Về chiến lược phát triển kinh tế xã hội cả nước, Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần VIII chỉ rõ mục tiêu đến năm 2020 nước ta sẽ trở thành “một nước
công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại”. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII tổ chức năm 2016 sau đó có những điều chỉnh trong
phương hướng phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn 2016 – 2020 trong
đó xác định mục tiêu:
“Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn 5
năm trước. Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền
kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả
và sức cạnh tranh. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu22
sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.”
(Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần XII: 60).
27 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 08/03/2022 | Lượt xem: 362 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Thúc đẩy tăng trưởng bền vững về kinh tế ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a các quốc gia, tạo tiền đề cho
sự PTBV toàn cầu (Hoyer và Naess, 2001). Tăng trưởng kinh tế, thường
được xác định bằng GDP và GDP per capita, là giải pháp hữu hiệu nhất để
giải quyết vấn đề bất bình đẳng về điều kiện sống giữa các quốc gia. Nói
cách khác, tăng trưởng kinh tế, dưới hình thức tăng trưởng thu nhập, là
điều kiện bắt buộc để quá trình PTBV được đảm bảo (Kemp và Martens,
2007; Martens và Raza, 2010).
Tăng trưởng kinh tế để đạt được sự bền vững trong thời điểm hiện tại
cần nhấn mạnh nhiều đến các yếu tố công nghiệp hóa và đô thị hóa
(Ogbimi, 2007). Chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng là một nội dung thường
được đề cập đến trong các nghiên cứu liên quan đến tăng trưởng kinh tế
nói chung và TTBV về kinh tế nói riêng. Nghiên cứu của Temin (1999) đi
sâu hơn về việc tìm hiểu mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
tăng trưởng kinh tế thông qua việc xem xét những thay đổi trong dòng
chảy của lao động nông nghiệp ở 15 quốc gia Châu Âu trong thời kỳ 1955-
1975. Tác giả sau đó đưa ra kết luận rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu
hướng tăng 0,8% nếu tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động
giảm 20%. Mặc dù vậy, nhiều nghiên cứu lại cũng cho rằng chuyển dịch
cơ cấu theo hướng hiện đại hóa không đồng nghĩa với việc chỉ xem trọng
các ngành công nghiệp hiện đại công nghệ cao và bỏ rơi vai trò quan trọng
của ngành nông nghiệp và công nghiệp truyền thống. Nghiên cứu của
Spence và cộng sự (2010) thông qua phân tích thực trạng phát triển kinh
tế tại Trung Quốc và Thái Lan đã kết luận rằng sự tăng trưởng trong nông
nghiệp là một trong những điều kiện quan trọng để giải phóng lao động
sang các ngành khác và vì phần lớn người nghèo tập trung sinh sống ở khu
vực nông thôn nên việc tăng năng suất nông nghiệp có tác động tích cực
đến việc xóa đói giảm nghèo.
8
Có thể nói rằng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế có đóng góp
đáng kể đến tăng trưởng kinh tế và vai trò của nhà nước thể hiện ở chỗ đưa
ra những chính sách phù hợp để đảm bảo hướng chuyển được thực hiện
thuận lợi, từ đó giúp cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc gia được giữ
vững trong suốt thời gian tiếp theo (Peneder, 2001). Bên cạnh đó, kế thừa
quan niệm của các lý thuyết tăng trưởng kinh tế tân cổ điển và mới, nhiều
nghiên cứu tìm hiểu về vai trò của vốn nhân lực (vốn con người) trong đảm
bảo tính bền vững trong tăng trưởng trong nền kinh tế hiện đại. Altinok
(2007) cho rằng có sự tồn tại mối quan hệ nhân – quả giữa chất lượng giáo
dục và chất lượng vốn con người. Theo đó, sự cải tiến và hoàn thiện hóa
trong giáo dục là nhân tố quyết định đối với sự nâng cao chất lượng vốn
con người, từ đó dẫn đến sự TTBV về kinh tế của mỗi quốc gia.
