Những tiêu chí đánh giá PTCN ở Vĩnh Phúc
PTCN vốn đã là một phạm trù rộng nhưng trong khoa học hiện đại, PTCN ngày càng
được các nhà nghiên cứu lượng hóa các nội dung chi tiết để nó phản ánh chính xác hơn,
toàn diện hơn thực tế phát triển con người. Hiện nay, các nội dung nghiên cứu về PTCN đã
được các chuyên gia UNDP lượng hóa thành hàng trăm chỉ số, nhằm phản ánh cả những
những khía cạnh đạo đức, văn hóa, xã hội của sự phát triển con người ở các xã hội khác
nhau. Dù chưa thể đạt đến mức toàn diện, bao quát như đòi hỏi từ phương diện triết học,
nhưng PTCN theo tinh thần của LHQ đã khá bao quát, đã tính đến các chiều cạnh văn hóa,
xã hội, đạo đức chứ không chỉ đơn thuần gói gọn giản đơn trong các chỉ số về kinh tế,
giáo dục và sức khỏe, như có quan niệm đã lầm tưởng.
Trong việc xác định những tiêu chí đánh giá PTCN, luận án này dựa vào các quan
điểm phương pháp luận về PTCN của triết học Mác - Lênin, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của
Đảng Cộng sản Việt Nam và của UNDP về con người và PTCN; bao gồm các nội dung sau:
- PTCN là trung tâm của mọi sự phát triển, là mục tiêu và động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội. PTCN là nhằm tới sự phát triển ngày càng hoàn thiện của chính con
người.
- PTCN là sự phát triển ngày càng hoàn thiện về thể lực, trí lực và về văn hoá, tinh
thần.
- PTCN là sự mở rộng cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực lựa chọn cho con người.
Sự mở rộng và nâng cao này được định lượng bằng thước đo cụ thể (chỉ số HDI và
các chỉ số mở rộng)
Dựa trên hệ thống lý luận đã nghiên cứu, vận dụng vào nghiên cứu thực tiễn PTCN ở
tỉnh Vĩnh Phúc, theo chúng tôi, khung lý thuyết PTCN được áp dụng ở tỉnh Vĩnh Phúc về cơ10
bản là: Đó là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ chưa toàn diện đến toàn diện hơn về đời
sống vật chất và tinh thần, được thể hiện ở các phương diện: a). Thu nhập, b). Thể lực, c)
Trí lực, d). Văn hóa, tinh thần cũng như sự hài hòa giữa các yếu tố này. PTCN ở tỉnh Vĩnh
Phúc là sự mở rộng cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực lựa chọn cho người dân để người
dân vừa là chủ thể thực sự, tích cực của quá trình phát triển, và bản thân sự phát triển của
con người trên toàn địa bàn tỉnh vừa là mục tiêu cao nhất của mọi sự phát triển.
Từ quan niệm này, chúng tôi xây dựng những tiêu chí cụ thể trong nghiên cứu PTCN ở
tỉnh Vĩnh Phúc bao gồm các nội dung sau:
1.4.1. Sự PTCN ở Vĩnh Phúc về mặt kinh tế và thu nhập
Đánh giá PTCN trên phương diện xã hội thì thu nhập là yếu tố đầu tiên phản ánh
mức sống của con người, là điều kiện để duy trì đời sống, là điều kiện để nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của mình. Trên cơ sở đó, mỗi người mỗi người có điều
kiện vật chất để tham gia vào các hoạt động y tế, giáo dục, văn hoá, tinh thần để nâng
cao sức khoẻ, nâng cao tay nghề, cũng như tri thức của mình.
Góc độ thu nhập trong PTCN được đánh giá ở chỉ số thu nhập, ở mức độ thu
nhập thường xuyên đảm bảo nhu cầu thiết yếu và phát triển của con người, thể hiện ở
mức thu nhập tăng trưởng hàng năm, tính ổn định thu nhập trong các ngành kinh tế
trong cơ cấu kinh tế của vùng miền. Ngày nay khi đánh giá về PTCN, Chương trình
phát triển Liên hợp quốc đã chỉ ra một trong những thước đo quan trọng nhất đánh
giá sự tiến bộ của biến đổi cơ cấu kinh tế trong đảm bảo mục tiêu thu nhập là hướng
về người lao động, từ đó điều chỉnh sự phát triển kinh tế phục vụ mục tiêu PTCN.
1.4.2. Sự PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc qua tương quan giữa các chỉ số thành phần
của bộ công cụ HDI
Đối với Đảng bộ và các cấp chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc, PTCN trên thực tế
luôn gắn với những điều kiện kinh tế, xã hội và với những hoạt động của chính bản
thân các cộng đồng cư dân. PTCN luôn được quán triệt là trung tâm, là mục tiêu và là
động lực của tất cả các hoạt động kinh tế, xã hội.
