Để thúc đẩy quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phát triển cần thực hiện đồng
bộ các giải pháp sau:
* Đối với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế nhà nước.
Thứ nhất, Nhà nước cần xóa bỏ bao cấp trong doanh nghiệp nhà nước, các
doanh nghiệp nhà nước chuyển hoàn toàn sang cơ chế thị trường bình đẳng với các
thành phần kinh tế khác.
Thứ hai, Nhà nướccần phân định rõ hai loại hình doanh nghiệp nhà nước đó
là; doanh nghiệp nhà nước hoạt động vì mục tiêu chính trị - xã hội và doanh nghiệp
nhà nước vì mục tiêu lợi nhuận.
Thứ ba, Nhà nước nên phân định rõ chức năng chủ sở hữu và chức năng quản
lý kinh doanh của nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ tư, Nhà nước cần xây dựng đội ngũ quản trị giỏi trong các doanh nghiệp
nhà nước.
* Đối với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế tập thể
- Xây dựng và phát triển kinh tế hợp tác xã đa dạng với nhiều hình thức từ
thấp đến cao, nòng cốt là các Hợp tác xã kiểu mới.
- Nhà nước tạo điều kiện về mọi mặt và quản lý Hợp tác xã bằng pháp lý, cơ
chế, chính sách; tài chính, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, ứng dụng khoa học công
nghệ. nhằm giúp cho kinh tế hợp tác,
- Tăng cường vai trò, trách nhiệm của tổ chức Liên minh Hợp tác xã, Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, hội, hiệp hội trong phát triển kinh tế Hợp tác xã
27 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 08/03/2022 | Lượt xem: 331 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Về sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ
đổi mới, định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Bốn là, nghiên cứu thực trạng sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ đổi mới.
Năm là, đề ra các phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những
biến đổi tích cực, hạn chế những biến đổi tiêu cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Tiểu kết chương 1
Trên cơ sở tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án,
cho ta thấy rằng; cho đến nay, đã có nhiều các công trình nghiên cứu về quan hệ sản
xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi ở nước ta. Các công
trình nghiên cứu trên nhiều phương diện và cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên,
8
nghiên cứu về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dưới góc độ triết học cũng không
nhiều. Do đó, đề tài tiếp tục kế thừa các kết quả của những người đi trước để vận
dụng vào nghiên cứu về sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời
kỳ đổi mới ở Việt Nam hiện nay, để luận giải những vấn đề đang đặt ra dưới góc độ
triết học. Với việc làm này, tác giả tin tưởng rằng, công trình nghiên cứu của mình sẽ
góp phần nhất định trong hệ thống các công trình nghiên cứu về quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa ở nước ta và góp phần làm tài liệu tham khảo cho những người làm
chính sách liên quan đến quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Chương 2
QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ
ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
2.1. QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ VAI TRÒ CỦA
QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở
VIỆT NAM
2.1.1. Quan niệm về quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
2.1.1.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ sản xuất
* Khái niệm về quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ mối
quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất. Đây là quan hệ kinh
tế cơ bản, nó đặc trưng cho một chế độ xã hội nhất định. Quan hệ sản xuất gồm ba
mặt: quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý sản
xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm làm ra.
* Kết cấu của quan hệ sản xuất
Khái niệm trên cho thấy, quan hệ sản xuất gồm có ba mặt cơ bản như sau:
quan hệ giữa người với người trong sở hữu tư liệu sản xuất, trong tổ chức, quản lý
sản xuất, trong phân phối sản phẩm lao động làm ra. Trong ba mặt của quan hệ sản
xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc
trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất
quyết định quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm
cũng như các quan hệ xã hội khác.
