Nghiên cứu từ số liệu khảo sát mức sống dân cư năm 2012 và 2014 cho thấy chi
tiêu cho y tê bình quân đầu người năm 2016 tăng đáng kể so với năm 2010 và nó diễn ra
khá đều ở tất cả các nhóm thu nhập.
Đa số những người nằm trong nhóm nghèo nhất đều là những hộ thuộc khu vực nông
thôn và chi tiêu bình quân cho y tế của nhóm này tăng khá nhanh trong giai đoạn 2010-2016,
năm 2010 bình quân một người trong nhóm này chi tiêu y tế bình quân là 253,6 nghìn
đồng/người/năm và đến năm 2016, con số này là 835,8 nghìn đồng/ người/ tháng, tăng gấp
hơn 3 lần so với năm 2010.Đến năm 2016, mức chi tiêu cho y tế bình quân chung một người
một tháng là 1,36 triệu đồng, trong khi chi tiêu cho giáo dục bình quân đầu người nhóm giàu
nhất (1,9 triệu đồng/người/tháng) cao gấp hơn 2 lần nhóm nghèo nhất (0,83 triệu
đồng/người/năm) và hơn gấp 1,5 lần mức chi bình quân chun
12 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 501 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận án Xem xét ảnh hưởng của giáo dục và y tế cùng với sự tương tác giữa hai yếu tố này lên quá trình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam với số liệu được thu thập trong giai đoạn từ 2011 đến 2016, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
qua những bổ sung của nó cho các yếu tố tăng trưởng khác. Đáng chú ý, có các
nghiên cứu ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế thông qua sự bổ sung của nó cho tính
minh bạch: Kwack và Lee (2006), Pyo(1995); Kang(2006). Trong những năm gần đây ở
Việt Nam: cũng đã có một số nghiên cứu thực nghiệm phân tích vai trò của giáo dục đối với
tăng trưởng. Các nghiên cứu tập trung giải thích kinh nghiệm tăng trưởng của Việt Nam
trong những năm gần đây, dựa trên các biến số kinh tế - xã hội bao gồm vốn con người
(Scott và Trương Thị Kim Chuyên (2004), Klump và Nguyễn Thị Tuệ Anh (2004)), Moock
và cộng sự (1998), Nguyễn Nguyệt Nga (2002), Nguyễn Đức Thành (2004) , Wolff (2000),
Bils và Klenow (2000), Trần Thọ Đạt và Đỗ Tuyết Nhung (2008), Nguyễn Ngọc Hùng và
Tống Thị Lộc (2017), Ngô Thái Hưng (2015), Bùi Quang Bình (2012)
1.4.2. Tổng quan nghiên cứu về ảnh hưởng của y tế lên tăng trưởng kinh tế
Theo trường phái đo trực tiếp Y tế
Thước đo trực tiếp biến y tế được đo bằng: tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết, tuổi thọ bình quân,
chất lượng chăm sóc sức khỏe, mộ số nghiên cứu có thể kể đến như: Bloom và cộng sự
(2004), Daron Acemoglu và Simon Johnson (2007), Naeem akram và cộng sự (2008),
Usman và cộng sự (2015)
Theo trường phái đo gián tiếp Y tế
Thước đo gián tiếp, biến y tế được đo bằng chi tiêu cho Y tế, tổng chi cho y tế quốc
gia thể hiện tổng chi của toàn xã hội cho y tế, được tạo nên bởi hai biến thành phần: chi tiêu
công cho y tế, chi tiêu hộ gia đình cho y tế, một số nghiên cứu như : Piabuo and Tieguhong
(2017) , Eugene Kouassi và cộng sự. (2018) , Zahramila Elmi và Somaye. Sadeghi (2012),
Marta (2011) , Ozturk và Topçu (2014) , Atılgan, Kılıç và Ertuğrul (2017)
Tuy nhiên có một số nghiên cứu kết luận chi tiêu công của chính phủ đối với
nguồn nhân lực không có ảnh hưởng đáng kế đến tăng trưởng như: Maku (2009), Cetin
và Ecevit (2010), Juste Somé và cộng sự (2019)
Ở Việt Nam từ trước đến nay còn rất ít các nghiên cứu về ảnh hưởng của y tế và
chăm sóc sức khỏe đến quá trình tăng trưởng kinh tế. Thông thường thì vấn đề y tế và
chăm sóc sức khỏe ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế được nghiên cứu thông qua các