Bên cạnh đó, nhiều vấn đề được đặt ra khi xem xét mối liên hệ giữa
TTBV về kinh tế với bảo vệ môi trường tự nhiên. Trong bài nghiên cứu
của mình, Solow (1991) nhấn mạnh rằng việc xem tăng trưởng kinh tế như
là điều kiện duy nhất để xóa nghèo đói có thể gây ra những ảnh hưởng tiêu
cực đến thế hệ tương lai. Do đó, Solow (1993) lập luận rằng các nền kinh
tế của mỗi quốc gia cần phải tìm ra cách trả phí môi trường đối với nguồn
tài nguyên đang cạn kiệt dần như là một phần tất yếu để đảm bảo yêu cầu
cần thiết cho một quá trình PTBV liên thế hệ được diễn ra thuận lợi. Tuy
nhiên, không ít nhà kinh tế học, trong đó nổi bật có nhà kinh tế học Daly
(1993, 1996), nhận định rằng tất cả vật chất trong môi trường sinh quyển
của thế giới này đều bị giới hạn về số lượng. Chính vì lý do đó, khả năng
về một sự thay thế vô hạn của nguồn vốn nhân tạo cho vốn tự nhiên như
nhận định của Solow (1993) là không thật sự khả thi.
Sự hữu hạn của vốn tự nhiên, khả năng thay thế hữu hạn của nguồn
vốn nhân tạo cùng với sự gia tăng của ô nhiễm môi trường dẫn đến yêu
cầu cấp thiết về sự can thiệp của Chính phủ nhằm đưa ra những chính lược,
chính sách để quản lý và bảo vệ nguồn năng lượng quý giá này. Beckerman
(1992) lên tiếng mạnh mẽ về hành động làm giảm đi sự chú ý của thực
trạng nóng lên toàn cầu và những vấn đề liên quan đến môi trường mà các
quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt. Kula (1998) chỉ ra rằng nhiều
chiến lược phát triển và tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước hiện nay bên
cạnh việc mở ra nhiều ngành công nghiệp mới góp phần vào việc đổi mới
9
cơ sở hạ tầng đô thị vẫn gây ra nhiều hệ quả khó lường do vấn đề môi
trường thường bị bỏ qua. Nghiên cứu sau đó chỉ ra những bất cập của các
chính sách phát triển kinh tế hiện nay là một trong những nguyên nhân dẫn
đến ô nhiễm môi trường trầm trọng và phát sinh vấn đề lãng phí nguyên
liệu ở nhiều nước.
Như vậy, có thể thấy rằng nhiều chính sách tăng trưởng đôi khi dẫn
đến những kết quả không mong muốn. Vì vậy, chính sách PTBV và TTBV
về kinh tế cần phải được đánh giá và xem xét khả năng thích nghi với yêu
cầu thực tiễn lúc đó và đòi hỏi mỗi quốc gia và vùng lãnh thổ phải có
những tính toán trong việc quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên
quý giá này một cách hợp lý và hiệu quả nhất có thể để đảm bảo sự bền
vững trong quá trình tăng trưởng kinh tế.
1.2. Công trình nghiên cứu trong nước
Nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra từ thực tế nước ta đang ở ngưỡng
phát triển thấp và nhiều vùng còn có tỷ lệ nghèo đói cao, số lượng các
nghiên cứu khoa học tìm hiểu và đánh giá thực trạng của nền kinh tế Việt
nam trong định hướng PTBV và tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững
dần tăng lên. Thực tế cho thấy quá trình PTBV nói chung và TTBV về
kinh tế nói riêng tại Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Nghiên cứu của
Hoàng Thị Chỉnh (2012) phân tích khái quát quy mô tăng trưởng bền vững
về kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn 2001 – 2010 cũng chỉ rõ những
mặt còn yếu kém của các mô hình tăng trưởng kinh tế thời điểm đó. Chất
lượng nguồn nhân lực hay chất lượng vốn con người tác động mạnh mẽ
đến sự tăng trưởng kinh tế.
Nguyễn Xuân Dũng (2008) nhận định, sự phát triển của nền công
nghiệp Việt Nam dù nhanh ở một số vùng trọng điểm nhưng vẫn chưa thể
hiện được sự bền vững trong vấn đề khai thác tiềm năng và nguồn lực con
người.