* Các quan hệ sản xuất trong một hình thái kinh tế - xã hội
Một xã hội cụ thể thường bao gồm có ba loại quan hệ sản xuất cơ bản đó là;
quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và quan hệ sản xuất
mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó, quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng
giữ vai trò chủ đạo, chi phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng chung
9
của đời sống kinh tế - xã hội và tạo ra cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể, để phân
biệt xã hội này với xã hội khác. Tuy nhiên, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản
xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định và có sự tác động trở lại quan hệ sản xuất
đóng vai trò chủ đạo.
2.1.1.2. Quan niệm về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa của các nhà kinh
điển Mác - Lênin và một số Đảng cộng sản
* Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
Đặc trưng của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa về mặt sở hữu, theo chủ
nghĩa C.Mác là: thủ tiêu chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
thể hiện bản chất ưu việt, tiến bộ của chủ nghĩa xã hội, tạo ra cơ sở kinh tế để xây
dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, tiến bộ. Đây là một quá trình khó khăn, lâu
dài, phức tạp, không thể ngay lập tức có được.
Về tổ chức, quản lý của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được xác lập
trên cơ sở tính tự nguyện, tự giác khác với tổ chức quản lý của chủ nghĩa tư bản
là bóc lột giá trị thặng dư. Quan hệ trong phân phối của quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa, theo chủ nghĩa Mác-Lênin nguyên tắc phân phối theo lao động là
nguyên tắc phân phối cơ bản nhất. Đó là nguyên tắc lao động ngang nhau thì
được hưởng ngang nhau, là nguyên tắc, theo C.Mác, thể hiện sự công bằng trong
chủ nghĩa xã hội.
* Quan niệm của một số Đảng Cộng sản về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
Các Đảng Cộng sản trên thế giới có sự nhìn nhận và vận dụng học thuyết của
chủ nghĩa Mác - Lênin một cách khác nhau về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Liên Xô và các nước Đông Âu trước kia cho rằng đó là cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, còn Nam Tư cho rằng đó là chế độ tự quản, còn Trung quốc lại cho rằng cả
công hữu và tư hữu đều quan trọng.
* Quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một loại hình quan hệ sản xuất
dựa trên cơ sở: công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, quan hệ tổ chức quản lý đó là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với sự đa dạng về hình thức
phân phối; Phân phối theo lao động, theo vốn đóng góp và theo phúc lợi xã hội,
trong đó phân phối theo lao động là hình thức cơ bản nhất.
Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta được thể hiện tập trung ở hai
thành phần kinh tế là: kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể.
Đảng khẳng định: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể
không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”.
10
2.1.2. Vai trò của quan hệ sản xuất chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới
ở Việt Nam
2.1.2.1. Vai trò của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đối với sự phát triển
của lực lượng sản xuất ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Thứ nhất, quan hệ sản xuất thúc đẩy mạnh mẽ lực lượng sản xuất phát triển
khi nó phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là một
yêu cầu khách quan đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất; lực lượng sản xuất
chỉ có thể phát triển được khi có quan hệ sản xuất phù hợp, nếu quan hệ sản xuất
không phù hợp thì lực lượng sản xuất bị kìm hãm, nền sản xuất sẽ trì trệ.
Thứ hai, quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm lực lượng sản xuất khi nó không phù
hợp với trình độ lực lượng sản xuất.
Theo quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam thì: không chỉ quan hệ sản xuất
lỗi thời, lạc hậu mới kìm hãm tác động tiêu cực đến lực lượng sản xuất mà ngay cả
quan hệ sản xuất vượt quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất cũng kìm hãm
tác động tiêu cực đến lực lượng sản xuất.
2.1.2.2. Vai trò của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đối với việc củng cố,
hoàn thiện kiến trúc thượng tầng và định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới
Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa có vai trò quan trọng, củng cố hoàn thiện
kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam.