kênh tác động gián tiếp hoặc qua các ảnh hưởng tương tác với các yếu tố khác. Đây có
thể coi là khoảng trống nghiên cứu mà trong nghiên cứu này này tác giả muốn đi sâu xem
9
xét bằng cách sử dụng các mô hình định lượng với bộ số liệu mảng. Một số nghiên cứu
cụ thế về ảnh hưởng của y tế đến tăng trưởng kinh tế: Vũ Trịnh Thế Quân (2015),
Nguyễn Quang Trung và Trần Phạm Khánh Toàn (2014), Nguyễn Đình Tuấn (2013)
Nguyễn Đình Tuấn (2013), Nguyễn Thị Thu Hương (2009), Đàm Viết Cương (2006)
1.4.3. Tổng quan nghiên cứu ảnh hưởng tương tác của giáo dục, y tế lên tăng
trưởng kinh tế
Đo ảnh hưởng tương tác của Giáo dục và Y tế bao gồm 2 biến: Chi tiêu công cho giáo
dục và Chi tiêu hộ gia đình cho giáo dục; chi tiêu công cho Y tế và chi tiêu hộ gia đình
cho Y tế một số nghiên cứu có thể kể đến như: Hongyi Li và Huang Liang (2010), Sergio
Beraldo (2003), Azam và Ahmed (2010), Tang & Lai (2011), Bloom và cộng sự (2001),
Jude Eggoh và cộng sự (2015), Awaworyi và cộng sự (2015), Hüseyin Şen và cộng sự
(2015), Selsah Pasali (2019), Yin-Chi Wang (2011), Bloom (2005), Isola và Alani (2005),
Tuy nhiên Grossman (1972), Hassan và Kalim (2012)
Ở Việt Nam cũng có một số nghiên cứu đồng thời hai yếu tố Giáo dục và Y tế đến
tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên các nghiên cứu chưa phân tách và đi sâu và 2 yếu tố này,
thường chỉ xem xét nó trong mối quan hệ làm tăng chất lượng nguồn nhân lực như: Nguyễn
Quang Trung và Trần Phạm Khánh Toàn (2014), Nguyễn Ngọc Hùng (2016)
1.5. Khung phân tích của luận án
NCS đề xuất mô hình nghiên cứu như sau:
Hình 1.1: Mô hình nghiên cứu chính thức
Nguồn: Tác giả đề xuất
Mô hình nghiên cứu
Mô hình tổng quát:
Giáo dục
(He)
Vốn tư bản
(K)
Môi trường thể chế:
- Tham gia của người dân ở cấp cơ sở;
- Kiểm soát tham nhũng trong khu vực công
- Cung ứng dịch vụ công - Thủ tục hành chính công
- Điều kiện pháp lý
- PCI
Y tế
(Hh)
Ảnh hưởng tương tác
giáo dục và y tế
Lao động
(việc làm)
Tăng trưởng
kinh tế
10
0 1 2 3 4tangtruongkinhte *giaoduc yte giaoduc yte bienkiemsoatβ β β β β ε= + + + + +
Trong đó:
- Tangtruongkinhte: Thu nhập bình quân đầu người (GDP); giaoduc: Giáo
dục; yte: Y tế; bienkiemsoat: cac yếu tố khác có tác động đến tăng trưởng kinh tế; - 0β ;
1β ; 2β ; 3β ; 4β ; ε là các hằng số
Các biến của mô hình:
- Biến phụ thuộc: Tăng trưởng kinh tế, được đo bằng thu nhập bình quân đầu người
(GDP)
- Biến Giáo dục gồm 2 thước đo, (i) thước đo trực tiếp biến giáo dục có thể được
được đo bằng tỷ lệ nhập học, số năm đi học bình quân, tỷ lệ nhập học các cấp, tỷ lệ sinh viên
tốt nghiệp đại học, tỷ lệ đào tạo nghề(ii) Thước đo gián tiếp, biến giáo dục được đo bằng
chi tiêu cho giáo dục, trong chi tiêu cho giáo dục bao gồm 2 biến thành phần: chi tiêu công
cho giáo dục, chi tiêu hộ gia đình cho giáo dục
- Biến Y tế gồm 2 thước đo, (i) thước đo trực tiếp biến y tế được đo bằng: tỷ lệ sinh,
tỷ lệ chết, tuổi thọ bình quân, chất lượng chăm sóc sức khỏe (ii) Thước đo gián tiếp,
biến y tế được đo bằng chi tiêu cho Y tế, tổng chi cho y tế quốc gia thể hiện tổng chi của
toàn xã hội cho y tế, được tạo nên bởi hai biến thành phần: chi tiêu công cho y tế, chi tiêu
hộ gia đình cho y tế
- Biến tương tác, bao gồm 2 biến: Chi tiêu công cho giáo dục và Chi tiêu hộ gia
đình cho giáo dục; chi tiêu công cho Y tế và chi tiêu hộ gia đình cho Y tế
- Biến kiểm soát: Vốn, Việc làm, Môi trường thể chế (Tham gia của người dân ở
