Tóm tắt Luận án Pháp luật về vận tải đa phương thức trong điều kiện hội nhập quốc tế

Quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đặt ra một số yêu cầu đối

với pháp luật về VTĐPT trong giai đoạn hiện nay, cụ thể:

Thứ nhất, cần khẩn trương khắc phục những hạn chế trong công

tác xây dựng pháp luật như tình trạng manh mún, thiếu đồng bộ, tính

khả thi kém. Chú trọng việc nội luật hóa những điều ước quốc tế mà

Việt Nam là thành viên.

Thứ hai, cần tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu các quy định pháp luật

về VTĐPT của các nước, đặc biệt là các nước trong khu vực.

Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính và tạo dựng thể chế

để bảo đảm sự bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh của hoạt động kinh

doanh VTĐPT trong kinh tế thị trường.

Thứ tư, đẩy mạnh việc tổ chức thi hành, thực thi các quy định pháp

luật về VTĐPT có hiệu quả phù hợp với các thông lệ quốc tế phổ biến.

pdf27 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 08/03/2022 | Lượt xem: 439 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Pháp luật về vận tải đa phương thức trong điều kiện hội nhập quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ương thức trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Thứ ba, Luận án đã làm rõ thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về vận tải đa phương thức ở Việt Nam trên các phương diện: (i) Về điều kiện kinh doanh vận tải đa phương thức; (ii) Về chủ thể quan hệ vận tải đa phương thức; (iii) Về hợp đồng vận tải đa phương thức; (iv) Giải quyết tranh chấp về VTĐPT. 5 Bốn là, Luận án đã chỉ ra các định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về vận tải đa phương thức ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế. Với những kết quả đạt được, Luận án là tài liệu có giá trị tốt để các cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp tham khảo trong hoạt động xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật trong lĩnh vực vận tải nói chung và vận tải đa phương thức nói riêng, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về vận tải đa phương thức; Luận án cung cấp nguồn tư liệu tin cậy phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập về vận tải đa phương thức. 6. Kết cấu của Luận án Ngoài Phần mở đầu, phần tổng quan về tình hình nghiên cứu đề tài, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được cơ cấu thành ba chương với các nội dung cụ thể sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về vận tải đa phương thức và pháp luật về vận tải đa phương thức Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về vận tải đa phương thức ở Việt Nam Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về vận tải đa phương thức ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế. PHẦN TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 1. Khái quát về tình hình nghiên cứu ở ngoài nước và Việt Nam Trình bày khái quát các công trình khoa học đã được công bố trong và ngoài nước về: những vấn đề lý luận về vận tải đa phương thức, những vấn đề lý luận pháp luật về vận tải đa phương thức, thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về vận tải đa phương thức, 6 định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật về vận tải đa phương thức. 2. Đánh giá những kết quả nghiên cứu đã đạt được và những vấn đề đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện trong Luận án 2.1. Những kết quả nghiên cứu đã đạt được Qua quá trình khảo cứu các công trình khoa học đã được công bố trong và ngoài nước, tác giả rút ra một số nhận xét đánh giá chung về các kết quả nghiên cứu đã đạt được như sau: Thứ nhất: Những vấn đề lý luận chung về vận tải đa phương thức (VTĐPT) đã được khá nhiều công