Cơ sở kinh tế trong thời kỳ quá độ được Đảng, Nhà nước xác định trong thời
kỳ đổi mới đó là: phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong
nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta có nhiều loại hình quan hệ sản xuất, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó Đảng xác định quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải
dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Đây là cơ sở để củng cố và hoàn
thiện kiến trúc thượng tầng ở nước ta
Vai trò của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đối với quá trình phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Quan điểm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước, đồng thời coi việc bảo đảm và phát huy vai trò chủ đạo
của kinh tế Nhà nước là một trong những nội dung cơ bản để giữ vững định hướng
chủ nghĩa xã hội trong nền kinh tế thị trường của nước ta.
2.2. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ BIẾN ĐỔI CỦA QUAN HỆ
SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
2.2.1. Lực lượng sản xuất
Sự biến đổi của quan hệ sản xuất do nhiều yếu tố tác động trước hết là lực
lượng sản xuất.
11
Khuynh hướng của sản xuất vật chất là không ngừng vận động, biến đổi, phát
triển. Sự biến đổi và phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát
triển của lực lượng sản xuất. Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết
định và làm thay đổi quan hệ sản xuất phù hợp với nó.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất cùng vận
động, phát triển theo cho phù hợp. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất đối với trình độ
của lực lượng sản xuất là một tất yếu khách quan nó do trình độ của lực lượng sản
xuất quy định.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta Đảng ta cũng đã ý thức
được sự thiếu hụt của chúng ta khi xây dựng chủ nghĩa xã hội đó là lực lượng sản
xuất hiện đại. Từ đó, Đảng có nhiều chủ trương chính sách nhằm thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển như đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, khoa học
công nghệ cùng với giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu Với quan điểm “đi tắt
đón đầu” chúng ta đã ứng dụng các thành tựu mới của cách mạng khoa học công
nghệ vào sản xuất như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu
mớiChính điều này, làm cho lực lượng sản xuất ở nước ta được phát triển mạnh
mẽ, trình độ của lực lượng sản xuất được nâng lên không ngừng.Theo quy luật của
sản xuất vật chất, thì lực lượng sản xuất quyết định sự biến đổi của quan hệ sản xuất,
do vậy, khi mà lực lượng sản xuất đã phát triển mạnh mẽ thì đòi hỏi quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa cũng phải được điều chỉnh theo để bảo đảm sự phù phợp với
trình độ mới của lực lượng sản xuất ở Việt nam hiện nay.
2.2.2. Kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đến sự biến đổi của quan hệ sản
xuất, mà trực tiếp là sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Đặc biệt
trong thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thì quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa chịu sự tác động to lớn đối với vai trò định hướng của Đảng và quá trình
lãnh đạo của Nhà nước.
2.2.3. Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
Đối với nước ta toàn cầu hóa tác động tới quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm. Về mặt sở hữu tư
liệu sản xuất quá trình toàn cầu hóa đã thu hút được nguồn vốn không nhỏ vào nước
ta bao gồm cả vốn ODA và FDI, hàng tỷ đôla vốn đầu tư của nước ngoài vào nước
ta đã hình thành nên sự thay đổi về sở hữu làm cho hình thức sở hữu hỗn hợp ngày
càng tăng. Vốn đầu tư nước ngoài có thể liên kết với các doanh nghiệp nhà nước trên
một số lĩnh vực như: dầu khí, điện lực, ngân hàng, sản xuất điện tử, dệt may từ đó
hình thành nên thành phần kinh tế tư bản nhà nước. Khi tham gia vào toàn cầu hóa
cạnh tranh ngày càng gay gắt với sự làm ăn kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà
12
nước buộc chúng ta phải cổ phần hóa, thoái vốn để tái cơ cấu lại doanh nghiệp nhà
nước, từ đó làm cho nguồn vốn sở hữu của nhà nước được thu hẹp lại và việc sử
dụng có hiệu quả hơn.
