Chương 3
THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỐI VỚI NỀN QUỐC PHÒNG Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO GIAI ĐOẠN 2000 - 2013
3.1. TÌNH HÌNH NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở LÀO GIAI ĐOẠN2000 - 2013
3.1.1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã giải
phóng sức sản xuất xã hội và tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu
ngành theo hướng tích cực
Trước đổi mới, mọi nguồn lực của nền kinh tế nước CHDCND Lào
không được khơi dậy, bởi sự hạn chế của cơ chế cũ - cơ chế kế hoạch hoá
tập trung, bao cấp. Với đường lối đổi mới kinh tế, KTTT định hướng
XHCN đã ra đời, phát triển, mọi nguồn lực xã hội được giải phóng và góp
phần to lớn vào việc phát triển kinh tế, bảo đảm kinh tế cho quốc phòng.
Với tư tưởng chỉ đạo của đường lối và chính sách kinh tế, nền kinh tế nước
CHDCND Lào từng bước được hình thành theo mô hình KTTT định hướng
XHCN. Mô hình kinh tế mới vừa phù hợp với điều kiện nước CHDNCD
Lào, vừa phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế các nước trên thế
giới, đồng thời nó còn phản ánh sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phải
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Hiện nay, KTTT
định hướng XHCN đã dẫn nền kinh tế nước CHDCND Lào phát triển với
tốc độ khá nhanh, đánh thức mọi tiềm năng, khơi dậy mọi nguồn lực, tạo
động lực mới để phát triển nền kinh tế.
Qua tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH đất nước 5 năm
lần thứ VI (2006 - 2010), tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 7,9%/ năm
(GDP bình quân đầu người là 1.069USD).
27 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 648 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Tác động của kinh tế thị trường đối với nền quốc phòng ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệ giữa kinh tế
với quốc phòng trong thời kỳ mới ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.
Tác động của kinh tế tri thức đến quốc phòng toàn dân ở Cộng hoà
dân chủ nhân dân Lào, Luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính
trị, mã số: 62 31 01 01, Hà Nội, 2007, do Khăm Phải Xà Phăng Nửa.
Sự phát triển nông nghiệp và tác động của nó đối với củng cố quốc
phòng ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào hiện nay, Luận án tiến sĩ kinh tế,
chuyên ngành kinh tế chính trị, mã số 62 31 01 01, Hà Nội, 2008, do Vi
lay Phết My Xay thực hiện.
Ngoài những luận án trên, còn có kỷ yếu hội thảo khoa học với đề
tài: Lý luận và thực tiễn trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Lào và Việt Nam. Đây là hội thảo khoa học quốc tế đã
diễn ra tại Hà Nội, ngày 31 tháng 10 năm 2006.
Tóm lại, việc nghiên cứu quan điểm của các nhà kinh tế học tư sản
cổ điển, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, các nhà kinh tế học
liên quan đến đề tài, nó là những vấn đề cơ sở quan trọng cho tác giả có
một cách nhìn khái quát tập trung nghiên cứu mới của đề tài ở các chương
tiếp theo.
1.3. NHỮNG KHOẢNG TRỐNG LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình trong và
ngoài nước, Luận án tiếp tục nghiên cứu và làm rõ các nội dung sau:
- Luận án sẽ khái quát một số lý luận cơ bản về KTTT, và phân tích
mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng.
- Phân tích tác động của KTTT đối với nền quốc phòng ở CHDCND Lào.
- Trên cơ sở lý luận và thực trạng tác động của KTTT đối với nền
quốc phòng, Luận án đã đề xuất quan điểm và giải pháp để phát huy tác
động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của KTTT đối với nền quốc
phòng ở CHDCND Lào.
7
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG
CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỐI VỚI NỀN QUỐC PHÒNG
2.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG
2.1.1. Quan niệm về kinh tế thị trường, lịch sử hình thành và
phát triển kinh tế thị trường
2.1.1.1. Quan niệm về kinh tế thị trường
Từ điển Kinh tế học hiện đại đã định nghĩa KTTT là "một kiểu tổ
chức kinh tế trong đó các quyết định về việc phân bổ các nguồn lực sản xuất
và phân phối sản phẩm được đưa ra trên cơ sở thoả thuận tình nguyện về
giá cả giữa nhà sản xuất và khách hàng, người lao động và người sử dụng
lao động".