trình nghiên cứu đề cập ở các nội dung như khái niệm, đặc trưng, vai trò, lợi ích của VTĐPT, các mô hình VTĐPT. Thứ hai: Ở khía cạnh pháp lý, các nghiên cứu tập trung vào các vấn đề lý luận về hợp đồng VTĐPT và trách nhiệm trong VTĐPT. Tuy vậy, chưa có công trình nghiên cứu nào đưa ra khái niệm pháp luật về VTĐPT, cấu trúc pháp luật về VTĐPT và xây dựng hệ thống lý luận chung về vấn đề này. Thứ ba: Một số công trình nghiên cứu đã đi sâu phân tích các quy định pháp luật quốc tế ở những vấn đề cơ bản nhất như: Hợp đồng VTĐPT, trách nhiệm của người vận chuyển... Ngoài ra cũng đã có những công trình nghiên cứu về pháp luật của các quốc gia, khu vực cụ thể và thực tiễn áp dụng. Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu ngoài nước chưa có công trình nào đề cập đến pháp luật Việt Nam, còn với các công trình nghiên cứu trong nước chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu đầy đủ và toàn diện về pháp luật và thực trạng thi hành pháp luật về VTĐPT ở Việt Nam. Thứ tư: Về đề xuất giải pháp đối với pháp luật về VTĐPT trong điều kiện hội nhập quốc tế, chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập 7 tới các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về VTĐPT ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế. Như vậy, cho đến thời điểm hiện nay chưa có công trình nghiên cứu được công bố nào ở cấp thạc sỹ và tiến sỹ, sách chuyên khảo, đề tài khoa học nghiên cứu toàn diện về pháp luật VTĐPT Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế. Vì vậy, đề tài: “Pháp luật về vận tải đa phương thức trong điều kiện hội nhập quốc tế" không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố cũng như có những đóng góp mới về mặt khoa học và thực tiễn. 2.2. Những vấn đề đặt ra cần được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện trong luận án Để thực hiện đề tài: “Pháp luật về vận tải đa phương thức trong điều kiện hội nhập quốc tế”, các vấn đề mà tác giả phải giải quyết bao gồm: Một là, nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của VTĐPT và pháp luật về VTĐPT ở Việt Nam. Hai là, xây dựng hệ thống lý luận pháp luật về VTĐPT. Ba là, làm rõ những ưu điểm và hạn chế trong quy định pháp luật về VTĐPT và thực tiễn việc áp dụng các quy định pháp luật hiện nay, nhằm đưa ra các đánh giá về vấn đề này ở Việt Nam. Thứ tư, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật về VTĐPT, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. 3. Cơ sở lý thuyết, câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu 3.1. Cơ sở lý thuyết Để thực hiện luận án, tác giả dựa trên một số cơ sở lý thuyết điển hình như: Lý thuyết chung về vận tải hàng hóa; học thuyết Mác - Lênin về nhà nước và pháp luật; lý thuyết về hợp đồng; lý thuyết về quản lý 8 nhà nước để xây dựng hệ thống lý luận về VTĐPT và pháp luật về VTĐPT. Ngoài ra, Luận án cũng được thực hiện trên cơ sở quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế trong việc đề xuất các định hướng và giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về VTĐPT trong thời kỳ hội nhập quốc tế. 3.2. Các câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu - VTĐPT là gì? VTĐPT mang lại những lợi ích gì đối với nền kinh tế? Giả thuyết nghiên cứu: VTĐPT là hình thức vận chuyển hàng hoá bằng ít nhất hai phương thức vận chuyển, theo một hợp đồng, một chứng từ vận tải và một người chịu trách nhiệm đối với toàn bộ hàng hoá. VTĐPT có thể được thực hiện dựa trên nhiều mô hình khác nhau nên mang lại lợi ích to lớn cho các bên tham gia và cho cả xã hội. - Pháp luật VTĐPT là gì? Cấu trúc hình thức và nội dung của pháp luật về VTĐPT như thế nào? Giả thuyết nghiên cứu: Pháp luật VTĐPT bao gồm tổng thể các quy định pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong hoạt động VTĐPT. Các quy định pháp luật VTĐPT được thể hiện trong nhiều loại văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như: trong các ĐƯQT, các văn bản quy phạm pháp luật do quốc gia ban hành. Ngoài ra, trong một số trường hợp, các tập quán quốc tế hay án lệ cũng được sử dụng để điều chỉnh quan hệ VTĐPT. Vì VTĐPT là một hình thức vận chuyển hàng hoá, do vậy, pháp luật về VTĐPT cũng là một bộ phận thuộc pháp luật về vận chuyển hàng hoá. Nội dung pháp luật VTĐPT sẽ bao gồm các nhóm quy phạm pháp luật điều chỉnh về điều kiện kinh doanh VTĐPT, quy định về chủ thể 9 quan hệ VTĐPT, hợp đồng VTĐPT, giải quyết tranh chấp về VTĐPT và các quy định liên quan đến quản lý nhà nước về VTĐPT. - Những tồn tại trong pháp luật về VTĐPT và việc thực hiện pháp luật về VTĐPT ở Việt Nam là gì? Pháp luật về VTĐPT ở Việt Nam cần phải hoàn thiện như thế nào và cần có những giải pháp gì để nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật? Giả thuyết nghiên cứu: Pháp luật VTĐPT bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh với các nội dung có tính đặc thù của VTĐPT, đặc biệt là về trách nhiệm của người kinh doanh VTĐPT. Bên cạnh đó, vẫn còn những hạn chế, bất cập. Để đáp ứng những đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế, pháp luật về VTĐPT ở Việt Nam cần được tiếp tục sửa đổi, bổ sung theo hướng bảo đảm sự thống nhất với pháp luật về vận tải hàng hóa và logistics cũng như của toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung, đồng thời bảo đảm sự tương thích với pháp luật quốc tế để tăng cường hội nhập. Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VẬN TẢI ĐA PHƯƠNG THỨC VÀ PHÁP LUẬT VỀ VẬN TẢI ĐA PHƯƠNG THỨC 1.1. Những vấn đề lý luận về vận tải đa phương thức 1.1.1. Sự ra đời và phát triển của vận tải đa phương thức Mua bán, trao đổi hàng hóa phát triển làm gia tăng nhu cầu vận chuyển hàng hóa một cách nhanh chóng và hiệu quả. Lịch sử VTĐPT được đánh dấu bằng sự kết hợp của ít nhất hai phương tiện vận tải trong một hành trình liền mạch từ cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thế kỷ XX. Cuộc cách mạng container trong những năm 60, sự ra đời của tàu chuyên dụng chở container kiểu tổ ong (Cellular container vessels), tàu Ro - Ro, cần cẩu giàn (gantry crances) đã thúc đẩy sự tăng trưởng của VTĐPT. 10 Ở Việt Nam, dịch vụ vận chuyển hàng hóa bằng VTĐPT do một công ty giao nhận của Việt Nam tự đứng ra tổ chức được thực hiện lần đầu tiên bởi công ty Vietfracht từ năm 1982. Trong những năm gần đây, với sự phát triển hết sức nhanh chóng của nền kinh tế Việt Nam, các điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật của ngành GTVT được cải thiện ngày một rõ rệt đã tạo ra những tiền đề thuận lợi cho phương pháp vận tải này phát triển ngày càng nhanh chóng tại Việt Nam. 1.1.2. Khái niệm vận tải đa phương thức Theo tác giả, VTĐPT có thể được hiểu như sau: Vận tải đa phương thức là hình thức vận chuyển hàng hoá bằng ít nhất hai phương thức vận chuyển, theo một hợp đồng, một chứng từ vận tải và một người chịu trách nhiệm đối với toàn bộ hàng hoá. 1.1.3. Đặc điểm của vận tải đa phương thức So với các phương thức vận tải hàng hoá truyền thống và dịch vụ logistics VTĐPT có các đặc điểm cơ bản sau đây: Thứ nhất, VTĐPT là hoạt động vận chuyển hàng hóa có ít nhất hai phương thức vận tải khác nhau tham gia. Đây là điểm khác biệt cơ bản của VTĐPT với vận tải đơn thức và logistics. Thứ hai, người kinh doanh VTĐPT hành động với vai trò người chịu trách nhiệm tổ chức toàn bộ hoạt động vận chuyển, là trung tâm của toàn bộ quá trình VTĐPT. Thứ ba, toàn bộ quá trình vận chuyển hàng hoá chỉ dựa trên một hợp đồng giữa nhà cung cấp dịch vụ và người gửi hàng và được thể hiện trên một chứng từ vận tải duy