Về mặt tổ chức quản lý khi tham gia vào toàn cầu hóa với sự liên kết, liên
doanh với doanh nghiệp nước ngoài ta có thể học tập được kinh nghiệm tổ chức,
quản lý của các nước tiên tiến. Mặt khác, do phải cạnh tranh với các công ty xuyên
quốc gia có tiềm lực lớn, chúng ta phải thay đổi về quản lý, hình thành các tổng công
ty, tập đoàn kinh tế nhà nước để tạo ra tiềm lực đủ sức cho cạnh tranh. Do vậy, mô
hình tổ chức, quản lý của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã được thay đổi cho
phù hợp với thực tiễn.
Về mặt phân phối sản phẩm cũng bị ảnh hưởng, bởi vì khi vốn đầu tư nước
ngoài vào nước ta để cạnh tranh, thu hút người lao động, nhân tài họ thường trả
lương cao hơn so với doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, buộc các doanh nghiệp nhà
nước phải tăng lương cho người lao động và làm cho đời sống của người lao động
được nâng lên so với trước đậy. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nước ngoài luôn tính
đến hiệu quả kinh tế vì vậy, họ trả công theo lao động rất đúng và thực chất, qua đó
các doanh nghiệp nhà nước của chúng ta cũng học tập về phân phối theo lao động
tốt hơn nhằm kích thích tính tích cực, sáng tạo của người lao động.
2.2.4. Các quan hệ sản xuất khác
Ở nước ta, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều loại
quan hệ sản xuất khác nhau, nó do trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta quy
định. Do bản chất khác nhau của các quan hệ sản xuất, chúng vừa thống nhất, vừa
mâu thuẫn, xung đột với nhau. Điều đó tác động đến cả hình thái kinh tế - xã hội
trong thời kỳ quá độ.
Các quan hệ sản xuất ở nước ta vừa thống nhất, vừa đối lập, tác động qua lại
lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển tạo ra một cơ sở hạ tầng của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, dưới sự dẫn dắt, hỗ trợ của quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa.
Tiểu kết chương 2
Lý luận về quan hệ sản xuất và vai trò của quan hệ sản xuất đối với sự phát
triển của lực lượng sản xuất, của kiến trúc thượng tầng là những nội dung cơ bản của
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, quan hệ sản xuất
có một vai trò tác động kép trong một hình thái kinh tế -xã hội, một mặt nó có vai trò
thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, mặt khác, quan hệ sản
xuất cũng là cơ sở, nền tảng để hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng.
Đối với nước ta, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn tồn tại nhiều
loại hình quan hệ sản xuất khác nhau thì quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa có vai trò
13
đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, tạo ra cơ sở
nền tảng cho sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và dẫn dắt các loại hình
quan hệ sản xuất khác đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn thời đại ngày nay cho thấy, sự vận động, biến đổi của quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau, trước hết
là, lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất luôn luôn vận động và biến đổi nó đòi hỏi
quan hệ sản xuất cũng phải biến đổi theo để bảo đảm sự phù hợp. Kiến trúc thượng
tầng mà trực tiếp là sự lãnh đạo, định hướng của Đảng và sự quản lý của Nhà nước,
có tác động mạnh mẽ tới sự vận động, biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Các loại quan hệ sản xuất khác ở nước ta chúng vừa thống nhất,
vừa mâu thuẫn tác động qua lại nhau tạo thành cơ sở hạ tầng đặc trưng của thời kỳ
quá độ ở nước ta, do đó cũng tác động đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa. Nhân tố toàn cầu hóa, hợp tác khu vực và quốc tế, nhân tố quốc tế cũng
góp phần tác động đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa nó tạo ra
cả cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập ở Việt Nam.
Việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận trên đây là cơ sở quan trọng để nghiên
cứu, sự biến đổi quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Chương 3
THỰC TRẠNG SỰ BIẾN ĐỔI CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT
XÃ HỘI CHỦ NGHĨATRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. THỰC TRẠNG SỰ BIẾN ĐỔI CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
3.1.1. Thực trạng sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể
hiện ở kinh tế nhà nước
Kinh tế nhà nước theo nghĩa rộng bao gồm hai lĩnh vực chính: các doanh
nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp như: tài nguyên quốc gia,
các quỹ dự trữ quốc gia, hệ thống ngân hàng nhà nước, bảo hiểm nhà nước trong
đó, các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò là nòng cốt.