Theo đó, PTCN là nhân tố chi phối, quy định và quyết định các yếu tố kinh tế,
xã hội, giáo dục, y tế còn các nhân tố khác chỉ là điều kiện, là cơ sở, tiền đề cho
PTCN. Về mặt lý thuyết, trình độ PTCN là thước đo cao nhất cả về định tính lẫn định
lượng để đánh giá các giá trị này. “Mục đích của phát triển là để tạo ra môi trường
thuận lợi cho phép con người được hưởng cuộc sống dài lâu, khỏe mạnh và sáng tạo”
[112, tr.148], PTCN không phải là phương tiện mà là mục tiêu của sự phát triển, con
người đóng vai trò là yếu tố quyết định cả “đầu vào” và ở cả “đầu ra” trong quá trình
phát triển, PTCN thường được xem xét ở cả yếu tố bên ngoài (mở rộng các cơ hội lựa
chọn) và cả yếu tố bên trong (nâng cao năng lực lựa chọn cơ hội cho con người), bộ
công cụ HDI của Chương trình này là thước đó đánh giá những tiến bộ đạt được của
mỗi quốc gia và toàn thể nhân loại đối trong PTCN. Khi nghiên cứu PTCN ở phạm vi
tỉnh thành của quốc gia mà cụ thể trong luận án nghiên cứu PTCN ở địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc hiện nay, việc sử dụng lý thuyết PTCN của UNDP là rất cần thiết để định
lượng những tiêu chí cụ thể về PTCN và đặc biệt đánh giá những tiến bộ và những
mặt hạn chế để từ đó đề ra các giải pháp phát triển kinh tế, xã hội đảm bảo đúng định
hướng vì mục tiêu PTCN.
Chỉ số HDI của UNDP là thước đo định lượng đánh giá trình độ PTCN được sử
dụng rộng rãi trên thế giới và ở Việt Nam, chỉ số HDI được đo bằng chỉ số trung bình11
của 3 chỉ số thành phần: Chỉ số thu nhập, chỉ số y tế và chỉ số giáo dục, việc sử dụng bộ
công cụ HDI đảm bảo tính phổ biến đánh giá trình độ PTCN vượt qua khỏi những khác
biệt về phạm vi vùng miền, phạm vi quốc gia cho chúng ta bộ công cụ đo đạc đánh giá,
so sánh những tiến bộ đạt được của cộng đồng ở mục tiêu PTCN. Đồng thời, đây cũng là
công cụ để đánh giá tương quan giữa thu nhập với giáo dục và y tế để đánh giá sự phát
triển kinh tế đã vì mục tiêu PTCN hay chưa, những tiêu chí này được các quốc gia sử
dụng vào đánh giá trình độ PTCN ở tỉnh trong các báo cáo thường niên.
1.4.3. Sự PTCN ở Vĩnh Phúc qua hoạt động xoá đói, giảm nghèo
Tình trạng đói, nghèo luôn được nhiều quốc gia quan tâm kể cả với các quốc gia
phát triển. Trong thời đại ngày nay, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của ác quốc gia, sự
phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng cộng thêm nữa là khủng hoảng kinh tế luôn có
nguy cơ đẩy một bộ phần lớn người lao động rơi vào tình trạng thất nghiệp, nợ nần
Vì thế mà Liên hợp quốc đã đưa vấn đề xoá đói, nghèo là mục tiêu quan trọng nhất
trong 8 mục tiêu của thiên niên kỷ (MDGs), nếu bỏ qua tiêu chí này thì chúng ta đã
bỏ quên một lớp người đang hứng chịu hậu quả của sự phát triển thiếu cân đối hiện
nay. Vấn đề đói, nghèo được đánh giá bằng tỉ lệ số người, hộ đói, nghèo, hộ cận
nghèo về mặt thu nhập; bên cạnh đó thì tình trạng “nghèo đa chiều” hiện nay xảy ra
không chỉ ở khu vực nông thôn, miền núi mà cả ở khu vực thành thị đang là vấn đề
nhức nhối. Vì vậy, việc bám sát vào những tiêu chí này mới đánh giá được những góc
khuất của PTCN trong khi GDP ngày càng cao.
27 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 493 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Vấn đề phát triển con người ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iết như: GEM - Số đo quyền lực giới tính; GDI - Chỉ số phát triển
giới tính; HPI - Chỉ số nghèo khổ, chỉ số MPI - Chỉ số nghèo đa chiều, Chỉ số nghèo
khổ tổng hợp (Human Poverty Index - HPI) như là sự bổ sung cho việc đánh giá
trình độ PTCN ở các quốc gia.
Tóm lại, con người và PTCN luôn được quan tâm trong suốt tiến trình lịch sử,
đặc biệt trong thời đại ngày nay, con người không chỉ là sản phẩm của lịch sử mà còn
là chủ thể sáng tạo ra lịch sử đó, mặc dù trong mỗi thời kỳ việc xem xét con người và
PTCN được tiếp cận ở các góc độ khác nhau, song con người luôn là trung tâm của
xã hội, là mục tiêu của sự phát triển. Trên cơ sở kế thừa quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Chương
trình phát triển Liên Hợp Quốc về PTCN, trong luận án này chúng tôi tập trung vào
các nội dung để làm cơ sở cho việc nghiên cứu PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc trong giai
đoạn hiện nay.