nhất hoặc một vận đơn VTĐPT. Thứ tư, chỉ có một người chịu trách nhiệm về hàng hoá trước người gửi hàng, đó là người kinh doanh VTĐPT. Thứ năm, người gửi hàng phải trả cho người kinh doanh VTĐPT tiền cước phí chở suốt cho tất cả các phương thức vận tải mà hàng hoá 11 đi qua theo một mức giá xác định hoặc dựa trên những nguyên tắc xác định giá được các bên thoả thuận trong hợp đồng. Thứ sáu, VTĐPT có phạm vi vận tải rộng với sự tham gia đa dạng của các phương thức vận tải. 1.1.4. Các mô hình vận tải đa phương thức và vai trò của vận tải đa phương thức 1.1.4.1. Các mô hình vận tải đa phương thức VTĐPT có thể được thực hiện theo nhiều mô hình khác nhau như: Mô hình vận tải đường biển - vận tải hàng không (Sea - Air), mô hình vận tải bộ - vận tải hàng không (Road - Air), mô hình vận tải đường sắt - vận tải bộ (Rail - Road), mô hình vận tải đường sắt/ đường bộ/ vận tải nội thủy - vận tải đường biển (Rail/ Road/ Inland waterway - Sea), mô hình cầu lục địa (Land Bridge) và một số mô hình khác. 1.1.4.2 Vai trò của vận tải đa phương thức trong nền kinh tế Những lợi ích mà VTĐPT mang lại bao gồm: Tạo ra một đầu mối duy nhất trong việc vận chuyển; Giảm chi phí và thời gian vận tải; Đơn giản hóa thủ tục, chứng từ; Tạo điều kiện tốt hơn để sử dụng các phương thức vận tải, tạo ra các dịch vụ vận tải mới; Bảo vệ môi trường... Thông qua mạng lưới vận tải kết nối nhanh chóng và dễ dàng, VTĐPT có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt trong quá trình hội nhập quốc tế. 1.2. Những vấn đề lý luận pháp luật về vận tải đa phương thức 1.2.1. Khái niệm pháp luật về vận tải đa phương thức Trong phạm vi luận án, theo tác giả, pháp luật về VTĐPT bao gồm tổng thể các quy định pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động VTĐPT. 12 1.2.2. Cấu trúc hình thức và nội dung của pháp luật vận tải đa phương thức 1.2.2.1. Cấu trúc hình thức của pháp luật về vận tải đa phương thức Hoạt động VTĐPT thường có phạm vi vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Cấu trúc hình thức của pháp luật về vận tải đa phương thức bao gồm: Các điều ước quốc tế về vận tải hàng hóa, luật quốc gia, các tập quán thương mại quốc tế, án lệ. 1.2.2.2. Cấu trúc nội dung của pháp luật về vận tải đa phương thức Việc xác định cấu trúc nội dung của pháp luật về VTĐPT được thực hiện dựa trên việc phân nhóm các quan hệ xã hội chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Ở Việt Nam, nội dung của pháp luật về vận tải đa phương thức bao gồm: Các quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh; Các quy định về chủ thể quan hệ vận tải đa phương thức; Các quy định pháp luật về hợp đồng vận tải đa phương thức; Các quy định về giải quyết tranh chấp về vận tải đa phương thức. 1.2.3. Các nguyên tắc của pháp luật vận tải đa phương thức Các nguyên tắc của pháp luật vận tải đa phương thức bao gồm: Nguyên tắc bảo đảm quyền tự do, bình đẳng trong kinh doanh; Nguyên tắc bảo đảm lợi ích của các bên trong hoạt động vận tải; Nguyên tắc bảo đảm chủ động hội nhập thương mại quốc tế. 1.2.4. Sự phát triển của pháp luật về vận tải đa phương thức ở Việt Nam 1.2.4.1. Giai đoạn trước năm 2003 Trước khi Việt Nam ban hành Nghị định số 125/2003/NĐ-CP ngày 29/10/2003 của Chính phủ về vận tải đa phương thức, hoạt động kinh doanh VTĐPT và khung pháp lý về vấn đề này ở Việt Nam đều khá manh mún. 13 1.2.4.2. Giai đoạn từ năm 2003 đến nay Năm 2003, với sự ra đời của Nghị định số 125/2003/NĐ-CP, VTĐPT lần đầu tiên được điều chỉnh trực tiếp bằng một văn bản QPPL bên cạnh những văn bản QPPL quy định chung về vận chuyển hàng hóa. 1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật vận tải đa phương thức trong điều kiện hội nhập quốc tế Những yếu tố tác động đến pháp luật VTĐPT bao gồm: Chủ trương, chính sách của nhà nước về phát triển VTĐPT; Sự phát triển của thị trường VTĐPT; Đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế; Luật pháp quốc tế và tập quán quốc tế về VTĐPT; Sự tương tác giữa các bộ phận pháp luật. Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ VẬN TẢI ĐA PHƯƠNG THỨC Ở VIỆT NAM 2.1. Thực trạng pháp luật về vận tải đa phương thức 2.1.1. Thực trạng pháp luật về điều kiện kinh doanh vận tải đa phương thức Trong pháp luật Việt Nam, vận tải đa phương thức được phân chia thành vận tải đa phương thức nội địa và vận tải đa phương thức quốc tế và phải đáp ứng các điều kiện khác nhau. Đánh giá chung về điều kiện kinh doanh vận tải đa phương thức ở Việt Nam có thể thấy: Thứ nhất, quy định về điều kiện kinh doanh VTĐPT của Việt Nam về cơ bản tương đồng với pháp luật quốc tế và pháp luật các quốc gia trong khu vực. Thứ hai, điều kiện cấp giấy phép kinh doanh VTĐPT ở Việt Nam đơn giản hơn so với nhiều quốc gia trên cơ sở chỉ đặt ra yêu cầu về tài sản và bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp kinh doanh VTĐPT với tính 14 chất là điều kiện bảo đảm năng lực tài chính của người kinh doanh VTĐPT. 2.1.2. Thực trạng pháp luật về chủ thể quan hệ vận tải đa phương thức 2.1.2.1. Người gửi hàng Việc sử dụng khái niệm người gửi hàng trong pháp luật về VTĐPT Việt Nam là phù hợp với khái niệm consignor trong các điều ước quốc tế và pháp luật các quốc gia khác về VTĐPT. Tuy nhiên, đối chiếu với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về hợp đồng vận chuyển tài sản và văn bản pháp luật về vận tải đơn thức hiện hành, vừa dễ gây nhầm lẫn khi áp dụng. 2.1.2.2. Người kinh doanh VTĐPT và người vận chuyển thực tế Qua các quy định của pháp luật Việt Nam về người kinh doanh VTĐPT có thể thấy: Thứ nhất, pháp luật Việt Nam khá tương đồng với các nước trong khu vực trong việc ghi nhận đối tượng tham gia hợp đồng với vai trò người kinh doanh VTĐPT. Tuy nhiên, về phạm vi kinh doanh cũng có sự khác biệt khi Việt Nam chia VTĐPT thành VTĐPT quốc tế và VTĐPT nội địa và đặt ra điều kiện khác nhau cho người kinh doanh VTĐPT hoạt động ở phạm vi tương ứng, trong khi phần lớn các nước không có sự phân chia này Thứ hai, việc sử dụng khái niệm “người vận chuyển” trong Nghị định 87/2009/NĐ-CP mặc dù phù hợp với Hiệp định khung ASEAN về VTĐPT và một số quốc gia trong khu vực, nhưng lại chưa đảm bảo sự thống nhất với các quy định của các văn bản pháp luật về vận tải đơn thức như Luật Hàng không dân dụng năm 2006 (sđ), Bộ luật Hàng hải năm 2015. 2.1.2.3. Người nhận hàng 15 Theo quy định của Nghị định 87/2009/NĐ-CP, người nhận hàng là tổ chức, cá nhân được quyền nhận hàng hóa từ người kinh doanh vận tải đa phương thức. Tuy nhiên, việc nhận dạng người nhận hàng trong quy định pháp luật VTĐPT khá mờ nhạt. Các quy định về chứng từ VTĐPT cũng không quy định rõ về việc giao trả hàng hóa gắn với chứng từ VTĐPT. 2.1.3. Thực trạng pháp luật về hợp đồng vận tải đa phương thức Để điều chỉnh quan hệ hợp đồng VTĐPT, pháp luật Việt Nam đặt ra các quy định cụ thể điều chỉnh các nội dung sau: 2.1.3.1. Về chủ thể hợp đồng VTĐPT Trong quan hệ hợp đồng VTĐPT, chủ thể hợp đồng VTĐPT bao gồm người gửi hàng và người kinh doanh VTĐPT (đã được trình bày tại mục 2.1.2.1 và 2.1.2.2) 2.1.3.2. Về đối tượng của hợp đồng VTĐPT Điểm khác biệt về đối tượng của hợp đồng VTĐPT là ở chỗ người kinh doanh VTĐPT không đơn thuần chỉ thực hiện hoạt động vận chuyển mà chịu trách nhiệm tổ chức toàn bộ hoạt động vận chuyển trên cơ sở phối hợp hai hoặc nhiều phương thức vận chuyển. Hàng hoá trong VTĐPT thường được xác định với phạm vi rộng, bao gồm cả vật được sử dụng để chứa, đóng gói phục vụ cho việc vận chuyển. 