cấp cơ sở; Kiểm soát tham nhũng trong khu vực công; Cung ứng dịch vụ công - Thủ tục
hành chính công; Điều kiện pháp lý)
Luận án đưa ra các giả thuyết nghiên cứu:
H1: Giáo dục có ảnh hưởng tích cực lên tăng trưởng kinh tế
H2: Có sự khác biệt ảnh hưởng của chi tiêu tư nhân cho giáo dục lên tăng trưởng
kinh tế và ảnh hưởng của chi tiêu công cho giáo dục lên tăng trưởng kinh tế
H3: Y tế có ảnh hưởng tích cực lên Tăng trưởng kinh tế
H4: Có sự khác biệt ảnh hưởng của chi tiêu tư nhân cho y tế lên tăng trưởng kinh
tế và ảnh hưởng của chi tiêu công cho y tế lên tăng trưởng kinh tế
H5: Tác động của y tế lên tăng trưởng phụ thuộc vào mức độ của giáo dục (Tương
tác Giáo dục và Y tế có ảnh hưởng lên tăng trưởng kinh tế) và ngược lại
Mô hình này mới chỉ là mô hình tổng quát, phản ánh tác động của các biến độc lập
lên biến phụ thuộc nói chung. Việc cụ thể mối quan hệ tác động theo thời gian sẽ được
thể hiện bằng các mô hình nghiên cứu chuyên biệt trong phần chương 3: mô hình nghiên
cứu thực nghiệm.
Nhận Xét
Chương 1, tác giả đã giới thiệu cơ sở lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu về: (i)
lý thuyết ảnh hưởng của giáo dục đến tăng trưởng kinh tế; (ii) lý thuyết ảnh hưởng của y
tế đến tăng trưởng kinh tế; (iii) lý thuyết ảnh hương tương tác của giáo dục và y tế đến
tăng trưởng kinh tế. Có rất nhiều nghiên cứu cho thấy giáo dục, y tế và ảnh hưởng tương
11
tác đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn, tuy nhiên một số nghiên cứu đã
không tìm thấy bằng chứng về sự ảnh hưởng của các yếu tố này đến tăng trưởng kinh tế.
Thông qua tổng quan cho thấy, các nghiên cứu về ảnh hưởng tương tác của giáo
dục và y tế đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam cũng chưa có nhiều và chưa sâu, đa số
các nghiên cứu đều nhấn mạnh quan điểm rằng vốn con người là hàm số của tổng chi tiêu
cho giáo dục và y tế và xác định chi tiêu công như một yếu tố quyết định của vốn con
người, hoặc là cân nhắc một trong hai yếu tố chi cho y tế hoặc giáo dục. Phần lớn các
nghiên cứu trong nước sử dụng phương pháp phân tích định tính hoặc nếu có xây dừng
mô hình thì chưa nghiên cứu sâu ảnh hưởng tương tác của 2 yếu tố này đến tăng trưởng
kinh tế. Khác biệt về phương pháp tiếp cận đó, nên trong Luận án này tác giả xem xét cả
chi tiêu cho y tế và giáo dục ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Tác giả đã lựa chọn sử
dụng phương pháp định lượng, và một số phương pháp ước lượng các biến số: phương
pháp ước lượng số liệu mảng; phương pháp ước lượng moment tổng quát GMM, lựa
chon các biến số phù hợp với phạm vi nghiên cứu và bộ số liệu kinh tế vĩ mô thu thập,
các biến số có thể sử dụng để đo lường như: chi tiêu công cho giáo dục; chi tiêu tư nhân
cho giáo dục; tỷ lệ lao động qua đào tạo; tỷ lệ lao động có bằng cấp chứng chỉ, chi tiêu
công cho y tế; chi tiêu tư nhân cho y tế; tuổi thọ bình quân, một số yếu tố kiểm soát: vốn;
lao động; việc làm; môi trường thể chế
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ GIÁO DỤC, Y TẾ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2016
2.1. Một số chính sách về Giáo dục và Y tế
2.1.1 Một số chính sách giáo dục và đào tạo ở Việt Nam có hiệu lực trong giai
đoạn 2011 - 2016
- Chính sách về cách nhìn nhận đa chiều trongnhận thức vai trò của giáo dục -
- Chính sách bảo đảm phát triển cân đối hệ thống giáo dục từ phía Nhà nước:
- Chính sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo.