Sự thực của KTTT và KTHH chính là hai mặt của cùng một sự vật,
KTHH phát triển đến trình độ nào thì KTTT cũng sẽ phát triển đến trình
độ đó. Mặc dù KTTT ra đời cùng với KTHH song KTHH là sự khái quát
của sản xuất tiến hành vì mục đích trao đổi. Sự liên kết kinh tế của việc
mua - bán giữa hai bên trong hoạt động SXHH và trao đổi hàng hoá tất
nhiên sẽ hình thành thị trường.
Như vậy, sau khi hình thái KTHH đã phát triển đạt trình độ rất cao
trong tương lai, nó sẽ tạo tiền đề sản sinh ra những nhân tố làm xuất hiện
và hình thành một hình thái kinh tế mới ở chính ngay trong lòng nó, hình
thái kinh tế này sẽ dần lớn lên thành mặt đối lập quay lại phủ định hình
thái KTHH cũng giống như hình thái KTHH đã phủ định hình thái kinh tế
tự nhiên, tự cấp, tự túc.
Rõ ràng, không thể đồng nhất KTHH với KTTT, bởi KTHH là một
phạm trù chỉ một hình thái kinh tế nó là một khái niệm tập hợp "mẹ" (khái
niệm lớn nhất của một tập hợp gọi là phạm trù), còn KTTT chỉ là một giai
đoạn phát triển của hình thái KTHH nên nó là khái niệm thuộc tập hợp
"con" nằm trong tập hợp "mẹ".
2.1.1.2. Sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường một hình thức phát triển cao của KTHH.
Lần theo chiều dài của lịch sử cho thấy sự hình thành và phát triển
của KTTT trải qua ba bước chuyển biến:
Bước chuyển biến thứ nhất: Từ mô hình kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự
túc lên mô hình KTHH ở nấc thang thấp nhất là KTHH giản đơn.
8
Bước chuyển biến thứ hai: Từ mô hình KTHH giản đơn lên mô
hình KTTT tự do. Đó là kinh tế mà thị trường tự do phát triển, điều tiết
nền kinh tế. Mọi vấn đề của nền kinh tế đặt ra đều do thị trường điều
chỉnh và quyết định.
Bước chuyển biến thứ ba: Từ mô hình KTTT tự do lên mô hình
KTTT hỗn hợp. Đó là nền kinh tế được điều chỉnh bởi cả hai lực lượng
chính phủ và thị trường.
2.1.2. Các nhân tố cấu thành kinh tế thị trường
2.1.2.1. Các chủ thể tham gia kinh tế thị trường
Trong số các chủ thể tham gia "trò chơi kinh tế thị trường", bên cạnh
các doanh nghiệp và Nhà nước, thì người dân với tư cách là người sản xuất
tư nhân hay người tiêu dùng cũng giữ vai trò là những chủ thể tích cực của
nền KTTT.
+ Nhà nước: Các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế - chủ thể quan
trọng của KTTT. Thực tế phát triển của nền KTTT cho thấy, so với kinh tế
tập trung, vai trò của Nhà nước trong nền KTTT không những không giảm
đi, mà còn ngày càng chứng tỏ như một nhân tố quan trọng không thể thiếu,
đảm bảo sự ổn định và phát triển của nền kinh tế quốc dân.
+ Doanh nghiệp: Doanh nghiệp là chủ thể trong hệ thống KTTT.
Bởi là nơi trực tiếp sản xuất ra mọi loại hàng hoá và dịch vụ được trao đổi
trên thị trường, doanh nghiệp (thuộc mọi loại hình và mọi thành phần)
chính là "các viên gạch" tạo ra nền tảng của KTTT.
+ Người tiêu dùng: Nền KTTT là nền kinh tế sản xuất ra nhằm mục
tiêu để bán, tức là người sản xuất là người bán những hàng hoá sản xuất ra
để đáp ứng nhu cầu của người mua - người mua chính là người tiêu dùng.