1.4. Những tiêu chí đánh giá PTCN ở Vĩnh Phúc
PTCN vốn đã là một phạm trù rộng nhưng trong khoa học hiện đại, PTCN ngày càng
được các nhà nghiên cứu lượng hóa các nội dung chi tiết để nó phản ánh chính xác hơn,
toàn diện hơn thực tế phát triển con người. Hiện nay, các nội dung nghiên cứu về PTCN đã
được các chuyên gia UNDP lượng hóa thành hàng trăm chỉ số, nhằm phản ánh cả những
những khía cạnh đạo đức, văn hóa, xã hội của sự phát triển con người ở các xã hội khác
nhau. Dù chưa thể đạt đến mức toàn diện, bao quát như đòi hỏi từ phương diện triết học,
nhưng PTCN theo tinh thần của LHQ đã khá bao quát, đã tính đến các chiều cạnh văn hóa,
xã hội, đạo đức chứ không chỉ đơn thuần gói gọn giản đơn trong các chỉ số về kinh tế,
giáo dục và sức khỏe, như có quan niệm đã lầm tưởng.
Trong việc xác định những tiêu chí đánh giá PTCN, luận án này dựa vào các quan
điểm phương pháp luận về PTCN của triết học Mác - Lênin, của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của
Đảng Cộng sản Việt Nam và của UNDP về con người và PTCN; bao gồm các nội dung sau:
- PTCN là trung tâm của mọi sự phát triển, là mục tiêu và động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội. PTCN là nhằm tới sự phát triển ngày càng hoàn thiện của chính con
người.
- PTCN là sự phát triển ngày càng hoàn thiện về thể lực, trí lực và về văn hoá, tinh
thần.
- PTCN là sự mở rộng cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực lựa chọn cho con người.
Sự mở rộng và nâng cao này được định lượng bằng thước đo cụ thể (chỉ số HDI và
các chỉ số mở rộng)
Dựa trên hệ thống lý luận đã nghiên cứu, vận dụng vào nghiên cứu thực tiễn PTCN ở
tỉnh Vĩnh Phúc, theo chúng tôi, khung lý thuyết PTCN được áp dụng ở tỉnh Vĩnh Phúc về cơ
10
bản là: Đó là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ chưa toàn diện đến toàn diện hơn về đời
sống vật chất và tinh thần, được thể hiện ở các phương diện: a). Thu nhập, b). Thể lực, c)
Trí lực, d). Văn hóa, tinh thần cũng như sự hài hòa giữa các yếu tố này. PTCN ở tỉnh Vĩnh
Phúc là sự mở rộng cơ hội lựa chọn và nâng cao năng lực lựa chọn cho người dân để người
dân vừa là chủ thể thực sự, tích cực của quá trình phát triển, và bản thân sự phát triển của
con người trên toàn địa bàn tỉnh vừa là mục tiêu cao nhất của mọi sự phát triển.
Từ quan niệm này, chúng tôi xây dựng những tiêu chí cụ thể trong nghiên cứu PTCN ở
tỉnh Vĩnh Phúc bao gồm các nội dung sau:
1.4.1. Sự PTCN ở Vĩnh Phúc về mặt kinh tế và thu nhập
Đánh giá PTCN trên phương diện xã hội thì thu nhập là yếu tố đầu tiên phản ánh
mức sống của con người, là điều kiện để duy trì đời sống, là điều kiện để nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của mình. Trên cơ sở đó, mỗi người mỗi người có điều
kiện vật chất để tham gia vào các hoạt động y tế, giáo dục, văn hoá, tinh thần để nâng
cao sức khoẻ, nâng cao tay nghề, cũng như tri thức của mình.
Góc độ thu nhập trong PTCN được đánh giá ở chỉ số thu nhập, ở mức độ thu
nhập thường xuyên đảm bảo nhu cầu thiết yếu và phát triển của con người, thể hiện ở
mức thu nhập tăng trưởng hàng năm, tính ổn định thu nhập trong các ngành kinh tế
trong cơ cấu kinh tế của vùng miền. Ngày nay khi đánh giá về PTCN, Chương trình
phát triển Liên hợp quốc đã chỉ ra một trong những thước đo quan trọng nhất đánh
giá sự tiến bộ của biến đổi cơ cấu kinh tế trong đảm bảo mục tiêu thu nhập là hướng
về người lao động, từ đó điều chỉnh sự phát triển kinh tế phục vụ mục tiêu PTCN.
1.4.2. Sự PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc qua tương quan giữa các chỉ số thành phần
của bộ công cụ HDI
Đối với Đảng bộ và các cấp chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc, PTCN trên thực tế
luôn gắn với những điều kiện kinh tế, xã hội và với những hoạt động của chính bản
thân các cộng đồng cư dân. PTCN luôn được quán triệt là trung tâm, là mục tiêu và là
động lực của tất cả các hoạt động kinh tế, xã hội.