2.1.2 Một số chính sách liên quan đến khám chữa bệnh ở Việt Nam có hiệu lực
trong giai đoạn 2011 – 2016
- Chính sách về tài chính
- Chính sách khám chữa bệnh cho người nghèo (Quyết định 139/2002/QĐ-TTg sửa
đổi năm 2012)
- Chính sách mở rộng việc chi trả chi phí khám, chữa bệnh BHYT cho người nhiễm
HIV/AIDS
- Chính sách về hỗ trỡ chuyên môn
- Chính sách liên quan đến khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế (BHYT)
- Chính sách phân bổ nguồn ngân sách
2.1.3. Chính sách phân bổ nguồn ngân sách nhà nước chi thường xuyên cho
Giáo dục và Y tế
2.2. Thực trạng về giáo dục giai đoạn 2011-2016
12
2.2.1. Thực trạng về giáo dục phổ thông
Ngành giáo dục nói chung, đặc biệt là giáo dục phổ thông ngày càng được toàn xã
hội quan tâm sâu sắc, đặc biệt là quan điểm về phổ cập giáo dục ở nước ta hiện nay.
Chính vì vậy, đầu tư cho ngành giáo dục về cơ sở vật chất, trường lớp, đội ngũ giáo
viênngày càng được nâng cao.
- Về số trường học:
Theo số liệu của Tổng cục thống kê, giai đoạn từ 2011 đến 2017, số trường học phổ
- Về số giáo viên và học sinh:
+) Số giáo viên:
+) Số học sinh phổ thông
2.2.2. Thực trạng về giáo dục đại học
Giáo dục bậc cao đặc biệt là giáo dục cao đẳng, đại học vẫn luôn là mốt quan tâm
lớn của toàn xã hội đặc biệt là đối với học sinh cuối cấp và phụ huynh của họ. Bảng sau
thể hiện quy mô trường học; giáo viên và sinh viên theo học qua các năm.
Về số trường học:
Về số giáo viên và sinh viên:
2.2.3. Thực trạng về giáo dục nghề nghiệp
Hoạt động giáo dục nghề nghiệp chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi quản lý nhà nước về cơ
sở giáo dục nghề nghiệp được quy về một đầu mối, đảm bảo sự thống nhất và đồng bộ. Chính
vì vậy tại Nghị quyết 76/NQ-CP ngày 3 tháng 9 năm 2016 Chính phủ thống nhất giao cho Bộ
Lao động-Thương binh và Xã hội là cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp. Bộ
Giáo dục và Đào tạo là cơ quan quản lý nhà nước đối với các trường sư phạm.
- Theo loại hình cơ sở giáo dục nghề nghiệp
- Theo khu vực kinh tế-xã hội
- Theo hình thức sở hữu
Luật Giáo dục nghề nghiệp quy định có 3 loại hình thức sở hữu cơ sở giáo dục
nghề nghiệp bao gồm: Cơ sở giáo dục nghề nghiệp công lập, cơ sở giáo dục nghề nghiệp
tư thục và cơ sở giáo dục nghề nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Cơ sở giáo dục nghề nghiệp thuộc doanh nghiệp
- Thực trạng về học sinh, sinh viên học nghề
+) Số lượng tuyển sinh CĐN, TCN, Sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng
tăng so với năm 2015
+) Thông tin tốt nghiệp
+) Kết quả tốt nghiệp CĐN, TCN, SCN và Dạy nghề dưới 3 tháng chia theo
vùng kinh tế - xã hội
2.3. Thực trạng chi tiêu cho giáo dục
2.3.1. Thực trạng chi tiêu công cho giáo dục
Nhìn chung chi tiêu công bình quân cho giáo dục có xu hướng gia tăng theo từng
năm trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 ở tất cả các nhóm tăng trưởng kinh tế.