Quá trình đô thị hóa cũng giữ vai trò quan trọng và có tác động không
nhỏ đến sự TTBV về kinh tế của một đất nước hay một vùng lãnh thổ. Tuy
nhiên, nhiều nghiên cứu cũng cho thấy những nghịch lý, mâu thuẫn trong
quá trình triển khai đô thị hóa nhằm thúc đẩy TTBV về kinh tế tại nước ta
hiện nay. Nguyễn Quang Vinh (2013) trong nghiên cứu của mình đã chỉ ra
rằng mức độ đô thị hóa ở Việt Nam nói chung và vùng đồng bằng sông
10
Cửu Long nói riêng vẫn còn thấp và chủ yếu tập trung nhiều ở một vài
thành phố lớn, do đó gây ra tình trạng di chuyển dân cư từ khu vực nông
thôn sang khu vực thành thị, và tình trạng ô nhiễm chất thải ở khu vực
nông thôn, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển kinh tế - xã
hội các khu vực nông thôn của vùng.
Trong quan niệm về PTBV, một trong những vấn đề quan trọng là tìm
được sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường (Lưu Đức
Hải & Nguyễn Ngọc Sinh, 2001). Luật Bảo vệ Môi trường được chỉnh sửa
bổ sung năm 2005 thể hiện rõ sự tiến bộ về mặt nhận thức của Nhà nước
Việt Nam về tác động môi trường với nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, sự
thiếu kinh nghiệm và năng lực quản lý hiệu quả từ các cấp chính quyền
cùng với việc đẩy mạnh thực hiện mục tiêu sớm chuyển Việt Nam thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại khiến vấn đề thực hiện nghiêm
chỉnh Luật Bảo vệ Môi trường nói trên vẫn còn gặp nhiều khó khăn và bị
xem nhẹ (Clausen và cộng sự, 2011, Lafferty và Hovden, 2003). Cụ thể,
bằng việc phân tích số liệu đáng lo ngại được thu thập từ Tổng cục Thống
kê và nhiều nguồn liên quan, Ngô Thị Thanh Trúc và cộng sự (2008) đã
chỉ ra sự bất ổn và thiếu bền vững trong vấn đề quản lý và sử dụng hóa
chất trong nông nghiệp tại Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. Ngoài ra,
sự tăng nhanh của các KCN ở nhiều vùng trong cả nước và sự hạn chế về
nguồn lực đầu tư trong thu gom, xử lý chất thải cũng như nhận thức về vấn
đề môi trường chưa cao ở các KCN này đã phát sinh ô nhiễm môi trường
(Phương Nhung, 2010; Lê Thanh Sang, 2013).
Các tác giả tại Việt Nam đã xác định các tiêu chí đánh giá quá trình
CNH, HĐH như là một phần trong việc xác định mức độ PTBV của quốc
gia hay từng khu vực. Nguyễn Kế Tuấn và cộng sự (2015) trong cuốn
chuyên khảo “Phát triển đất nước thành nước công nghiệp hiện đại theo
định hướng xã hội chủ nghĩa” đã tập hợp khá đầy đủ các công trình nghiên
cứu của các tác giả trong nước đề xuất hệ tiêu chí đánh giá trình độ CNH,
HĐH của Việt Nam . Các nghiên cứu khác như nghiên cứu của Ngô Đăng
Thành và cộng sự (2009) đề xuất ra 3 nhóm tiêu chí cơ bản, một là nhóm
tiêu chí đánh giá sự phát triển kinh tế, hai là nhóm tiêu chí đánh giá sự phát
triển xã hội, và ba là nhóm tiêu chí đánh giá sự phát triển về môi trường,
để phản ánh mức độ tiến trình thực hiện công nghiệp hóa của nước ta hiện
11
nay. Đỗ Quốc Sam (2009) đã dựa trên cơ sở dữ liệu từ khoảng 20 nước
hoàn thành quá trình công nghiệp hóa trong những năm 1960-1970 đồng
thời kết hợp với các chỉ tiêu liên quan khác để xây dựng những tiêu chí cơ
bản, qua đó đánh giá quá trình công nghiệp hóa tại Việt Nam. Kế thừa
những kết quả nghiên cứu của các tác giả trên, Nguyễn Hồng Sơn và cộng