2.1.2.2. Hệ thống các loại thị trường
Hệ thống thị trường trong nền KTTT bao gồm các thị trường cơ bản
như: (i) thị trường hàng hoá và dịch vụ, (ii) thị trường lao động, (iii) thị
trường bất động sản, (iv) thị trường tài chính và (v) thị trường khoa học và
công nghệ.
2.1.2.3. Cơ chế vận hành của nền kinh tế: nền kinh tế thị trường
vận hành theo cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường là cơ chế điều tiết của nền kinh tế thị trường do sự
tác động của các quy luật vốn có của nó. Nói một cách cụ thể hơn, cơ chế
thị trường là hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau, tự điều tiết lẫn
nhau của các yếu tố giá cả cung - cầu, cạnh tranh trực tiếp phát huy tác
dụng trên thị trường để điều tiết nền kinh tế thị trường.
9
2.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA KINH TẾ VỚI QUỐC PHÒNG - CƠ SỞ
KHÁCH QUAN VỀ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỐI VỚI
NỀN QUỐC PHÒNG
2.2.1. Những vấn đề cơ bản về mặt lý luận của mối quan hệ giữa
kinh tế với quốc phòng
2.2.1.1. Về phạm trù "quốc phòng" và "kinh tế", mối quan hệ
giữa chúng
"Quốc phòng" là công cuộc giữ nước của một quốc gia, gồm tổng
thể các hoạt động đối nội và đối ngoại về quân sự, chính trị, kinh tế, văn
hoá, khoa học của Nhà nước và nhân dân để phòng thủ đất nước, tạo nên
sức mạnh toàn diện, cân đối, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng nhằm
giữ được hoà bình, đẩy lùi và ngăn chặn các hoạt động gây chiến của kẻ
thù và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh dưới các hình thức và quy mô.
Quốc phòng là hoạt của cả nước, trong đó lực lượng vũ trang là nòng cốt.
"Kinh tế" với tư cách là hệ thống tổ chức nhằm sản xuất, phân
phối, tiêu dùng của cải của xã hội luôn là nền tảng của sự tồn tại của loài
người. Khi xã hội chưa có giai cấp, chưa có Nhà nước, chưa có vấn đề
cạnh tranh kinh tế và vấn đề đối lập lợi ích kinh tế giữa nhóm người này
với nhóm người khác, quốc gia này với quốc gia khác. Do vậy, chưa có
hành vi chiếm đoạt, nên chưa cần có hoạt động bảo vệ các thành quả kinh
tế. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của LLSX, sự xuất hiện của giai cấp và
Nhà nước, chiến tranh đã trở thành một hiện tượng khá thường xuyên. Thực
tế này đã khiến các nhà tư tưởng, các nhà kinh tế, các nhà quân sự phải
quan tâm tới mỗi quan hệ giữa chiến tranh với kinh tế, giữa sức mạnh quân
sự và sức mạnh kinh tế.
Mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng về thực chất đó chính là
mối quan hệ hai quá trình vận động: quá trình vận động kinh tế với quá
trình xây dựng nền quốc phòng của đất nước.
2.2.1.2. Sự phụ thuộc của quốc phòng đối với kinh tế
Thứ nhất, nguồn gốc và cơ sở của quốc phòng do kinh tế quy định.
Thứ hai, chế độ kinh tế, tính chất của quan hệ sản xuất quy định tính
chất và sức mạnh của nền quốc phòng đất nước. Quốc phòng phụ thuộc
vào kinh tế không chỉ ở mặt kinh tế - kỹ thuật của sản xuất (LLSX) mà còn
ở mặt KT-XH (quan hệ sản xuất) của nền kinh tế.
Thứ ba, kinh tế là nguồn gốc cung cấp cho quốc phòng về vũ khí
trang bị kỹ thuật quân sự, để tiến hành chiến tranh và hoàn thành các
nhiệm vụ quốc phòng.
