm chỉ thị sinh học tại các điểm
nghiên cứu
Đã điều tra thu thập được 9 loài ong mật họ Apidae có thể sử dụng làm chỉ thị sinh
học, để xác định hàm lượng các kim loại nặng và xác định tồn dư thuốc BVTV để đánh
giá sự ô nhiễm môi trường cho các sinh cảnh nghiên cứu (Bảng 3.3).
Bảng 3.3. Các loài ong mật có khả năng làm chỉ thị sinh học tại các điểm
nghiên cứu ở miền Bắc, Việt Nam
3.2.2. Nghiên cứu hàm lượng kim loại nặng trong các sản phẩm của loài ong
mật Apis cerena indica tại một số điểm nghiên cứu.
Nghiên cứu hàm lượng kim loại nặng trong các sản phẩm của Apis cerena (phân
loài Apis cerana indica) được tiến hành ở các điểm nghiên cứu thuộc 3 tỉnh Hà Nội,
Cao Bằng và Hà Giang.
3.2.2.1. Hàm lượng kim loại nặng trong cơ thể ong mật Apis cerana indica
Tại Hà Nội, thứ tự sắp xếp 10 kim loại nặng được nghiên cứu trong cơ thể ong
mật Apis cerana là Fe >Zn >Mn > Cu >Hg>Ni >Pb>As> Co> Cd.
Kết quả cho thấy, tại Hà Nội 3 nguyên tố kim loại nặng Fe, Zn và Mn có hàm
lượng cao và biến động nhiều, các nguyên tố còn lại có hàm lượng thấp với biên độ
giao động nhỏ (Hình 3.17).
STT Tên khoa học Phân bố
Tỷ lệ
bắt gặp
(%)
Sinh cảnh nghiên
cứu
SC1 SC2 SC3 SC4
1. Apis cerana Fabricius
HG, CB, TQ, LS, VP, BK,
QN, HN, TN, PT, SL,
LCh, LC, TH, NA, VP
17,97 + + + +
2. Apis mellifera Linnaeus
LS, HN, ĐB, SL, CB, BK,
HG
6,07 + + + +
3. Apis florea Fabricius
LS, HN, ĐB, SL, CB, BK,
HG
6,07 + + + +
4. Apis dorsata Fabricius HG, TQ, HN, SL, VP, QN 4,76 + + + +
5.
Amegilla zonata
(Linnaeus)
HG, CB, TQ, LS, BK,
BG, BN, HN, SL
6,32 + + + +
6.
Bombus flavescens
Smith
CB 5,58 + +
7.
Thyreus himalayensis
(Radoszkowski)
CB, BK, BG, SL 2,13 + +
8.
Ceratina nigrolateralis
Cockerell
LS, HB, LC, ĐB 2,71 + +
9.
Xylocopa tenuiscapa
Westwood
CB, HN, LC, SL, PT 3,53 + +
16
Tại Cao Bằng, thứ tự sắp xếp 10 kim loại nặng được nghiên cứu trong cơ thể ong
mật Apis cerana indica là Fe >Zn >Mn >Cu >Pb>Ni >Co>As >Hg >Cd. 3 kim loại
nặng Fe, Zn, Mn có hàm lượng thấp và biến động nhỏ, nguyên tố Fe là kim loại được tìm
thấy trong cơ thể ong mật với hàm lượng cao được xác định ở điểm Tam Kim ở năm 2015,
nguyên tố kim loại As và Cd tại điểm Minh Thanh có hàm lượng thấp
Hình 3.17. Sự dao động của hàm lƣợng kim loại nặng trong cơ thể ong mật
Apis cerana indica ở các điểm nghiên cứu
Tại Hà Giang, thứ tự sắp xếp 10 kim loại nặng được nghiên cứu trong cơ thể ong
mật Apis cerana indica là Fe >Zn >Mn >Cu >Hg >Pb >Ni >As >Cd >Co. 3 kim loại
nặng Fe, Zn, Mn có hàm lượng cao hơn ở Cao Bằng và thấp hơn ở Hà Nội. (Hình
3.17)
3.2.2.2. Hàm lượng kim loại nặng trong ruột ong mật Apis cerana indica
Tại Hà Nội, thứ tự sắp xếp 10 kim loại nặng được nghiên cứu trong cơ thể ong
mật Apis cerana indica là Mn >Zn >Fe >Cu >Ni >Hg >Pb >As >Cd >Co. Hàm
lượng các kim loại Mn , Zn, Fe trong ruột ong mật có biên độ giao động lớn, trong
khi đó các kim loại Co, As, Cd, Ni và Pb có hàm lượng với biên độ giao động nhỏ
hơn (Hình 3.18).
Tại Cao Bằng, thứ tự sắp xếp 10 kim loại nặng được nghiên cứu trong cơ thể
ong mật Apis cerana indica là Mn> Zn >Fe >Cu >Pb >Co >Hg >Ni >Cd >As.
Hàm lượng của 10 kim loại nghiên cứu trong ruột của ong mật ở Cao Bằng có
biên độ giao động không lớn.