Theo đó, PTCN là nhân tố chi phối, quy định và quyết định các yếu tố kinh tế,
xã hội, giáo dục, y tế còn các nhân tố khác chỉ là điều kiện, là cơ sở, tiền đề cho
PTCN. Về mặt lý thuyết, trình độ PTCN là thước đo cao nhất cả về định tính lẫn định
lượng để đánh giá các giá trị này. “Mục đích của phát triển là để tạo ra môi trường
thuận lợi cho phép con người được hưởng cuộc sống dài lâu, khỏe mạnh và sáng tạo”
[112, tr.148], PTCN không phải là phương tiện mà là mục tiêu của sự phát triển, con
người đóng vai trò là yếu tố quyết định cả “đầu vào” và ở cả “đầu ra” trong quá trình
phát triển, PTCN thường được xem xét ở cả yếu tố bên ngoài (mở rộng các cơ hội lựa
chọn) và cả yếu tố bên trong (nâng cao năng lực lựa chọn cơ hội cho con người), bộ
công cụ HDI của Chương trình này là thước đó đánh giá những tiến bộ đạt được của
mỗi quốc gia và toàn thể nhân loại đối trong PTCN. Khi nghiên cứu PTCN ở phạm vi
tỉnh thành của quốc gia mà cụ thể trong luận án nghiên cứu PTCN ở địa bàn tỉnh
Vĩnh Phúc hiện nay, việc sử dụng lý thuyết PTCN của UNDP là rất cần thiết để định
lượng những tiêu chí cụ thể về PTCN và đặc biệt đánh giá những tiến bộ và những
mặt hạn chế để từ đó đề ra các giải pháp phát triển kinh tế, xã hội đảm bảo đúng định
hướng vì mục tiêu PTCN.
Chỉ số HDI của UNDP là thước đo định lượng đánh giá trình độ PTCN được sử
dụng rộng rãi trên thế giới và ở Việt Nam, chỉ số HDI được đo bằng chỉ số trung bình
11
của 3 chỉ số thành phần: Chỉ số thu nhập, chỉ số y tế và chỉ số giáo dục, việc sử dụng bộ
công cụ HDI đảm bảo tính phổ biến đánh giá trình độ PTCN vượt qua khỏi những khác
biệt về phạm vi vùng miền, phạm vi quốc gia cho chúng ta bộ công cụ đo đạc đánh giá,
so sánh những tiến bộ đạt được của cộng đồng ở mục tiêu PTCN. Đồng thời, đây cũng là
công cụ để đánh giá tương quan giữa thu nhập với giáo dục và y tế để đánh giá sự phát
triển kinh tế đã vì mục tiêu PTCN hay chưa, những tiêu chí này được các quốc gia sử
dụng vào đánh giá trình độ PTCN ở tỉnh trong các báo cáo thường niên.
1.4.3. Sự PTCN ở Vĩnh Phúc qua hoạt động xoá đói, giảm nghèo
Tình trạng đói, nghèo luôn được nhiều quốc gia quan tâm kể cả với các quốc gia
phát triển. Trong thời đại ngày nay, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của ác quốc gia, sự
phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng cộng thêm nữa là khủng hoảng kinh tế luôn có
nguy cơ đẩy một bộ phần lớn người lao động rơi vào tình trạng thất nghiệp, nợ nần
Vì thế mà Liên hợp quốc đã đưa vấn đề xoá đói, nghèo là mục tiêu quan trọng nhất
trong 8 mục tiêu của thiên niên kỷ (MDGs), nếu bỏ qua tiêu chí này thì chúng ta đã
bỏ quên một lớp người đang hứng chịu hậu quả của sự phát triển thiếu cân đối hiện
nay. Vấn đề đói, nghèo được đánh giá bằng tỉ lệ số người, hộ đói, nghèo, hộ cận
nghèo về mặt thu nhập; bên cạnh đó thì tình trạng “nghèo đa chiều” hiện nay xảy ra
không chỉ ở khu vực nông thôn, miền núi mà cả ở khu vực thành thị đang là vấn đề
nhức nhối. Vì vậy, việc bám sát vào những tiêu chí này mới đánh giá được những góc
khuất của PTCN trong khi GDP ngày càng cao.
1.4.4. Sự PTCN ở Vĩnh Phúc về mặt thể lực, trí lực và văn hoá, tinh thần
Sự PTCN về thể lực được thể hiện thông qua chỉ số tuổi thọ trung bình của
người dân, tình trạng sức khoẻ của người dân, số người dân được hưởng các dịch vụ
y tế (đặc biệt là trẻ em, người cao tuổi) điều này được phản ánh ở mức độ phát triển y
tế về số lượng, chất lượng, về y tế cộng đồng đảm bảo cho người dân có điều kiện
tham gia vào các dịch vụ y tế nâng cao sức khoẻ của mình.
Sự PTCN ở Vĩnh Phúc về mặt trí lực được đánh giá bằng bằng tỉ lệ số người
trong độ tuổi theo học, số người lao động có trình độ tay nghề qua đào tạo và bồi
dưỡng thường xuyên, đồng thời được thể hiện thông qua việc mở rộng quy mô và
nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng nhu cầu nâng cao kiến thức cho nhân dân.