Thứ tư, nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu quốc phòng do kinh tế
cung cấp - nguồn nhân lực do nền KTTT cung cấp cho quốc phòng là
10
nguồn nhân có chất lượng ngày càng cao
Thứ năm, kinh tế đối với quốc phòng còn thể hiện ở sự hình thành
khu vực kinh tế quân sự của đất nước.
2.2.1.3. Sự tác động trở lại của quốc phòng đối với kinh tế
Trong mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng không
chỉ chịu sự chi phối của kinh tế như đã phân tích ở trên, mà còn có vai trò
tích cực nhất định đối với kinh tế:
Thứ nhất, một nền quốc phòng vững mạnh được xây dựng từ trong
thời bình sẽ tạo ra khả năng răn đe, ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu
phá hoại, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, ngăn ngừa nguy cơ xảy ra
chiến tranh, tạo môi trường chính trị - xã hội ổn định để phát triển kinh tế.
Thứ hai, nền quốc phòng phát triển cao sẽ là thị trường tiêu dùng
rộng lớn và luôn đặt ra đòi hỏi cao đối với nền kinh tế, có tác dụng thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.
Thứ ba, các hoạt động quốc phòng tham gia trực tiếp vào sự phát
triển kinh tế đất nước
Tóm lại, mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng nhìn về lâu dài
thì phát triển kinh tế xã hội có vị trí quyết định, tạo tiền đề và làm cơ sở
cho sự nghiệp củng cố an ninh - quốc phòng. Do vậy, phải biết dựa vào sự
phát triển của KT-XH, tận dụng mọi thành quả của hoạt động KT-XH để
tăng cường quốc phòng - an ninh và thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng-
an ninh. Đồng thời, phải coi trọng công tác quốc phòng, coi đấy là điều
kiện để đảm bảo môi trường thuận lợi cho phát triển KT-XH và bảo đảm
vững chắc các thành quả mà quá trình này đưa lại.
2.2.2. Nội dung sự tác động của kinh tế thị trường đối với nền
quốc phòng
Thứ nhất, KTTT đã tác động đến quy mô, tốc độ phát triển của khu
vực kinh tế quân sự.
Thứ hai, tác động vào việc tạo ra vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự
ngày càng hiện đại.
Thứ ba, góp phần nâng cao trình độ nguồn nhân lực trong lĩnh vực
quốc phòng.
Thứ tư, KTTT tác động sâu sắc đến phương thức tiến hành hành
chiến chiến tranh, đường lối quốc phòng, đến chiến lược quân sự, nghệ thuật
quân sự.
Thứ năm, KTTT đòi hỏi xây dựng một nền quốc phòng rộng khắp,
giáo dục kiến thức quốc phòng đã trở thành phổ biến hiện nay
11
Chương 3
THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỐI VỚI NỀN QUỐC PHÒNG Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO GIAI ĐOẠN 2000 - 2013
3.1. TÌNH HÌNH NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở LÀO GIAI ĐOẠN
2000 - 2013
3.1.1. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã giải
phóng sức sản xuất xã hội và tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu
ngành theo hướng tích cực
Trước đổi mới, mọi nguồn lực của nền kinh tế nước CHDCND Lào
không được khơi dậy, bởi sự hạn chế của cơ chế cũ - cơ chế kế hoạch hoá
tập trung, bao cấp. Với đường lối đổi mới kinh tế, KTTT định hướng
XHCN đã ra đời, phát triển, mọi nguồn lực xã hội được giải phóng và góp
phần to lớn vào việc phát triển kinh tế, bảo đảm kinh tế cho quốc phòng.
Với tư tưởng chỉ đạo của đường lối và chính sách kinh tế, nền kinh tế nước
CHDCND Lào từng bước được hình thành theo mô hình KTTT định hướng
XHCN. Mô hình kinh tế mới vừa phù hợp với điều kiện nước CHDNCD
Lào, vừa phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế các nước trên thế
giới, đồng thời nó còn phản ánh sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phải
phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX. Hiện nay, KTTT
định hướng XHCN đã dẫn nền kinh tế nước CHDCND Lào phát triển với
tốc độ khá nhanh, đánh thức mọi tiềm năng, khơi dậy mọi nguồn lực, tạo
động lực mới để phát triển nền kinh tế.