sự (2014) cũng đề xuất bộ chỉ tiêu gồm 4 tiêu chí, bao gồm tiêu chí về thu
nhập/người, tiêu chí về chuyển dịch cơ cấu, tiêu chí về PTBV cùng với
một số tiêu chí tham khảo, nhằm đánh giá cụ thể mức độ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Có thể thấy ràng, đối với nghiên cứu quốc tế, các nghiên cứu trên
mang một giá trị tham khảo cao khi đã khái quát rõ các yếu tố tác động
đến quá trình TTBV về kinh tế, đặt ra yêu cầu cấp thiết cho việc TTBV
nền kinh tế phải đi đôi với định hướng chính sách bền vững về môi trường
và xã hội thông qua một hệ thống quản lý xã hội hợp lý, và tiếp cận vấn đề
mang tính đa ngành, liên ngành. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu liên
quan chưa thật sự đưa ra được các chính sách và định hướng rõ ràng theo
từng giai đoạn tăng trưởng khác nhau, và chưa thể hiện rõ tính khả thi của
những phương pháp TTBV về kinh tế ở từng vùng, từng khu vực. Hầu hết
các công trình nghiên cứu trên được thực hiện với số liệu từ các nước Châu
Âu, Châu Mỹ với nền kinh tế khá khác biệt so với Việt Nam cũng là một
khiếm khuyết khó có thể bỏ qua.
Tổng quan các nghiên cứu trong nước cho thấy các công trình nghiên
cứu này thường tập trung nhiều ở phạm vi cả nước và tiếp cận ở nhiều giác
độ khác nhau. Nói cách khác, mặc dù có nhiều đề tài đề cập đến PTBV về
kinh tế trong thời gian qua nhưng không nhiều đề tài tập trung nghiên cứu
và đưa ra các chính sách cụ thể liên quan đến PTBV về kinh tế ở một vùng
lãnh thổ cụ thể. Ngoài ra, tương tự như các nghiên cứu quốc tế, hầu hết các
công trình nghiên cứu trong nước thường chú trọng đến việc đánh giá tác
động của một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng kinh tế mà
chưa quan tâm nhiều đến đánh giá ảnh hưởng tổng hợp của các yếu tố đến
quá trình tăng trưởng kinh tế của quốc gia nói chung và của từng vùng nói
riêng. Ngoài ra, các phương thức cụ thể để nâng cao, thúc đẩy TTBV về
kinh tế và các nội dung quản lý và kiểm soát chính sách nâng cao TTBV
về kinh tế ở các cấp vẫn chưa được xác định thật sự rõ ràng. Việc xây dựng
12
các hệ thống tiêu chí và chỉ tiêu nhằm đánh giá thực trạng TTBV về kinh
tế ở cấp vùng vẫn còn bị bỏ ngỏ. Cần nhấn mạnh rằng các hoạt động kinh
tế nhằm thúc đẩy phát triển và tăng trưởng là một quá trình diễn ra liên tục
không chỉ ở phạm vi mỗi quốc gia mà còn ở phạm vi mỗi vùng. Từ đó cho
thấy sự cần thiết của một công trình nghiên cứu chuyên sâu nhằm đánh giá
một cách toàn diện quá trình TTBV về kinh tế để trở thành nguồn tài liệu
quan trọng cho công tác định hướng chiến lược phát triển và tăng trưởng
kinh tế vùng sao cho quá trình này được diễn ra một cách bền vững.
Như vậy, chương 1 đã chỉ ra một số điểm còn hạn chế cũng như làm
rõ một số khoảng trống trong những nghiên cứu liên quan đến nội dung
luận án. Với lý do đó, luận án sẽ tập trung: (i) hệ thống hóa lại cơ sở lý
luận và thực tiễn trong việc đánh giá và xem xét thực trạng TTBV về kinh
tế vùng (ii) kế thừa và vận dụng cơ sở lý luận trên để xây dựng hệ thống
tiêu chí nhằm mục đích phân tích, đánh giá TTBV về kinh tế vùng, cụ thể
là vùng ĐNB; (iii) xác định tính đặc thù trong các yếu tố tăng trưởng kinh
tế của vùng ĐNB để đề xuất ra các giải pháp riêng biệt, phù hợp với các
đặc thù của vùng.