Sự PTCN ở Vĩnh Phúc về mặt văn hóa, tinh thần bao gồm việc con người tham
gia vào sinh hoạt văn hoá được thể hiện thông qua các lễ hội truyền thống, trong bảo
tồn và lưu giữ các giá trị văn hoá cộng đồng, số lượt người tham gia vào các hoạt
động thư viện, các hoạt động sinh hoạt văn hoá, nghệ thuật. Bên cạnh đó còn được
thể hiện trong việc đầu tư các công trình văn hoá, xã hội phục vụ nhu cầu văn hoá
tinh thần của cộng đồng.
Tiểu kết chương 1
Trên cơ sở xuất phát coi con người là chủ thể của lịch sử, giải phóng PTCN là
mục tiêu cao nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác-Lênin xem xét
PTCN luôn gắn với những hoạt động kinh tế xã hội đồng thời là kết quả của những
hoạt động kinh tế xã hội đó. PTCN là sự phát triển toàn diện về đời sống vật chất, về
thể lực và trí lực của mình, sự phát triển toàn diện là kết quả lâu dài gắn với công
cuộc đấu tranh giải phóng con người, khắc phục tình trạng tha hóa người trong chế độ
tư hữu tư bản chủ nghĩa. Để đảm bảo con người phát triển toàn diện, giai cấp công
12
nhân phải tiến hành cuộc cách mạng vô sản lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, thiết lập
chế độ xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ tình trạng nghèo nàn lạc hậu, tệ nạn xã hội, phát triển
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, xây dựng đời sống xã hội lành mạnh để mỗi người được
làm chủ, được nâng cao, trí lực của mình, từ đó sự phát triển tự do của mỗi người là
điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người. Đây là cơ sở phương pháp luận
cho việc nghiên cứu con người cũng như xây dựng các chính sách PTCN ở mỗi quốc
gia, đó cũng là lý tưởng cao đẹp mà nhân loại đang hướng tới.
Vận dụng sáng tạo lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin vào cách mạng Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn coi con người mà cụ thể là quần chúng
nhân dân luôn là chủ thể, là động lực của cách mạng, PTCN là mục tiêu cao nhất của
công cuộc xây dựng CNXH, PTCN là sự phát triển toàn diện về thể lực, về trí lực, về
văn hoá tinh thần. Xây dựng con người mới luôn gắn với quá trình cách mạng của
dân tộc, sự nghiệp cách mạng XHCN là của con người, do con người và vì hạnh phúc
của con người. Trong thời kỳ đổi mới trên cơ sở nhận thức rõ mục tiêu là động lực
chính của sự phát triển là vì con người, do con người, đặt con người vào vị trí trung
tâm của chiến lược phát triển kinh tế xã hội, xác định rõ mọi chính sách xã hội đúng
đắn phải vì hạnh phúc con người và phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân.
Các chính sách của Đảng nhà nước đều quan tâm đến sự PTCN về mặt thể lực và trí
lực để đưa con người phát triển toàn diện. Tuy nhiên, để hạn chế những tác động tiêu
cực của kinh tế thị trường cũng như tác động của toàn cầu hóa, các chính sách về phát
triển kinh tế, giáo dục, y tế, văn hóa của Đảng và Nhà nước luôn được điều chỉnh và
bổ sung kịp thời để đảm bảo đúng định hướng cho phát triển toàn diện con người. Vì
thế, những thành tựu về phát triển kinh tế luôn gắn với những thành tựu trong PTCN.
Vào những năm 80 và 90 của thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ đã thúc đẩy nền kinh tế thế giới phát triển nhanh chóng, quá trình toàn cầu hóa
tác động đến sự phát triển của tất cả các quốc gia đem lại sự thịnh vượng giàu có cho
nhiều quốc gia dân tộc, cho nhiều người và cho cộng đồng thế giới nói chung. Tuy
nhiên, những thành quả kinh tế không phải lúc nào cũng đem đến sự tiến bộ, đem đến
đời sống ấm no hạnh phúc cho tất cả mọi người ở tất cả các quốc gia. Nhận thức được
vấn đề này, từ năm 1990, chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc đã xây dựng
báo cáo PTCN đưa ra cách tiếp cận cụ thể hơn về PTCN bằng chỉ số HDI, để đo đạc
đánh giá trình độ PTCN ở các quốc gia, chương trình này cũng xác định phải thực sự
coi con người là trung tâm là mục tiêu tối thượng của mọi sự phát triển. Vì thế, sự
phát triển của xã hội phải đảm bảo mở rộng các điều kiện xã hội để tất cả mọi người
được tham gia vào lao động sản xuất và nâng cao sức khỏe, nâng cao đời sống văn
hóa tinh thần, đồng thời phải nhằm nâng cao các năng lực cơ bản để mỗi người có thể
làm chủ bản thân mình, có thể tham gia và xã hội với tính cách là người chủ của xã
hội đó.
Trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm về PTCN của chủ nghĩa Mác - Lênin,
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt Nam và của Chương trình Phát triển
Liên Hợp Quốc, chúng tôi đưa ra các tiêu chí nghiên cứu để đánh giá thực trạng
PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
Chương 2
THÀNH TỰU VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
13
Ở TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY
2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc
2.1.1. Những nhân tố khách quan
2.1.1.1. Điều kiện địa lý, lịch sử và văn hóa của tỉnh Vĩnh Phúc
Trải qua các thời kỳ lịch sử, địa giới của tỉnh Vĩnh Phúc có nhiều biến đổi to lớn,
ngày 01/01/1997 tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập sau khi tách ra từ tỉnh Vĩnh Phú, với địa
hình thuận lợi, Vĩnh Phúc nằm trong vùng kinh tế trọng điểm của đồng bằng Bắc Bộ, có
điều kiện khí hậu hài hoà, ít chịu nhiều thiên tai, giao thông thuận lợi đã ảnh hưởng ít
nhiều đến lối sống, văn hoá con người, hình thành những con người cởi mở, sống hài
hoà, thân thiện, tư duy đổi mới, dễ thích ứng với những biến đổi kinh tế, xã hội. Vĩnh
Phúc là một trong những tỉnh đi đầu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với nền kinh tế
phát triển nhanh tạo điều kiện cho việc nâng cao thu nhập cho người dân, tạo tiền đề
phát triển các dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa phục vụ sự PTCN.
Vĩnh Phúc là một trong những cái nôi của văn hóa người Việt cổ, sáng tạo ra
nhiều giá trị văn hóa vật chất và tinh thần. Những giá trị đó đã làm hình thành nên
con người Vĩnh Phúc kiên cường, bất khuất trong đấu tranh, có lối sống giản dị, tiết
kiệm, có tinh thần hiếu học, cầu thị, có ý thức tìm tòi, cần cù lao động, đổi mới và
sáng tạo. Đây là những tiền đề, là hành trang để người Vĩnh Phúc phát huy truyền
thống tốt đẹp của mình tiếp tục đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, đưa người Vĩnh Phúc dần trở thành người làm chủ xã hội, từng bước xây
dựng cuộc sống phồn vinh và hạnh phúc.
2.1.1.2. Điều kiện kinh tế, giáo dục và y tế tác động trực tiếp đến PTCN ở tỉnh
Vĩnh Phúc
Kinh tế là nhân tố quyết định đầu tiên đối với đời sống của con người, nó phản
ánh ở mức độ thu nhập của con người, đảm bảo những điều kiện cho con người có cái
ăn, mặc ở duy trì và nâng cao sức khỏe, từ đó con người mới có điều kiện tham gia
vào các hoạt động y tế, giáo dục, văn hóa, văn nghệ, thể thao để nâng cao mọi mặt
đời sống của mình. Sự phát triển nhanh chóng nền kinh tế Vĩnh Phúc trong những
năm vừa qua là điều kiện tiên quyết PTCN ở khu vực này, sự phát triển nhanh nền
công nghiệp, giải quyết công ăn việc làm tạo điều kiện nâng cao mức sống cho con
người. Hơn nữa, nền kinh tế phát triển là nền tảng để thúc đẩy sự phát triển của y tế,
giáo dục và các hoạt động văn hóa, tinh thần.
Y tế và giáo dục là hai nhân tố cơ bản trực tiếp tác động đến PTCN kể cả ở góc
độ cá nhân cũng như xã hội, sự PTCN chủ yếu phụ thuộc vào hai yếu tố này, nó đảm
bảo cho nâng cao thể lực và trí lực của con người. Sự tác động của 2 nhân tố này phụ
thuộc vào các yếu tố nội sinh của nó, bao gồm số lượng và chất lượng các dịch vụ của
nó, sự phân bố các dịch vụ, ngoài ra nó còn bao gồm các yếu tố phản ánh mức độ thu
hút con người tham gia vào, tính bình đẳng cho các tầng lớp người. Nhân tố y tế và
giáo dục cũng là một trong những thước đo quan trọng đánh giá sự tiến bộ xã hội,
định hướng cho mọi hoạt động kinh tế của địa phương.
Văn hóa, đạo đức xã hội có tác động hàng này hàng giờ đến đời sống của con
người trên nhiều phương diện, nó tồn tại trong các lĩnh vực đời sống của con người
vừa có tác động trực tiếp vừa gián tiếp đến các yếu tố kinh tế, y tế và giáo dục. Tuy
nhiên, con người là chủ thể của các hoạt động đời sống, là chủ thể của chính bản
thân, hoạt động luôn mang tính tự giác vì sự tiến bộ của mình. Dó đó, PTCN ở tỉnh
14
Vĩnh Phúc có tác động từ chính nền văn hóa đương thời và thông qua các hoạt động
văn hóa, tinh thần tại địa phương.
2.1.1.3. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và công cuộc Đổi mới đất
nước
Công cuộc Đổi mới của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam là một nhân tố quan trọng bậc nhất đối với sự PTCN Vĩnh Phúc. Sau hơn 30
năm đổi mới, đất nước tạo nhiều thay đổi lớn về chất trên các lĩnh vực của đời sống
xã hội, tựu trung lại vẫn là thành tựu về PTCN, đường lối đổi mới của Đảng đã khẳng
định và đề cao vai trò của con người và PTCN là vốn quý nhất, PTCN vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới đất nước, mọi chính sách kinh tế, xã hội
đều nhằm mục tiêu tạo điều kiện cho con người phát triển. Đặc biệt, trong những năm
gần đây, Đảng ta đã đưa ra hàng loạt nghị quyết mang tính chiến lược, đột phát nhằm
PTCN Việt Nam tương xứng với yêu cầu của thời đại mới.