Theo nghĩa hẹp kinh tế nhà nước đồng nghĩa với hệ thống các doanh nghiệp
nhà nước.
Kinh tế nhà nước có sự vận động, biến đổi qua nhiều giai đoạn khác nhau:
* Giai đoạn 1986 - 2001.
Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã có sự đổi mới mang tính bước
ngoặt, được thể hiện tập trung trong Văn kiện Đại hội VI,VII,VIII và các Nghị
14
quyết, văn bản pháp luật khác của Đảng và Nhà nước. Sự đổi mới được thể hiện trên
cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm. Cụ
thể là:
Thứ nhất, về quan hệ sở hữu.
Nền kinh tế với sự đa hóa về sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đã được hình
thành và phát triển. Từ một nền kinh tế chỉ có hai hình thức sở hữu là toàn dân và tập
thể với hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, Đến Đại hội IX
chúng ta có 6 thành phần kinh tế là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể
và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế tư bản
nhà nước.
Chúng ta đã tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước để chuyển đổi
sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước. Đặc biệt năm 1992 chúng ta đã thí điểm cổ
phần hóa đây là bước ngoặt quan trọng trong nỗ lực tìm ra hướng đi mới nhằm nâng
cao hiệu quả đầu tư và cải thiện kết quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước diễn ra mạnh mẽ theo số liệu thống
kê trong giai đoạn “từ 1992-2000 chúng ta đã cổ phần hóa được 588 doanh nghiệp
nhà nước, nhưng hầu như chỉ tập trung vào giai đoạn 1996-2000 (khoảng 583 doanh
nghiệp). Đa số các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa đều làm ăn tốt hơn trước”.
Thứ hai, về quan hệ tổ chức, quản lý.
Chúng ta đã đẩy mạnh việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước để giảm
dần số lượng các doanh nghiệp nhà nước như: giao, bán, khoán, cho thuê và cho phá
sản các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả.
Qua đổi mới sắp xếp lại, các doanh nghiệp nhà nước thời kỳ này giảm đi
nhanh chóng theo số liệu thống kê: Từ khoảng 12000 doanh nghiệp năm 1986
xuống còn 5 280 doanh nghiệp năm 2000. Mặc dù số lượng giảm nhưng đóng góp
vào GNP vẫn ổn định ở các mức tương ứng là 30,5% và 31,01% năm giai đoạn
1998-2000.
Việc tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước cũng làm cho số lượng
giảm đi nhưng quy mô doanh nghiệp lại tăng lên “số lượng doanh nghiệp có vốn
dười 1 tỷ đồng đã giảm gần gần 50% năm 1994, xuống còn 33% năm 1996, và 26%
năm 1999. Số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng tăng lên tương ứng là 10%, 15%
và 20% năm 1999. Đồng thời, vốn bình quân cho một doanh nghiệp cũng tăng từ 3,3
tỷ đồng lên hơn 11 tỷ đồng năm 1996 và hơn 18 tỷ đồng năm 1999”.
Trong giai đoạn này chúng ta đã thành lập được 17 tổng công ty 91 và 76 tông
công ty 90 hoạt động trong các ngành quan trong của đất nước như: sắt thép, xi
măng, dầu khí. Lương thựcQua đó, các Tổng công ty đã huy động được nguồn
15
vốn đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất và tăng cường cạnh tranh, khai thác thị
trường trong và ngoài nước.
Thứ ba, về quan hệ phân phối.
Trong giai đoạn này, cơ chế phân phối bình quân, phân phối theo tem phiếu
và hiện vật dần dần được xóa bỏ. Chúng ta đã chuyển dần sang trả lương bằng tiền
mặt, gắn việc trả lương theo năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế và theo cơ chế
thị trường.