Đặc biệt, có sự gia tăng rõ nhất ở hai nhóm tăng trưởng thấp nhất và tăng trưởng cao
nhất. Theo đó, chi tiêu công bình quân cho giáo dục ở nhóm tăng trưởng thấp nhất tăng
đều từ mức 0,45 triệu đồng/người/năm ở năm 2011 đến 0,60 triệu đồng/người/năm vào
năm 2015. Trong khi đó, một sự gia tăng mạnh mẽ hơn ở nhóm tăng trưởng cao nhất, từ
13
mức 0,35 triệu đồng/người/năm ở năm 2011 tăng mạnh lên mức 0,60 triệu
đồng/người/năm ở năm kế tiếp và đạt mức 0,85 triệu đồng/người/năm ở năm 2015. Điều
đó cho thấy, có sự khác biệt đáng kể giữa chi tiêu công bình quân cho giáo dục giữa các
tỉnh thuộc các nhóm có mức tăng trưởng GDP cao nhất và các tỉnh có mức tăng trưởng
thuộc nhóm thấp nhất. Tuy nhiên, sự khác biệt về mức chi tiêu công bình quân cho giáo
dục là không rõ ràng ở các tỉnh thuộc các nhóm tăng trưởng trung gian như nhóm tăng
trưởng thấp, nhóm tăng trưởng trung bình và tăng trưởng cao. Từ đó, có thể đặt ra một
giả thuyết rằng tồn tại một mối tương quan dương giữa chi tiêu công bình quân cho giáo
dục với tăng trưởng kinh tế qua các năm trong giai đoạn khảo sát.
2.3.2.Thực trạng chi tiêu tư nhân cho giáo dục
Theo nhóm thu nhập, hộ càng giàu thì mức chi cho giáo dục càng lớn, tính đến
năm 2016, mức chi bình quân chung một người một tháng là 1,14 triệu đồng, trong khi
chi tiêu cho giáo dục bình quân đầu người nhóm giàu nhất (2,2 triệu đồng/người/ tháng)
cao gấp hơn 4 lần nhóm nghèo nhất (0,49 triệu đồng/người/năm) và hơn gấp 2 lần mức
chi bình quân chung. Tuy nhiên, tỷ trọng chi tiêu đầu tư cho giáo dục trong tổng chi tiêu
của hộ lại rất thấp, chỉ chiếm khoảng 2% tổng chi tiêu của hộ.
2.4. Thực trạng về y tế giai đoạn 2011-2016
2.5. Thực trạng chi tiêu cho y tế
2.5.1. Thực trạng chi tiêu công cho y tế
Hai luồng tài chính công lớn để cung cấp tài chính cho y tế ở Việt Nam là vốn ngân
sách nhà nước và quỹ bảo hiểm y tế (BHYT) xã hội. Do hoạt động đầu tư tư nhân thường
hướng tới lợi nhuận, Chính phủ vẫn khẳng định sẽ tiếp tục tăng ngân sách cho y tế nhằm
mục tiêu công bằng và hiệu quả của ngành y tế.
2.5.2. Thực trạng chi tiêu tư nhân cho y tế
Nghiên cứu từ số liệu khảo sát mức sống dân cư năm 2012 và 2014 cho thấy chi
tiêu cho y tê bình quân đầu người năm 2016 tăng đáng kể so với năm 2010 và nó diễn ra
khá đều ở tất cả các nhóm thu nhập.
Đa số những người nằm trong nhóm nghèo nhất đều là những hộ thuộc khu vực nông
thôn và chi tiêu bình quân cho y tế của nhóm này tăng khá nhanh trong giai đoạn 2010-2016,
năm 2010 bình quân một người trong nhóm này chi tiêu y tế bình quân là 253,6 nghìn
đồng/người/năm và đến năm 2016, con số này là 835,8 nghìn đồng/ người/ tháng, tăng gấp
hơn 3 lần so với năm 2010.Đến năm 2016, mức chi tiêu cho y tế bình quân chung một người
một tháng là 1,36 triệu đồng, trong khi chi tiêu cho giáo dục bình quân đầu người nhóm giàu
nhất (1,9 triệu đồng/người/tháng) cao gấp hơn 2 lần nhóm nghèo nhất (0,83 triệu
đồng/người/năm) và hơn gấp 1,5 lần mức chi bình quân chung.
2.6. Thực trạng tăng trưởng kinh tế
Giai đoạn 2011-2016: kinh tế Việt Nam đối mặt với nhiều khó khăn do những vấn
đề nội tại của nền kinh tế và chịu tác động không nhỏ của sự suy thoái kinh tế toàn cầu.