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC
TẾ VỀ TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG KINH TẾ VÙNG
2.1. Một số khái niệm về tăng trưởng bền vững kinh tế vùng
2.1.1. Vùng và kinh tế vùng
Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau xoay quanh việc tìm ra khái niệm
chung về vùng lãnh thổ và vùng kinh tế, nhưng nhìn chung các khái niệm
liên quan đến vùng, vùng kinh tế đều thừa nhận mỗi quốc gia là sự tập hợp
của nhiều vùng lãnh thổ khác nhau và nhiều vùng kinh tế khác nhau sẽ tạo
thành nền kinh tế của quốc gia đó. Hiểu rộng hơn, trong khi vùng lãnh thổ
được định nghĩa là một hình thức tồn tại vật chất được giới hạn trong một
vùng không gian xác định thì vùng kinh tế được đánh giá là một không
gian vận động và phát triển của nhiều ngành, lĩnh vực, là “một tổ hợp kinh
tế tương đối hoàn chỉnh có chuyên môn hóa kết hợp chặt chẽ với phát triển
tổng hợp” (Thôi Công Hào và cộng sự, 2002; Nguyễn Tiến Dũng, 2009).
2.1.2. Tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế
a. Tăng trưởng kinh tế
13
Theo Nafziger (1984), tăng trưởng kinh tế được định nghĩa là sự gia
tăng hay giảm sút về sản lượng hoặc thu nhập bình quân đầu người của
một nền kinh tế của một quốc gia trong khoảng thời gian ngắn hạn (thường
là một năm) hay thời kỳ này so với thời kỳ trước đó. Sự gia tăng này được
thể hiện ở quy mô và tốc độ tăng trưởng thu nhập. Trong đó, quy mô tăng
trưởng cho biết mức độ gia tăng nhiều hay ít của nền kinh tế, còn tốc độ
tăng trưởng được sử dụng nhằm so sánh một cách tương đối và phản ánh
sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ.
b. Phát triển kinh tế
Theo Nafziger (1984) thì phát triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế
kèm theo những thay đổi về phân phối sản lượng và cơ cấu kinh tế. Như
vậy, phát triển kinh tế phản ánh tất cả những thay đổi cả về kinh tế, xã hội,
chính trị, môi trường tự nhiên...Nói cách khác, phát triển kinh tế bao gồm
quá trình tăng trưởng, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế (thường hướng
đến việc giảm tỉ lệ nông nghiệp và tăng dần tỉ lệ công nghiệp, dịch vụ trong
nền kinh tế) và sự chuyển biến ngày càng tốt hơn về mặt xã hội (tăng tuổi
thọ bình quân, giảm sự bất bình đẳng trong xã hội).
2.1.3. Phát triển bền vững
Năm 1987, trong báo cáo Brundtland với tiêu đề "Our Common
Future”, Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới (WCED) đã lần đầu
tiên đề xuất một định nghĩa chính thức về PTBV là “sự phát triển thỏa
mãn nhu cầu hiện tại nhưng không làm tổn hại đến khả năng thỏa mãn
nhu cầu của thế hệ tương lai” (WCED, 1987: 43).
Ở Việt Nam, Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam mà Thủ tướng
Chính phủ xác định rõ định hướng chiến lược PTBV là cần phải “đạt được
sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hoá, sự bình đẳng
của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hoà giữa con người
và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà được ba
mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường” (Thủ
tướng Chính phủ, 2004: 21). Đại hội Đảng lần XI, lần XII đưa ra yêu cầu
Chiến lược kinh tế - xã hội suyên suốt trong giai đoạn 10 năm từ 2011 đến
2020 với nhiều nội dung quan trọng gắn liền với PTBV, trong đó xem
“phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo
nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và phát triển bền
14
vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách
phát triển kinh tế - xã hội" (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011: 9).