Bên cạnh những sự biến đổi tích cực, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong
kinh tế nhà nước còn có những biến đổi tiêu cực như:
Một là, hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước thấp, theo số liệu thống kê: “tính
đến năm 2000 số doanh nghiệp có lãi thực sự chiếm 40%, số doanh nghiệp bị lỗ
chiếm 20%, còn lại là tình trạng không ổn định, khi lỗ khi lãi và lãi cũng không lớn”.
Hai là, còn ảnh hưởng nặng nề của tư duy bao cấp, theo tác giả Ngô Quang
Minh: “nhà nước phải thường xuyên hỗ trợ cho doanh nghiệp nhà nước giai đoạn
1997-1999, ngân sách nhà nước đã đầu tư trực tiếp cho doanh nghiệp gần 8000 tỷ
đồng, trong đó 6482 tỷ đồng cấp bổ sung cho doanh nghiệp, 1464 tỷ đồng là bù lỗ,
hỗ trợ các doanh nghiệp. Ngoài ra nhà nước còn miễn giảm thuế 2288 tỷ đồng, xóa
nợ 1088 tỷ đồng, khoanh nợ 3392 tỷ đồng, giãn nợ 540 tỷ đồng, cho vay tín dụng ưu
đãi 8685 tỷ đồng”.
Tổng kết quá trình đổi mới giai đoạn này, Đại hội IX khẳng định: “Quan hệ
sản xuất có mặt chưa phù hợp hạn chế việc giải phóng và phát triển lực lượng sản
xuất. Chưa có chuyển biến đáng kể trong việc đổi mới và phát triển doanh nghiệp
nhà nước”.
* Giai đoạn 2001-2017
Đến Đại hội IX chúng ta đã xác định được mô hình kinh tế tổng quát trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”. Kinh tế nhà nước tiếp tục được đổi mới để làm tốt vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế.
Một là, về quan hệ sở hữu.
Qua quá trình đổi mới sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, sở hữu của
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong kinh tế nhà nước đã được có sự thay đổi.
Các ngành, lĩnh vực của doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước nắm giữ 100% và cổ
phần chi phối được thu hẹp lại. Theo số liệu thống kê:
Các ngành, lĩnh vực nhà nước nắm 100% vốn đã giảm đi rõ rệt, từ 42 ngành
năm 2002, xuống 30 ngành năm 2004 và còn 19 ngành năm 2007, và 20 ngành năm
2011. Các ngành nhà nước nắm trên 50% vốn đã giảm từ 48 ngành năm 2002,
xuống 26 ngành năm 2004, 27 ngành năm 2007 và 27 ngành năm 2011.
16
Qua đó đã tạo điều kiện, địa bàn cho các thành phần kinh tế khác phát triển.
Cổ phần hóa các doanh nghiệp diễn ra mạnh mẽ.
Đánh giá công tác cổ phần hóa, tại Hội nghị triển khai công tác sắp xếp, đổi
mới doanh nghiệp giai đoạn 2016-2020 ngày 6/12/2016 Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc kết luận: “Phần lớn các doanh nghiệp sau cổ phần hóa làm ăn có lãi. Tổng vốn
chủ sở hữu của các doanh nghiệp Nhà nước tăng từ 810.000 tỷ đồng lên 1.234.000
tỷ đồng. Thực tế công tác cổ phần hóa năm 2015 cho thấy, 350 doanh nghiệp cổ
phần hóa đều làm ăn hiệu quả, nộp ngân sách, lợi nhuận trước thuế tăng 49%, nộp
ngân sách tăng 27%, vốn điều lệ đều tăng 72%, thu nhập người lao động tăng tới
33%... Đây là ví dụ cho thấy quá trình cổ phần hóa, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà
nước là rất ích lợi”. Thủ tướng nhấn mạnh “phải coi công tác sắp xếp, đổi mới doanh
nghiệp Nhà nước là nhiệm vụ chính trị quan trọng của năm 2017”.