Trong hai năm 2011-2012, tăng trưởng kinh tế liên tiếp sụt giảm, từ mức 6,42% năm
2010 xuống còn 6,24% trong năm 2011 và 5,25% trong năm 2012.
Từ năm 2013 cho đến nay, với nỗ lực điều hành chính sách, tháo gỡ khó khăn cho
nền kinh tế đồng thời nhờ những tác động tích cực của sự phục hồi kinh tế thế giới, kinh
14
tế trong nước bắt đầu có sự cải thiện đặc biệt ghi nhận mức tăng trưởng đột phá trong
năm 2015, ước đạt 6,68%, vượt 0.48 điểm phần trăm so với kế hoạch đề ra”.
2.7 Thực trạng tăng trưởng kinh tế chi tiêu cho y tế và giáo dục
Theo từng năm, mức chi tiêu trung bình của hộ cho y tế và giáo dục của hộ dường
như có sự biến động trong một phạm vi hẹp với tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, các điểm dữ liệu
cho các mối quan hệ này tập trung quanh đường trung bình song song với trục tăng trưởng
kinh tế. Điều đó có nghĩa, một sự dao động mạnh của các mức chi tiêu trung bình cho giáo dục
và y tế của hộ chỉ làm thay đổi một lượng nhỏ trong tốc độ tăng trưởng GDP của đất nước.
Tương tự, phân theo ngũ phân vị tăng trưởng kinh tế thì đồ thị phân tán của các
mức chi tiêu công cũng như chi tiêu bình quân của hộ cho y tế và giáo dục với tăng
trưởng kinh tế cho thấy có phân bố hình cầu, hay không tồn tại một dạng phân bố tuyến
tính về mối quan hệ giữa các mức chi tiêu lên tăng trưởng kinh tế ở 5 nhóm tăng trưởng
kinh tế trong giai đoạn khảo sát.
Xét về mặt tổng thể của bộ dữ liệu trong giai đoạn khảo sát thì có thể tồn tại một
mối quan hệ tuyến tính dương giữa các mức chi tiêu cho y tế và giáo dục của hộ lên tăng
trưởng kinh tế.
Nhận Xét
Trong chương 2 thông qua phân tích tổng hợp và so sánh thực trạng về giáo dục và
đạo tạo, y tế hiện nay, tác giả đã tìm ra một số yếu tố như: tuổi thọ bình quân, tỷ lệ lao
động qua đào tạo, tỷ lệ sinh viên, tỷ lệ trình độ đại học/dân số, số bác sỹ/1 vạn dân là
những yếu tố có liên quan đến năng suất lao động, vậy các yếu tố này ảnh hưởng đến tăng
trưởng kinh tế như thế nào?
Ngoài ra, thông qua bộ dữ liệu được tổng hợp từ GSO trong giai đoạn khảo sát từ năm
2011 đến năm 2015 thì bước đầu xác định được một mối tương quan dương giữa các khoản
chi tiêu công cũng như chi tiêu bình quân của hộ cho y tế, giáo dục với tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, sự tương quan này là tương đối nhỏ. Kết quả thống kê qua phương pháp đồ thị cho
thấy một mô thức rõ ràng về các khoản chi tiêu cho giáo dục qua từng năm và giữa các nhóm
tăng trưởng kinh tế. Các vấn đề này sẽ lần lượt được làm sáng tỏ trong chương 3.
CHƯƠNG 3
MÔ HÌNH PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA GIÁO DỤC, Y TẾ VÀ TƯƠNG TÁC
CỦA CHÚNG LÊN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM
3.1. Dữ liệu, biến số sử dụng trong mô hình
3.1.1 Dữ liệu sử dụng
Số liệu sử dụng trong nghiên cứu gồm dữ liệu được khai thác từ Tổng Cục Thống
kê và Bộ Tài Chính các năm từ 2011-2016 thống kê theo 63 tỉnh, thành phố gồm các
thông tin về: GDP, vốn, lao động, chi tiêu cho giáo, chi tiêu cho y tế. Ngoài ra còn một số
dữ liệu khác được sử dụng trong mô hình như là biến kiểm soát gồm: dữ liệu về chỉ số
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh được thực hiện bởi Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam; dữ liệu về chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam, số
liệu điều tra mức sống dân cư (VHLSS) 2011-2016
3.1.2. Các biến số
Từ tổng quan nghiên cứu và phân tích thực trạng của giáo dục và y tế, tác giả đã
lựa chọn các biến số sử dụng trong các mô hình kinh tế lượng để đo lường cho giáo dục
15
và y tế, tăng trưởng kinh tế, gồm hai nhóm: biến phụ thuộc và các biến độc lập. Trước
tiên, biến phụ thuộc (GDP) là tổng sản phẩm hàng năm của tỉnh.