2.1.3.3. Về nội dung, hình thức hợp đồng VTĐPT a. Nội dung hợp đồng VTĐPT Nội dung hợp đồng bao gồm tổng thể các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Trong pháp luật về VTĐPT, nội dung này được thể hiện qua các quy định về nghĩa vụ và trách nhiệm của người gửi hàng và người kinh doanh VTĐPT. b. Về hình thức hợp đồng VTĐPT 16 Nghị định số 87/2009/NĐ-CP đã có bước tiến đáng kể khi không đặt ra yêu cầu về hình thức hợp đồng, bỏ quy định về hình thức bắt buộc của hợp đồng VTĐPT. 2.1.3.4. Quy định về chứng từ vận tải đa phương thức Quy định về chứng từ VTĐPT trong pháp luật Việt Nam được xây dựng trên cơ sở quy định chung của Bản quy tắc của UNCITAD/ICC về chứng từ VTĐPT quốc tế, phù hợp với Hiệp định khung ASEAN về VTĐPT và quy định của các nước trong khu vực. 2.1.4. Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp 2.1.4.1. Phạm vi khiếu nại, khởi kiện Quy định về phạm vi khiếu nại, khởi kiện trong pháp luật về VTĐPT của Việt Nam đã bảo đảm sự phù hợp với các quy định trong pháp luật quốc tế và thống nhất với quy định về phạm vi trách nhiệm của người kinh doanh vận tải đa phương thức. 2.1.4.2. Thời hạn, thời hiệu Đối chiếu với các quy định pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp có thể thấy một số vấn đề nảy sinh từ các quy định này như sau: Về thời hạn khiếu nại: Thứ nhất, Nghị định 87/2009/NĐ-CP không có sự phân biệt về thời hạn khiếu nại đối với các trường hợp khiếu nại về chất lượng và số lượng hàng hóa. Thứ hai, trong trường hợp thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics tham gia hoạt động VTĐPT với vai trò người kinh doanh VTĐPT thời hạn khiếu nại sẽ được áp dụng theo Nghị định 87/2009/NĐ-CP. Thứ ba, Nghị định số 87/2009/NĐ-CP không đặt ra vấn đề nếu quá thời hạn khiếu nại mà không thực hiện khiếu nại, bên có quyền lợi bị vi phạm mất quyền khởi kiện tại Trọng tài, Toà án có thẩm quyền. Điều 17 này có nghĩa việc không thực hiện khiếu nại sẽ không ảnh hưởng tới quyền khởi kiện của bên có quyền lợi bị vi phạm. Về thời hiệu khởi kiện: Thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp về VTĐPT là 9 tháng, kể từ khi hàng hóa được giao trả xong cho người nhận hàng theo quy định tại khoản 3 Điều 20 hoặc sau ngày đáng lẽ hàng hóa được giao trả theo quy định trong hợp đồng vận tải đa phương thức hoặc sau ngày theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 21 của Nghị định số 87/2009/NĐ- CP. Hạn chế của quy định này là việc quy định thời hiệu khởi kiện ngắn về cơ bản dẫn đến sự hạn chế quyền khởi kiện khi phát sinh tranh chấp về VTĐPT. 2.1.4.3. Về phương thức giải quyết tranh chấp Việc giải quyết các tranh chấp về vận tải đa phương thức chỉ được giải quyết thông qua ba phương thức là: thương lượng giữa các bên, trọng tài hoặc tòa án theo quy định của pháp luật. Quy định này không chỉ mâu thuẫn với Luật Thương mại năm 2005, mà còn ảnh hưởng tới quyền lựa chọn hình thức và phương thức giải quyết tranh chấp của các chủ thể trong quan hệ VTĐPT cũng như đi ngược lại chủ trương phát triển hoà giải thương mại ở Việt Nam. 2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về vận tải đa phương thức 2.2.1. Những kết quả đạt được trong thi hành pháp luật về vận tải đa phương thức Cùng với việc hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động VTĐPT, việc tổ chức thi hành các quy định pháp luật về VTĐPT cũng đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Thể hiện qua một số khía cạnh: Thứ nhất, thủ tục hành chính từng bước được đơn giản hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia vào hoạt động VTĐPT. 