2.1.4. Tăng trưởng bền vững về kinh tế
Theo Trần Bình Trọng (2003: 309), tăng trưởng bền vững về kinh tế
là “tăng trưởng kinh tế đạt mức tương đối cao và ổn định trong thời gian
tương đối dài (thường là một thế hệ từ 20 – 30 năm)”. Ngoài ra, dựa trên
khái niệm PTBV và khái niệm tăng trưởng kinh tế, có thể khái quát rằng
tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững hay tăng trưởng bền vững về
kinh tế là duy trì sự ổn định về tăng trưởng kinh tế trong dài hạn nhằm đáp
ứng được các nhu cầu sống của con người mà vẫn duy trì được nguồn tài
nguyên thiên thiên và môi trường cho thế hệ tương lai.
2.2. Mô thức tăng trưởng bền vững kinh tế vùng và tiêu chí đánh giá
2.2.1. Mô thức tăng trưởng bền vững kinh tế
2.2.1.1. Hướng tiếp cận dưới góc độ kinh tế học
Theo Daly (1989) thì hiện nay có 2 mô thức TTBV phổ biến nhất, đó
là mô thức TTBV yếu (weak econmoc growth) và mô thức TTBV mạnh
(strong economic growth).
2.2.1.2. Hướng tiếp cận dưới góc độ môi trường
Theo hướng tiếp cận này thì có 4 mô thức tăng trưởng kinh tế, bao gồm:
a. Mô thức tăng trưởng kinh tế truyền thống
b. Mô thức tăng trưởng kinh tế thông qua khắc phục ô nhiễm, phục hồi
môi trường
c. Mô thức tăng trưởng kinh tế thông qua kiểm soát ô nhiễm môi trường
d. Mô thức tăng trưởng kinh tế xanh
2.2.2. Hệ thống tiêu chí đánh giá và phương pháp đánh giá tăng trưởng
bền vững kinh tế vùng
Luận án đã dựa trên hệ thống các chỉ tiêu cơ bản liên quan đến hệ
thống chỉ tiêu giám sát và đánh giá phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn
2011-2020, hệ thống tiêu chí đánh đá phát triển bền vững vùng của Việt
Nam giai đoạn 2011-2020 cùng với kế thừa các tiêu chí đánh giá mô hình
tăng trưởng mới theo tuyên bố của các nhà lãnh đạo APEC (2013) để cấu
trúc hệ thống các tiêu chí đánh giá TTBV vùng. Đây cũng là cơ sở để đánh
giá thực trạng TTBV về kinh tế vùng ĐNB giai đoạn 2008-2017, bao gồm:
5 thành tố với 15 yếu tố thành phần chia ra thành 48 chỉ số phản ánh chủ
yếu.
15
Bên cạnh đó, dựa trên nền tảng hệ tiêu chí đánh giá sự bền vững trong
tăng trưởng kinh tế của vùng được đề cập ở trên, do điều kiện thực tế khó
có thể thu thập hết tất cả số liệu các chỉ số, đề tài đề xuất hệ tiêu chí gồm
14 chỉ số có nguồn số liệu đầy đủ nhất liên tục từ năm 2008 đến năm 2017
để xác định mức độ bền vững trong tăng trưởng kinh tế của vùng ĐNB
trong giai đoạn 2008-2017.
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng bền vững kinh tế vùng
2.3.1. Các yếu tố tự nhiên và kinh tế - xã hội trong vùng
Bao gồm: (1) Điều kiện tự nhiên như vị trí địa lý, địa hình, khí hậu ,
(2) Nguồn lực đất đai, tài nguyên thiên nhiên, (3) Nguồn lực con người ,
(4) Nguồn lực vốn đầu tư, (5) Khoa học và công nghệ.