Biến độc lập được phân làm 3 nhóm yếu tố: (i) nhóm biến giáo dục, (ii) nhóm
biến về y tế, (iii) nhóm biến kiểm soát. Cụ thể:
(i) Nhóm biến thể hiện cho giáo dục bao gồm các biến:
- Chi tiêu công cho giáo dục
- Chi tiêu của tư nhân cho giáo dục là tổng chi tiêu của tư nhân cho giáo dục trong
một năm theo tỉnh
- Tỷ lệ dân số có trình độ đại học/dân của tỉnh trong năm i
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề của tỉnh trong năm i
Các biến chi tiêu công cho giáo dục, chi tiêu của tư nhân cho giáo dục được logarit
hóa trước khi đưa vào mô hình để đảm bảo những biến này sẽ phân phối chuẩn.
(ii) Nhóm biến thể hiện cho y tế bao gồm các biến:
- Chi tiêu công cho y tế là khoản chi thường xuyên của chính phủ cho y tế.
- Chi tiêu của chi tiêu tư nhân cho y tế là tổng chi tiêu của các hộ gia đình cho y tế
trong một năm theo tỉnh
- Tuổi thọ bình quân
- Số bác sỹ trên một vạn dân.
- Các biến chi tiêu công cho y tế, chi tiêu tư nhân cho y tế cũng được logarit hóa
trước khi đưa vào mô hình để đảm bảo những biến này sẽ phân phối chuẩn.
(iii) Nhóm biến kiểm soát khác: bao gồm các biến: việc làm của tỉnh, vốn đầu tư
phát triển của tỉnh, tiền lương bình quân. Ngoài ra, mô hình còn có những yếu tố kiểm
soát khác thể hiện năng lực cạnh tranh của tỉnh hoặc chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành
chính công của tỉnh.
Ở đây biến vốn được tính là tổng vốn đầu tư phát triển của địa phương. Phần chi tiêu
cho giáo dục và y tế của địa phương được lấy từ nguồn chi thường xuyên của tỉnh, do đó các
khoản chi này không có liên quan đến chi đầu tư phát triển của địa phương.
3.2. Mô hình
Cơ sở lý thuyết lựa chọn mô hình
Trong mô hình Mankiw-Romer-Weil (1992), đã đề cập đến vốn nhân lực. Điểm
khác biệt quan trọng trong mô hình là cách xử lý biến vốn nhân lực. Mankiw, Romer, và
Weil giả định vốn nhân lực được tích lũy giống như tư bản hiện vật, và do vậy nó được
đo bằng số đơn vị đầu ra chứ không phải số năm.
Giả sử rằng hàm sản xuất có dạng: Y = KαHβ(AL)1-α-β, với α và β là các hằng số
với giá trị trong (0,1) và tổng của chúng cũng nằm trong (0,1). Vốn nhân lực được tích
lũy giống như tư bản hiện vật: HH s Y Hδ= −& . Trong đó sH là tỷ trọng đầu ra đầu tư vào
vốn nhân lực và nó không đổi. Ngoài ra vai trò của vốn nhân lực cũng được phát triển và
đề cấp trong các lý thuyết về tăng trưởng nội sinh như: Squire (1993), Schultz (1999),
Romer (1986), Lucas (1988), Bassanini & Scarpetta (2001) đã xác định nguồn nhân lực
trở thành yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo.
Mô hình nghiên cứu thực nghiệm
16
Quá trình lựa chọn các biến số căn cứ theo các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm
trước đây, Luận án để xuất các mô hình hồi quy được nghiên cứu cụ thể như sau:
Mô hình 1: Tác động của giáo dục đến tăng trưởng kinh tế. Xem Giáo dục là thành
phần chính của vốn nhận lực
0 1 2 3it it it it k kt itLnGDP LnK LnL edu X uα α α α β= + + + + + (3.1)
Mô hình 2: Tác động của y tế đến tăng trưởng kinh tế. Xem y tế là thành phần
chính của vốn nhân lực
0 1 2 3it it it it k kt itLnGDP LnK LnL health X uα α α α β= + + + + + (3.2)
Mô hình 3: Tác động tương tác của giáo dục và y tế đến tăng trưởng kinh tế. Xem
giáo dục và y tế là 2 thành phần chính của vốn nhân lực.