Qua tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH đất nước 5 năm
lần thứ VI (2006 - 2010), tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 7,9%/ năm
(GDP bình quân đầu người là 1.069USD).
Qua tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm lần thứ
VII (2011-2015), trong năm tài khoá 2011-2012, GDP của Lào tăng 8,3%
so với cùng kỳ, đạt khoảng 7,74 tỷ USD và GDP bình quân đầu người vào
khoảng 9,64 triệu Kíp (1.203USD).
3.1.2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã phát
huy nội lực nền kinh tế tạo cơ hội tận dụng các nguồn lực từ bên ngoài
Mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế và khuyến khích sự đầu tư của bên
ngoài là chủ trương chính sách của Đảng nhằm tranh thủ ngoại lực kết hợp
với nội lực để xây dựng đất nước tiến lên và làm giàu cho nền kinh tế của
12
nước ta từng bước hội nhập kinh tế quốc tế. Theo chủ trương chính sách
đó, cần phải mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế bằng cách đa phương hoá, đa
dạng hoá bảo đảm có hiệu quả và các bên cùng có lợi.
3.1.3. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo ra
nguồn dự trữ cho nền kinh tế
Quá trình xây dựng, phát triển nền KTTT định hướng XHCN chúng
ta đã có tích luỹ góp phần đáng kể vào dự trữ cho nền kinh tế: dự trữ về
lương thực, thực phẩm, vật tư nguyên nhiên liệu chiến lược, vàng và ngoại
tệ. Với nguồn dự trữ ấy cho phép có thể huy động cho việc đầu tư phát
triển những ngành kinh tế mũi nhọn, những lĩnh vực then chốt như: nhà
máy thuỷ điện, sân bay, ngân hàng, nông - công nghiệp và dịch vụ. Đặc
biệt có thể huy động trong việc bình ổn giá cả một số loại hàng hoá nào đó
khi cần thiết. Đồng thời có thể huy động để giải quyết những biến cố bất
ngờ như chiến tranh, thiên tai, những sự cố chính trị ở các vùng làm mất
trật tự an ninh xã hội.
3.2. THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỐI
VỚI NỀN QUỐC PHÒNG Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO GIAI
ĐOẠN 2000 - 2013
3.2.1. Những tác động tích cực của kinh tế thị trường đối với
nền quốc phòng
3.2.1.1. Kinh tế thị trường tạo cơ sở bảo đảm kinh tế cho bảo vệ
an ninh biên giới
Thứ nhất, sự phát triển của KTTT làm cho vấn đề bảo vệ an ninh
biên giới có sự thay đổi về chất cả trong nhận thức lẫn thực tiễn.
Thứ hai, sự phát triển của KTTT tạo cơ sở vật chất phục vụ cho bảo
vệ an ninh biên giới. Với những cơ chế thích hợp, KTTT đảm bảo được lợi
ích của các chủ thể sản xuất, kinh doanh, quan hệ trao đổi và lưu thông
hàng hoá kích thích LLSX phát triển tạo ra những yếu tố KT-XH và kinh
tế - kỹ thuật để bảo vệ an ninh biên giới.
Thứ ba, KTTT tạo ra các biện pháp bảo vệ an ninh biên giới. Xét
trên tổng thể trong mối liên hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
thì sự phát triển của KTTT là sự củng cố, hoàn thiện kiến trúc thượng tầng,
tạo ra cơ sở vững chắc về kinh tế, chính trị cho nhiệm vụ bảo vệ an ninh
biên giới.
13
3.2.1.2. Kinh tế thị trường thúc đẩy khoa học - công nghệ của đất
nước phát triển tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho tăng cường sức mạnh
quốc phòng
Thứ nhất, thúc đẩy sự phát triển của nguồn nhân lực chất lượng
cao. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực là chìa khoá trọng yếu quyết định
thành công của sự phát triển. Với chiến lược phát huy nguồn lực con
người, coi giáo dục và đào tạo là quốc sách trong gần 30 năm qua,
CHDCND Lào đã có một đội ngũ cán bộ khoa học khá dồi dào tốt nghiệp
đại học, có trình độ sau đại học như: giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ
được đào tạo, bồi dưỡng trong và ngoài nước.