2.3.2. Các yếu tố thể chế trong nước
Các yếu tố thể chế bao gồm môi trường kinh tế, môi trường chính trị,
môi trường pháp lý, và chính sách được ban hành và thực thi, có ảnh hưởng
trực tiếp lẫn gián tiếp đến sự hình thành cơ cấu kinh tế theo hướng ngày
càng hoàn thiện và hiện đại, tạo điều kiện thuận lợi để phát huy sức mạnh
các ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế cũng như hỗ trợ cho mục tiêu
PTBV ở cấp quốc gia và cấp vùng lãnh thổ.
2.3.3. Các yếu tố và điều kiện quốc tế
2.4. Kinh nghiệm về tăng trưởng bền vững kinh tế vùng của một số
nước và bài học cho Việt Nam trong tăng trưởng bền vững kinh tế
vùng Đông Nam Bộ
2.4.1. Kinh nghiệm về tăng trưởng bền vững kinh tế vùng của một số
nước trên thế giới
2.4.1.1. Kinh nghiệm từ chính sách tăng trưởng bền vững về kinh tế
vùng ở Châu Á
a. Kinh nghiệm từ miền trung Thái Lan
b. Kinh nghiệm từ Miền Tây Trung Quốc
2.4.1.2. Kinh nghiệm từ chính sách tăng trưởng bền vững về kinh tế
vùng ở Châu Âu
Kinh nghiệm từ bang Schleswig-Holstein, Cộng hòa liên bang Đức
2.4.2. Một số bài học từ kinh nghiệm nước ngoài rút ra cho tăng
trưởng bền vững kinh tế vùng Đông Nam Bộ
Thứ nhất, cần tập trung phát triển và kiên trì xây dựng các ngành nghề
có năng suất lao động cao nhưng vẫn thể hiện được tính đặc trưng của
vùng, từ đó hình thành nên các ngành kinh tế mũi nhọn, các cực tăng
trưởng nhằm tạo nên hiệu ứng lan tỏa thúc đẩy các ngành khác cùng phát
triển.
16
Thứ hai, cần phải tận dụng một cách triệt để các thế mạnh về mặt địa
lý địa hình tự nhiên để làm điểm tựa cho quá trình tăng trưởng kinh tế được
diễn ra nhanh chóng và thuận lợi.
Thứ ba, chiến lược phát triển và tăng trưởng kinh tế cần có lộ trình
vững chắc, mục tiêu và chỉ tiêu cụ thể, trong đó việc tích hợp tốt chiến
lược và kế hoạch phát triển từng lĩnh vực, từng ngành với sự tham gia của
các địa phương trong vùng là vô cùng cần thiết.
Thứ tư, cần có sự hỗ trợ và hợp tác giữa các bên từ chính quyền trung
ương, chính quyền địa phương với các doanh nghiệp nhằm thực hiện thành
công chiến lược tăng trưởng kinh tế.
Thứ năm, kinh nghiệm của bang Schleswig-Holstein (CHLB Đức)
cho thấy sự cấp thiết của việc huy động và xây dựng một cơ chế tài chính
ngân sách riêng biệt, một quỹ phát triển dành cho vùng ĐNB.
Thứ sáu, thực hiện TTBV về kinh tế phải đồng hành với việc thực
hiện bảo vệ môi trường, gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường
nhằm xây dựng môi trường sống sạch đẹp, văn minh hiện đại cho dân cư
cả nước nói chung và của mỗi vùng lãnh thổ nói riêng.
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG VỀ KINH TẾ
VÙNG ĐÔNG NAM BỘ
3.1. Khái quát thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng bền
vững kinh tế vùng Đông Nam Bộ
3.1.1. Các yếu tố kinh tế trong vùng
3.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
a. Vị trí địa lý
ĐNB là một trong hai vùng nằm ở khu vực phía Nam Việt Nam bên
cạnh vùng Tây Nam Bộ. Vùng ĐNB bao gồm 5 tỉnh Đồng Nai (ĐN), Bình
Dương (BD), Bà Rịa - Vũng Tàu (BR-VT), Tây Ninh (TN), Bình Phước
(BP) và 1 thành phố trực thuộc trung ương là TPHCM. Vùng ĐNB có vị
trí địa kinh tế thuận lợi, có nguồn lực và tiềm năng phong phú về nhiều
mặt, có lợi thế lớn để mở rộng hợp tác giao lưu kinh tế với các vùng khác
ở trong nước và quốc tế.
b. Điều kiện đất đai – khí hậu
Vùng ĐNB có địa hình tương đối bằng phẳng với cấu tạo đất đa dạng.