Việc đề cao vai trò của con người và PTCN đã và đang tạo thế và lực mới cho
sự PTCN Việt Nam nói chung, công cuộc đổi mới của Đảng đã đưa tỉnh Vĩnh Phúc
phát triển nhanh chóng về kinh tế xã hội, mở ra những điều kiện để nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân trong tỉnh, đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu
đối với tỉnh Vĩnh Phúc phải thực sự đưa PTCN là nhân tố quyết định đảm bảo cho sự
phát triển nhanh và bền vững.
2.1.2. Những nhân tố chủ quan
2.1.2.2. Sự phát huy nội lực của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đã xây dựng hàng loạt chính sách về phát triển kinh tế,
phát triển văn hóa, xã hội thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa hiện đại
hóa. Mặc dù, các cấp ủy Đảng và Chính quyền chưa xây dựng cụ thể đường lối, chính
sách riêng cho PTCN. Tuy nhiên, trong quá trình đề ra đường lối phát triển kinh tế,
văn hóa xã hội được thể hiện ở các chính sách phát triển công nghiệp, nông nghiệp,
giải quyết việc làm, các chính sách xóa đói giảm nghèo cho người dân, cũng như các
chính sách về phát triển giáo dục y tế và văn hóa..., từ những cơ sở đó, các cấp chính
quyền từ cấp tỉnh đến cấp huyện và cấp xã tổ chức thực hiện phát triển kinh tế, xã hội
vì mục tiêu phát triển toàn diện con người.
2.1.2.3. Sự năng động nắm bắt thời cơ của nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc
Nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã luôn cần cù, sáng tạo trong lao động, trong kinh
doanh và trong mở rộng đầu tư phát triển kinh tế, xã hội. Là một tỉnh có dân số trẻ,
nhân dân các làng nghề đã nhanh chóng chuyển đổi mô hình sản xuất, chuyển từ sản
xuất nhỏ, sang sản xuất lớn, từ sản xuất thủ công sang hiện đại.
Điều quan trọng hơn là ngoài việc sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, người
Vĩnh Phúc có tinh thần đoàn kết, hợp tác chặt chẽ trong lao động sản xuất, đây là một
trong những điểm nổi bật thể hiện tinh thần hợp tác trong lao động, hướng đến nền
sản xuất lớn của người dân theo xu hướng phát triển nền công nghiệp lớn.
Người dân Vĩnh Phúc luôn cùng với cơ quan chính quyền, đoàn thể nhanh
chóng thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực xây dựng đường xá, nhà văn hóa, các trung
tâm văn hóa, thể thao ngay cả ở những vùng khó khăn. Đây là một tiền đề quan trọng
không chỉ là cơ sở cho phát triển kinh tế, xã hội mà quan trọng hơn đã xây dựng được
những thiết chế nền tảng phục vụ cho mục tiêu phát triển mọi mặt đời sống của nhân
dân địa phương.
15
2.2. Những thành tựu trong PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc
2.2.1. Thành tựu PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc về mặt kinh tế và thu nhập
Đảng bộ và chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc đã nhanh chóng đưa ra các chính sách ưu
tiên đầu tư phát triển công nghiệp, nhằm đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cùng
với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp và dịch vụ đem lại
công ăn việc làm cho con người là cơ sở bền vững nhất để mọi người có nguồn thu nhập
chính đáng, để nâng cao đời sống của chính bản thân người lao động và gia đình.
Chính sách hỗ trợ cho nông dân, cho các chủ thể kinh doanh vay vốn và hệ
thống các chính sách phát triển kinh tế đã và đang giúp người dân nâng cao các khoản
thu nhập chính đáng của mình. Các nguồn thu nhập của người dân chuyển từ thu
nhập từ sản xuất nông, lâm nghiệp sang thu nhập chủ yếu và ổn định từ tiền công và
tiền lương trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ ngày càng cao.
Việc đầu tư về kinh tế cho con người ngày càng được nâng lên, thể hiện bằng
việc đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông, điện, nước sinh hoạt thể hiện nền kinh tế của
tỉnh đã đảm bảo “tính bao trùm” vì mục tiêu con người.
2.2.2. Thành tựu PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc qua chỉ số HDI
2.2.2.1. Sự tăng trưởng của chỉ số HDI Vĩnh Phúc
Về sự phát triển của chỉ số HDI của tỉnh Vĩnh Phúc trong những năm vừa qua
luôn luôn phát triển nhanh chóng. Năm 1999, chỉ số này là 0,682, thuộc nhóm phát
triển trung bình khá, đến năm 2012 đã lên tới 0,764 (tăng 0,93 điểm) thuộc nhóm tỉnh
có chỉ số phát triển HDI cao, và luôn luôn đứng ở vị trí xếp hạng từ 9 đến 11 trong 63
tỉnh thành của cả nước, và ở vị trí thứ 3 đến vị trí thứ 5 so với 10 tỉnh đồng bằng sông
Hồng, đến nay chỉ số HDI của tỉnh Vĩnh Phúc chỉ đứng sau 3 tỉnh, thành phố lớn ở
miền Bắc là Hà Nội, Hải Phòng và tỉnh Bắc Ninh.