Hai là, về quan hệ tổ chức, quản lý.
Trong thời kỳ này, quan hệ tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước đã được
thực hiện theo hướng tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước sao cho giảm
về số lượng, tăng về chất lượng.
Qua đổi mới sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước giảm đi nhanh chóng
“Năm 2001, cả nước có khoảng gần 6.000 doanh nghiệp nhà nước, thì đến năm
2011, có 1.369 doanh nghiệp nhà nước, và tính đến hết tháng 10-2016, còn 718
doanh nghiệp nhà nước. Về cơ bản, doanh nghiệp nhà nước đã tập trung vào những
ngành, lĩnh vực then chốt, cung cấp sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu”.
Như vậy, số doanh nghiệp nhà nước đã giảm đi hơn 8 lần chỉ còn lại các
doanh nghiệp nhà nước lớn đóng vai trò nòng cốt bảo đảm cho điều tiết vĩ mô nền
kinh tế.
Trong giai đoạn này, chúng ta đã tổ chức sắp xếp lại các Tổng công ty 90 và
91 để thành lập 12 Tập đoàn kinh tế. như: Tập đoàn Điện lực, Tập đoàn Xăng dầu,
Tập đoàn Hóa chất, Tập đoàn Than và khoáng sản, Tập đoàn Bưu chính viễn
thông, Tập đoàn Cao su, Tập đoàn Viễn thông quân đội Viettel, Tập đoàn Công
nghiệp xây dựng, Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy, Tập đoàn Nhà và đô thị, Tập
đoàn Bảo Việt. Các tập đoàn này đóng vai trò nòng cốt của doanh nghiệp nhà nước
và là cơ sở để nhà nước điều tiết nền kinh tế, tăng cướng sức cạnh tranh với doanh
nghiệp bên ngoài.
Ba là, về quan hệ phân phối.
Trong giai đoạn này chúng ta đã xóa bỏ cơ chế trả lương theo cơ chế kế
hoạch hóa tập trung, thực hiện trả lương, thưởng và các khoản khác theo cơ chế thị
trường. Việc trả lương theo cơ chế thị trường đã kích thích được lợi ích của người
lao động, từ đó giúp cho sản xuất phát triển.
17
Bên cạnh những biến đổi tích cực quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong kinh
tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước còn có những biến đổi tiêu cực được thể hiện:
Thứ nhất, sở hữu nhà nước, doanh nghiệp nhà nước tuy có giảm nhưng vẫn
chiếm tỷ trọng rất lớn trong cơ cấu GDP của cả nước theo số liệu thống:
Kinh tế nhà nước tuy có giảm nhưng vẫn chiếm 28,69% GDP của cả nước, tỷ
lệ này cần giảm xuống từ 15% - 20% để cho các thành phần kinh tế khác phát triển.
Thứ hai, nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, trong đó có các tập đoàn kinh tế,
tổng công ty nhà nước thua lỗ nặng lên đến hàng nghìn tỷ đồng gây bức xúc trong
dư luận như: Tập đoàn Vinaship, tổng công ty hàng hải Vinalie, dự án mở rộng khu
gang thép Thái Nguyên, nhà máy đạm Ninh Bình, xơ tợi Đình Vũ... khiến Nhà nước
phải giải cứu.
3.1.2. Thực trang sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể
hiện ở kinh tế tập thể
* Giai đoạn 1986- 2001
Quá trình đổi mới về kinh tế tập thể trong giai đoạn này được thể hiện thông
qua văn kiện Đại hội VI, VII, VIII và các văn kiện khác.
Trong giai đoạn này, kinh tế tập thể mà nòng cốt là các hợp tác xã có sự biến
đổi có tính bước ngoặt thể hiện
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_ve_su_bien_doi_cua_quan_he_san_xuat_xa_hoi_c.pdf