Trong đó, đất xám bạc màu chiếm diện tích lớn nhất trong vùng ĐNB, tiếp
theo đó là đất đỏ feralit màu nâu trên đá bazan. Bên cạnh đó, vùng ĐNB
cũng sở hữu điều kiện khí hậu tương đối điều hòa, không thay đổi nhiều
trong năm và ít chịu những ảnh hưởng từ thiên tai. Tuy nhiên, vùng vẫn
17
còn chịu ảnh hưởng của hạn hán do mùa khô kéo dài từ 5 đến 6 tháng, gây
khó khăn trong việc sản xuất và sinh hoạt vào thời điểm này trong năm.
c. Tài nguyên thiên nhiên
Vùng ĐNB sở hữu nhiều loại tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước
và tài nguyên du lịch phong phú.
3.1.1.2. Vốn đầu tư để tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội
Vùng ĐNB đi đầu cả nước về việc thu hút các nguồn vốn đầu tư cả
trong và ngoài nước. Điều này tạo động lực vô cùng lớn cho quá trình phát
triển sản xuất từ đó thúc đẩy tăng trưởng và tăng trưởng kinh tế toàn vùng
nói chung và của từng địa phương trong vùng nói riêng.
3.2.1.3. Nguồn lực con người – lao động
Vùng ĐNB có tốc độ tăng dân số cao. Ngoài ra, có thể thấy xu hướng
chuyển dịch cơ cấu lao động từ nhóm ngành nông nghiệp sang các nhóm
ngành phi nông nghiệp đang diễn ra ổn định. Tuy nhiên, nguồn lực lao
động giản đơn vẫn còn chiếm chủ yếu .
3.1.2. Tác động ảnh hưởng của thể chế trong nước
Vùng ĐNB luôn được Chính phủ hỗ trợ mạnh mẽ thông qua nhiều
chủ trương, chính sách. Nhìn chung, các thể chế chính sách cả nước và
vùng ĐNB luôn được rà soát đánh giá lại cũng như có nhiều điều chỉnh
đổi mới, ngày càng chi tiết, rõ ràng và mang tính thực tiễn trong suốt thời
gian qua. Điều này thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc tạo mọi
điều kiện tốt nhất có thể để vùng ĐNB có thể thực hiện đổi mới, xây dựng
và triển khai các mục tiêu chiến lược mạnh mẽ, cụ thể để tạo động lực nâng
cao tính bền vững và chất lượng tăng trưởng của vùng.
Tuy nhiên, việc thực hiện các thể chế chính sách được ban hành vẫn
còn là một vấn đề cần phải được xem xét. Tình trạng cạnh tranh khốc liệt
giữa các địa phương để thu hút nguồn đầu tư dẫn đến xu hướng bỏ qua
hoặc giảm nhẹ kỷ luật và chế tài đối với các vi phạm. Vấn đề phối hợp
đồng bộ giữa các địa phương, đặc biệt trong việc cùng nhau đưa ra giải
quyết các vấn đề còn tồn đọng có thể ảnh hưởng đến quá trình PTBV của
toàn vùng ĐNB, vẫn còn chưa được thực hiện một cách trơn tru và đạt
được hiệu quả cần thiết.
3.1.3. Tác động từ điều kiện quốc tế
Vùng ĐNB đã và đang là nơi thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài,
tiếp nhận công nghệ mới tiên tiên, thuận lợi trong việc xuất khẩu các sản
phẩm hàng hóa nhưng cũng chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ từ hàng hóa nước
ngoài sau khi tham gia các hiệp định thương mại. Tuy nhiên, vùng ĐNB
tuy thu hút nhiều vốn đầu tư FDI nhưng vẫn dựa trên “lợi thế so sánh tĩnh”
18
là chủ yếu với sự năng động của các ngành công ngh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_thuc_day_tang_truong_ben_vung_ve_kinh_te_o_v.pdf