18 Thứ hai, môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện, bảo đảm cạnh tranh bình đẳng trong hoạt động vận tải đa phương thức. Những kết quả đã đạt được của Việt Nam nói trên đã thể hiện những nỗ lực của Việt Nam trong thực thi các cam kết quốc tế, đặc biệt là các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới FTA trong việc xóa bỏ các rào cản phi thuế quan, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại quốc tế. 2.2.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân Pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về VTĐPT trong thời gian qua cũng đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Thứ nhất, trong việc thực hiện các quy định về điều kiện kinh doanh. Bằng việc dỡ bỏ quy định về điều kiện kinh doanh đối với VTĐPT nội địa và thay vào đó quy định người kinh doanh các phương thức vận tải tham gia vào hoạt động vận tải đa phương thức phải đáp ứng các điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật tương ứng với mỗi phương thức vận tải. Do đó, rất khó để xác định khi nào doanh nghiệp tham gia với vai trò người kinh doanh VTĐPT, quan hệ được xác lập là VTĐPT hay vận tải kết hợp thông thường để thực hiện hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động này. Nguyên nhân là do chưa có sự phân định rõ giữa dịch vụ VTĐPT với logistics và vận tải thông thường, vì vậy gây nhầm lẫn giữa các dịch vụ vận tải, giao nhận, bốc dỡ, vận tải đa phương thức... và dịch vụ logistics. Thứ hai, về thủ tục đăng ký kinh doanh. Bằng việc phải thực hiện đăng ký kinh doanh với nhiều ngành nghề cụ thể, người kinh doanh VTĐPT phải đáp ứng các điều kiện với các ngành nghề vận tải hàng hóa cụ thể đó. Điều này tạo nên nhiều tầng 19 điều kiện kinh doanh, trở thành gánh nặng gây khó khăn cho các chủ thể kinh doanh. Thứ ba, việc phân chia VTĐPT thành VTĐPT nội địa và VTĐPT quốc tế chưa phù hợp, gây bất lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh VTĐPT nội địa. Do pháp luật lại chưa có các quy định đặc thù cho các hoạt động này, nên chưa đạt được mục đích tạo điều kiện cho sự phát triển của VTĐPT nội địa, đồng thời tồn tại quy định chưa phù hợp khi áp dụng chung cho cả VTĐPT nội địa và VTĐPT quốc tế. Việc phân chia này còn dẫn đến tạo ra sự bất lợi cho chính các doanh nghiệp trong nước trong áp dụng một số chính sách, chưa bảo đảm sự bình đẳng trong kinh doanh giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Thứ tư, trong việc thực hiện các quy định pháp luật về hợp đồng VTĐPT và giải quyết tranh chấp. Mặc dù việc tổ chức vận chuyển hàng hóa bằng ít nhất hai phương thức là đối tượng của hợp đồng VTĐPT, nhưng không phải lúc nào các bên cũng xác lập loại hợp đồng này. Việc các bên không gọi đúng tên quan hệ khi xác lập hợp đồng đã gây khó khăn cho việc xác định đúng quan hệ hợp đồng được xác lập, Việc xác định quan hệ được xác lập có phải là hợp đồng VTĐPT hay không còn gắn với việc áp dụng pháp luật giải quyết các tranh chấp về hợp đồng. Trong giải quyết tranh chấp về vận chuyển hàng hóa, rất khó để tìm được các vụ việc tranh chấp về VTĐPT được đưa ra giải quyết bằng con đường tố tụng. Một trong những nguyên nhân của hiện tượng này là do khái niệm “dịch vụ logistics” được quy định trong pháp luật Việt Nam có nội hàm bao gồm cả hoạt động VTĐPT. Nguyên nhân tiếp theo là trong quan hệ vận chuyển hàng hóa nói riêng và quan hệ hợp đồng kinh 20 doanh, thương mại tại Việt Nam nói chung, việc đặt tên cho hợp đồng cũng được thực hiện không thống nhất. Thứ năm, hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước còn có sự chồng chéo gây khó khăn cho các chủ thể kinh doanh. Bất cập trong quản lý nhà nước về VTĐPT hiện nay là sự thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán, chưa rõ ràng về trách nhiệm và giới hạn quản lý giữa các cơ quan nhà nước trong việc quản lý hoạt động V

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_an_phap_luat_ve_van_tai_da_phuong_thuc_trong_di.pdf
Tài liệu liên quan