Thứ hai, KH-CN thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, bền vững. KH-
CN đã góp phần to lớn vào việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả
trong các ngành sản xuất, kinh doanh. "Khoa học - công nghệ là yếu tố cơ
bản trong phát triển LLSX và nâng cao năng suất lao động xã hội ngày
càng cao, không có thành công nào tránh khỏi sự ứng dụng những thành
tựu của khoa học - công nghệ".
Thứ ba, KH-CN phát triển góp phần nâng cao hiệu quả trong hoạt
động lãnh đạo và quản lý KT-XH của Đảng và Nhà nước. Cùng với khoa
học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn cũng đã phát triển, nhiều vấn đề
lý luận ngày càng được làm sáng tỏ hơn đã góp phần đáng kể vào xây
dựng luận cứ khoa học cho các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp
luật... của Đảng và Nhà nước. Khoa học xã hội nhân văn trong những năm
qua đã được sử dụng có kết quả trong quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội,
quốc phòng, an ninh.
3.2.1.3. Kinh tế thị trường tạo điều kiện nâng cao đời sống nhân
dân, xây dựng môi trường chính trị, xã hội lành mạnh có lợi cho tăng
cường sức mạnh quốc phòng
Với kết quả trên, sau gần 30 năm đổi mới, KTTT định XHCN đã
phát triển và góp phần giải quyết nhiều vấn đề về đời sống KT-XH của
nhân dân, thu nhập của người lao động trong cả nước ở hầu hết các vùng
đều tăng, do đó góp phần vào việc ổn định xã hội, xây dựng môi trường
chính trị, văn hoá lành mạnh. Sự củng cố niềm tin vào Đảng, Nhà nước và
chế độ góp phần xây dựng tiềm lực chính trị tinh thần, tăng cường SMQP.
Dưới sự tác động của KTTT định hướng XHCN, người lao động no đủ
hơn, giải quyết công ăn việc làm, đời sống vật chất tinh thần được nâng lên
14
rõ rệt. Nhờ đó, ý Đảng lòng dân ngày càng gắn bó hơn, tin tưởng hơn vào
sự nghiệp đổi mới của Đảng. Vấn đề chủ nghĩa yêu nước gắn với CNXH
đã được kiểm nghiệm trên thực tế, đây là cơ sở chính trị xã hội hết sức
quan trọng để xây dựng sức mạnh của nền QPTD trong quá trình phát triển
theo đường lối đổi mới của Đảng.
3.2.1.4. Kinh tế thị trường góp phần thực hiện đường lối quốc
phòng toàn dân của Đảng
Trong những năm qua xuất phát từ tình hình thế giới và trong nước,
Đảng và Nhà nước ta đã có sự đổi mới về tư duy quân sự và nhiệm vụ
bảo vệ, xây dựng đất nước. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo đảm ổn định và an ninh vững mạnh là
nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta, đồng thời cũng là điều kiện thuận lợi tất
yếu đối với sự phát triển KT-XH và làm ăn của nhân dân". Đảng và Nhà
nước đã chủ trương chuyển hướng chiến lược phòng thủ đất nước từ Đại
hội đại biểu, toàn quốc lần thứ IV (1986), đề ra chủ trương mới trong xây
dựng nền quốc phòng - an ninh toàn dân, toàn diện (hoặc nền QPTD).
Xây dựng nền QPTD gắn bó với nhiệm vụ xây dựng nền an ninh nhân
dân, đặt quốc phòng - an ninh trong cùng chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện bước chuyển hướng quan trọng về tư duy quân sự, đó là xây
dựng nền quốc phòng thời bình đủ sức ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ
chiến tranh, tranh thủ điều kiện hoà bình, tạo môi trường thuận lợi để bảo
vệ và xây dựng đất nước.