0 1 2 4 5 6 *it it it it it it it k kt itLnGDP LnK LnL educv healthv educv healthv X uα α α α α α β= + + + + + + + (3.3)
Trong các mô hình (3.1) và (3.2) hệ số α1 chính là hệ số tác động của giáo dục và y
tế đến tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trong mô hình (3.3) để xác định được tác động của
chi tiêu giáo dục và y tế tới tăng trưởng kinh tế, đạo hàm phương trình (3.3) theo giáo dục
và y tế:
4 6
5 6
, (3 .4)
, (3 .5)
it
i
i
t
t
it
G D P
educv
G
healt
D P
health
h
ucv
v
v
ed
α α
α α
∂
∂
∂
= +
∂
= +
Như vậy hệ số α6 là các hệ số tác động tăng thêm của ảnh hưởng tác động biên của
giáo dục và y tế lên tăng trưởng, khi đánh giá tác động biên của yếu tố Giáo dục lên tăng
trưởng kinh tế thì yếu tố này còn phụ thuộc và một lượng α6healthvit (và ngược lại đối với Y
tế), chính vì hệ số của biến tương tác rất quan trọng khi thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa 2
yêu tố này trong vai trò vốn con người ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Kiểm định biến nội sinh trong mô hình
3.3. Phương pháp ước lượng
3.3.1 Phương pháp hồi quy số liệu mảng (FE, RE)
3.3.2 Phương pháp mô men tổng quát (GMM)
3.3.3. Quy trình ước lượng
Quá trình thực hiện các lượng như sau:
Với phương pháp mô hình số liệu mảng
• Ước lượng REM, kiểm định về sự tồn tại hay không của iµ trong mô hình bằng
kiểm định xttest0, nếu không tồn tại iµ , có thể quay về quy trình ước lượng OLS thông
thường cho số liệu mảng
• Nếu tồn tại iµ , khi đó cần lựa chọn giữa FEM và REM bằng kiểm định Hausman
• Sau đó thực hiện các kiểm định tương ứng cho mô hình được lựa chọn ở bước trên
Với phương pháp GMM
• Kiểm định về tính nội sinh của biến giải thích, nếu không có vấn đề về biến nội sinh thì
sử dụng phương pháp REM hoặc FEM nói trên, nếu có thì chuyển sang bước tiếp theo
• Ước lượng bằng GMM
• Kiểm định về tính hợp lý của biến công cụ
17
3.4. Kết quả nghiên cứu
3.4.1 Kết quả ước lượng số liệu chéo của chi tiêu cho giáo dục , y tế và ảnh hưởng
tưởng tác của chúng lên tăng trưởng kinh tế
Kết quả cho thấy có sự khác nhau về ý nghĩa tác động của chi tiêu cho y tế lên tăng
trưởng kinh tế giữa chi tiêu công và chi tiêu của tư nhân. Cụ thể, chi tiêu cho y tế của tư nhân
góp phần thúc đẩy tăng trưởng GDP. Theo đó, cứ mỗi % gia tăng trong chi tiêu của tư nhân
cho y tế sẽ góp phần làm tăng 0,2 điểm phần trăm trong tăng trưởng kinh tế. Mặc dù, chi tiêu
công cho y tế cũng làm tăng tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên hệ số lại nhỏ hơn rất nhiều so với
chi tiêu hộ. Kết quả này nhấn mạnh rằng sự không hiệu quả của chi tiêu công cho y tế trong
mối quan hệ đến tăng trưởng kinh tế.
Tương tự với các khoản chi cho y tế, kết quả ước lượng trong giai đoạn 2011 – 2016
cũng cho thấy sự khác nhau về ý nghĩa giữa chi tiêu cho giáo dục lên tăng trưởng kinh tế
giữa hai nguồn chi tiêu hộ và chi tiêu công. Kết quả cũng phản ánh đúng thực tê khi cả 2 khu
vực chi tiêu công và chi tiêu tư nhân đều mang dấu dương và tác động tích cực lên tăng
trưởng kinh tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_xem_xet_anh_huong_cua_giao_duc_va_y_te_cung.pdf