Hình 3.18. Sự dao động của hàm lƣợng kim loại nặng trong mẫu ruột ong
mật Apis cerana ở các điểm nghiên cứu
17
Kết quả nghiên cứu tại Cao Bằng ghi nhận 3 kim loại nặng Mn, Zn và Fe có hàm
lượng cao và biến động nhỏ trong ruột của ong mật Apis cerana (Hình 3.18).
Tại Hà Giang, thứ tự sắp xếp 10 kim loại nặng được nghiên cứu trong cơ thể ong
mật Apis cerana indica là Mn >Zn >Fe >Cu >Hg >Cd >Pb >Ni >As >Co. Hàm
lượng của 10 kim loại nghiên cứu trong ruột ong mật ở Hà Giang có biên độ giao
động không lớn như ở Cao Bằng. (Hình 3.18).
3.2.2.3. Hàm lượng kim loại nặng trong mẫu sáp ong
Tại Hà Nội, thứ tự sắp xếp 10 kim loại nặng được nghiên cứu trong cơ thể ong
mật Apis cerana indica là Fe> Zn> Cu >Ni >Mn >Pb> Hg >As >Co >Cd. Hàm
lượng các kim loại Fe, Zn, Cu, Ni và Mn trong sáp ong có biên độ giao động lớn,
Co, As, Cd và Pb có hàm lượng với biên độ giao động nhỏ hơn (Hình 3.19).
Tại Cao Bằng, thứ tự sắp xếp 10 kim loại nặng được nghiên cứu trong cơ thể ong
mật Apis cerana indica là Fe >Zn >Mn >Cu >Ni >Pb >Hg >As >Co >Cd; 4 kim loại
nặng Fe, Zn, Mn và Cu có hàm lượng cao và biến động nhỏ trong sáp của ong mật
Apis cerana indica (Hình 3.19).
Hình 3.19. Sự dao động của hàm lƣợng kim loại nặng trong mẫu sáp ong
mật Apis cerana indica ở các điểm nghiên cứu
Tại Hà Giang, hàm lượng các kim loại nặng trung bình cũng thấp so với ở Hà
Nội và Cao Bằng. Hàm lượng kim loại nặng trung bình cao nhất là Fe sau đó đến Zn
và Mn. Thứ tự sắp xếp 10 kim loại nặng được nghiên cứu trong cơ thể ong mật Apis
cerana indica là Fe >Zn >Mn >Cu >Pb >Ni >Hg >As >Co >Cd. Hàm lượng của 10
kim loại nghiên cứu trong sáp ong mật ở Hà Giang có biên độ giao động không lớn
(ngoại trừ Fe và Zn) (Hình 3.19).
3.2.2.4. Hàm lượng kim loại nặng trong mẫu mật ong
Tại Hà Nội, hàm lượng các kim loại nặng trung bình cao nhất là Fe sau đó đến Zn,
Hg, Cu và Mn. Thứ tự sắp xếp 10 kim loại nặng được nghiên cứu trong mật ong mật
Apis cerana indica là Fe >Zn > Cu >Ni> Mn> Pb >As >Hg>Co >Cd. Hàm lượng các
18
kim loại Fe trong mật ong có biên độ giao động lớn, trong khi đó các kim loại Hg, Co,
As, Cd và Pb có hàm lượng với biên độ giao động nhỏ (Hình 3.20).
Tại Cao Bằng, hàm lượng các kim loại nặng trung bình thấp so với các điểm thu
mẫu ở Hà Nội, cao nhất là Fe sau đó đến Hg, Mn và Zn. Thứ tự sắp xếp 10 kim loại
nặng được nghiên cứu trong cơ thể ong mật Apis cerana indica là Fe> Mn> Zn>
Cu> Ni> Pb> As>Hg> Co> Cd. Hàm lượng của 10 kim loại nghiên cứu trong mật
của ong ở Cao Bằng có biên độ giao động không lớn (Hình 3.20).
Hình 3.20. Sự dao động của hàm lƣợng kim loại nặng trong mẫu mật ong
Apis cerana indica ở các điểm nghiên cứu
Tại Hà Giang, hàm lượng kim loại nặng trung bình cao nhất là Fe sau đó đến Zn
và Hg. Thứ tự sắp xếp 10 kim loại nặng được nghiên cứu trong mẫu mật ong Apis
cerana indica là Fe >Zn >Cu >Mn >Pb> Ni>As > Hg >Co >Cd. Hàm lượng của 10
kim loại nghiên cứu trong cơ thể ong mật ở Hà Giang có biên độ giao động không
lớn (Hình 3.20).
3.3. Nghiên cứu mối quan hệ sinh thái của các loài ong mật với các sinh
cảnh và đề xuất một số biện pháp bảo tồn
3.3.1. Mối quan hệ giữa thành phần loài của ong mật ở các dạng sinh cảnh
khác nhau
Hình 3.21. Quan hệ giữa số lƣợng loài và tỷ lệ bắt gặp của các giống thuộc
họ ong mật Apidae ở các sinh cảnh nghiên cứu
19
Điều tra thu mẫu cho thấy giữa số lượng loài ong mật và tỷ lệ bắt gặp của chúng
ở 4 sinh cảnh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_nghien_cuu_thanh_phan_cac_loai_ong_mat_hymen.pdf