3.2.2. Những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đối với nền
quốc phòng
3.2.2.1. Mặt trái của kinh tế thị trường tác động đến mặt chính trị
tinh thần của quân đội, ảnh hưởng không thuận lợi đến quá trình đảm
bảo kinh tế cho quốc phòng
Thứ nhất, mặt trái của KTTT đã và đang làm cho sự chênh lệch về
KT-XH càng xa giữa các tỉnh, các vùng, các ngành kinh tế, ảnh hưởng
không thuận lợi đến quá trình đảm bảo kinh tế cho quốc phòng.
Các tỉnh, vùng, ngành kinh tế có đặc điểm, điều kiện kinh tế, tài
nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý khác nhau. Vì vậy, quá trình đảm bảo kinh
tế cho quốc phòng có những thuận lợi và khó khăn khác nhau.
Những tỉnh, vùng, ngành kinh tế có đặc điểm, điều kiện, vị trí địa lý
thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên dồi dào là những tỉnh, vùng, ngành kinh
15
tế có tốc độ phát triển kinh tế nhanh. Dưới sự tác động của CCTT, những
tỉnh, vùng, ngành kinh tế này ngày càng có quy mô và tốc độ phát triển to
lớn và nhanh hơn. Ngược lại, các tỉnh miền núi, nhất là miền Bắc, kết cấu
hạ tầng kém phát triển, trình độ dân trí thấp, nguồn vốn đầu tư trong và
ngoài nước vào các tỉnh này rất thấp so với các tỉnh có điều kiện thuận lợi
như miền Trung, miền Nam, do đó, nền kinh tế ở đây vốn đã nghèo nàn lạc
hậu, nay so với các tỉnh trọng điểm kinh tế, khoảng cách này càng xa.
Thứ hai, mối quan tâm của xã hội đối với nhiệm vụ củng cố quốc
phòng có phần giảm sút, khi công tác chính trị, tư tưởng chưa tiến hành có
hiệu quả.
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp với các thể chế
vận hành của nó đã kiềm chế con người theo đuổi lợi ích kinh tế, vì vậy,
chính trị trở thành một trong những tiêu điểm chú ý của mọi người, vai trò
của chính trị được đề cao, các thành viên trong xã hội tận tâm, tận lực đối
với việc củng cố quốc phòng. Từ khi chúng ta chuyển sang KTTT, sự kiềm
chế con người về mặt kinh tế có điều kiện bung ra, lôi cuốn các tầng lớp xã
hội, dân cư vào quá trình "săn đuổi" lợi ích kinh tế, vấn đề chính trị có xu
hướng mờ nhạt. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lợi dụng sự
chuyển đổi này tăng cường tấn công lôi kéo xây dựng cơ sở, cài cắm người
vào nội bộ với mục đích để từng bước chuyển hoá vai trò của tổ chức bộ
máy tiến tới xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta.
3.2.2.2. Mở cửa với nền kinh tế thị trường thế giới gây những khó
khăn trong xây dựng khu vực phòng thủ đất nước
Mở cửa với nền KTTT thế giới và sự phát triển của các thành phần
kinh tế trong nền kinh tế nhiều thành phần, bên cạnh những tác động tích
cực nhiều mặt về kinh tế, chính trị là hết sức rõ ràng. Tuy nhiên, bên cạnh
những tác động tích cực cũng tồn tại một thực tế đó là những khó khăn
nhất định trong một số mặt thuộc lĩnh vực quốc phòng, nhất là trong xây
dựng khu vực phòng thủ. Điều này được phản ánh qua quá trình hình
thành và xây dựng thế trận quốc phòng, khu vực phòng thủ trong những
năm qua.
3.2.2.3. Tác động của kinh tế thị trường gây khó khăn về đảm bảo
nguồn nhân lực có chất lượng cao cho quốc phòng
Nguồn nhân lực tham gia các hoạt động quốc phòng bao gồm nhiều
lực lượng, trong đó hoạt động của các LLVT là đặc trưng nhất. Ở đây chỉ
16
đề cập đến nguồn nhân lực đảm bảo cho các loại hình cơ cấu của quân đội,
dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên.