2.2.2.2. Sự đóng góp của các chỉ số thành phần vào chỉ số HDI Vĩnh Phúc
* Đóng góp của chỉ số thu nhập:nhờ sự tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh
tế, chỉ số thu nhập tăng lên nhanh, đóng góp to lớn, ảnh hưởng nhiều nhất cho sự thay
đổi chỉ số HDI.
* Đóng góp của chỉ số tuổi thọ vào chỉ số HDI của tỉnh: Chỉ số tuổi thọ mặc dù
không tăng nhanh, không có đóng góp nhiều vào sự thay đổi chỉ số HDI nhưng Vĩnh
Phúc vẫn là tỉnh có chỉ số tuổi thọ cao hơn trung bình của cả nước
* Đóng góp của chỉ số giáo dục: Chỉ số về giáo dục của tỉnh Vĩnh Phúc tăng lên
theo các năm đã phản ánh và chỉ số giáo dục của tỉnh Vĩnh Phúc đang ngày càng tăng
trưởng cùng các chỉ số khác, tỉ lệ thuận với sự tăng trưởng của chỉ số HDI.
2.2.3. Xóa đói, giảm nghèo là một trong những thành tựu nổi bật của PTCN tỉnh
Vĩnh Phúc
Chương trình xóa đói, giảm nghèo đã thực sự đi vào cuộc sống và có nhiều tác
dụng thiết thực đến nâng cao đời sống của nhân dân, giúp người nghèo nâng cao khả
năng lao động, tạo nguồn thu nhập ngày càng cao, nâng cao sức khỏe là cơ sở để
người nghèo làm “nâng cao năng lực” và tham gia vào đời sống xã hội là tiền để đảm
bảo sự phát triển toàn diện.
Một trong những sáng tạo trong chương trình xóa đói giảm nghèo tại Vĩnh Phúc
là đã đa dạng hóa các loại hình giải quyết việc làm, đặc biệt là việc làm ở khu vực
nông thôn, bao gồm xây dựng trang trại, xây dựng các vùng chuyên canh giúp
16
người nông dân dần thoát nghèo, làm giàu chính đáng tại địa phương.
Tình trạng nghèo đói ở tính theo chỉ số HPI và MPI của tỉnh giảm xuống tương
đương với tốc độ trung bình của các tỉnh đồng bằng sông Hồng, mặc dù chỉ số HPI và
MPI còn cao so với một số tỉnh trong khu vực, song chỉ số này vẫn thấp hơn mức
trung bình của cả nước.
2.2.4. Sự PTCN ở Vĩnh Phúc về mặt thể lực, trí lực và văn hoá, tinh thần
2.2.4.1. Thành tựu PTCN ở Vĩnh Phúc về mặt thể lực
Thứ nhất: Tỷ lệ ngân sách chi cho y tế được nâng lên, chất lượng dịch vụ và đội
ngũ cán bộ y tế đảm bảo: đến nay, tất cả các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh đều
có bệnh viện với các vật dụng y tế cũng được mua sắm trang bị ngày càng hiện đại;
trình độ của cán bộ ngành y, dược cũng được nâng lên đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao trong khám chữa bệnh cho người dân; các hoạt động chăm sóc sức khỏe bà mẹ,
trẻ em ngày càng được chú trọng đây là yếu tố quan trọng nhất đánh giá sự tiến bộ về
y tế cũng như đánh giá sự tiến bộ về mọi mặt trong xã hội
Thứ hai: Hỗ trợ chi phí bảo hiểm y tế cho người nghèo, người dân tộc thiểu số.
tạo điều kiện nâng cho những nhóm người “dễ bị tổn thương” nâng cao sức khỏe,
giúp họ có cuộc sống ổn định và hạnh phúc.
Thứ ba: dịch vụ y tế cộng đồng ngày càng có hiệu quả rõ có vai trò to lớn đảm
bảo cho sự ổn định và phát triển của xã hội, đảm bảo vấn đề “an ninh” trong PTCN.
2.2.4.2. Thành tựu PTCN ở tỉnh Vĩnh Phúc về mặt trí lực
Hệ thống các trường lớp ở tất cả các bậc học mần non, tiểu học, phổ thông được
đầu tư khang trang, đầy đủ đảm bảo nhu cầu phát triển giáo dục của nhân dân; Hệ
thống mạng lưới các các trường nghề ở tỉnh Vĩnh Phúc cũng khá phát triển đáp ứng
nhu cầu đào tạo nhân lực, nâng cao trình độ tay nghề của người lao động.
Đội ngũ giáo viên đạt chuẩn ở t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_van_de_phat_trien_con_nguoi_o_tinh_vinh_phuc.pdf