Thứ nhất, chất lượng chính trị nguồn nhân lực bổ sung cho lực
lượng thường trực của quân đội. Ngày nay trong điều kiện đất nước có
hoà bình, chúng ta tập trung phát triển kinh tế theo hướng phát triển KTTT
định hướng XHCN. Phát triển KTTT, bên cạnh mặt thuận lợi cũng đã làm
xuất hiện những khó khăn trong đảm bảo nguồn nhân lực cho quốc phòng.
Trước hết, biểu hiện ở ý thức của một bộ phận dân cư đối với nhiệm vụ
quốc phòng có sự biến đổi, theo chiều hướng ít quan tâm đến nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền QPTD.
Thứ hai, khó khăn về nguồn nhân lực tham gia dân quân tự vệ và
lực lượng dự bị động viên. Dân quân tự vệ và lực lượng dự bị động viên là
lực lượng có vai trò rất lớn trong quá trình xây dựng nền QPTD, thế trận
quốc phòng cũng như xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố), trong
chuyển hướng chiến lược phòng thủ đất nước. Nhưng dưới tác động của
KTTT, việc huy động nguồn nhân lực cho hai lực lượng này đang có
những khó khăn trở ngại nhất định đó là: những người tham gia thường và
chủ yếu là lực lượng đang trực tiếp lao động ở nông thôn, cơ quan, xí
nghiệp và họ lại là lực lượng lao động chủ yếu, nên việc huy động cho
những nhu cầu quốc phòng thường ảnh hưởng đến thu nhập của họ trong
thời gian tham gia hoạt động quân sự.
3.2.2.4. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường gây khó khăn
trong phát triển công nghiệp quốc phòng, xây dựng lực lượng dự trữ
quốc gia
Ngày nay vai trò của ngành CNQP rất to lớn. CNQP là bộ phận
quan trọng, chủ yếu để hình thành tiềm lực kinh tế quân sự. Một quốc gia
với vị trí địa kinh tế, địa chính trị như CHDCND Lào, xây dựng tiềm lực
kinh tế quân sự càng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với bảo vệ Tổ quốc
trong điều kiện quốc tế hiện nay. Xây dựng nền CNQP ở CHDCND Lào
trong những năm qua đã gặp những khó khăn nhất định dưới tác động của
KTTT.
17
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY
NHỮNG TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ TÁC ĐỘNG TIÊU
CỰC CỦA KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỐI VỚI NỀN QUỐC PHÒNG
Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO ĐẾN NĂM 2020
4.1. MỘT SỐ DỰ BÁO XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỐI VỚI NỀN QUỐC PHÒNG Ở CỘNG HOÀ DÂN
CHỦ NHÂN DÂN LÀO TRONG THỜI GIAN ĐẾN NĂM 2020
4.1.1. Xu hướng phát triển của kinh tế thị trường ở Cộng hoà dân
chủ nhân dân Lào
Thứ nhất, thông qua CNH, HĐH nền KTTT sẽ phát triển ngày càng
hiện đại hơn.
Thứ hai, quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế ngày càng
hướng theo chiều sâu trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế.
Thứ ba, CCTT và các yếu tố của KTTT ngày càng được tạo lập và
vận hành đồng bộ.
Thứ tư, vai trò quản lý vĩ mô về kinh tế, quốc phòng của Nhà nước
ngày càng có hiệu quả hơn.
4.1.2. Những dự báo về xu hướng tác động của kinh tế thị
trường đối với nền quốc phòng ở Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào
Xu hướng thứ nhất: Sự phát triển của kinh tế nước ta trong những
năm tới sẽ tác động ngày càng mạnh cả về quy mô, trình độ đối với nền
quốc phòng. Cụ thể sự tác động ấy được biểu hiện.
- Kinh tế thị trường đảm bảo kinh tế cho quốc phòng ngày càng tốt
hơn, đáp ứng đầy đủ hơn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tt_tac_dong_cua_kinh_te_thi_truong_doi_voi_nen_quoc_phong_o_cong_hoa_dan_chu_nhan_dan_lao_8454_19172.pdf