MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU . 1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ BỐN CÔNG ưỚC GENEVA VỀ BẢO
HỘ NẠN NHÂN CHIẾN TRANH VÀ QUYỀN CON NGưỜI. 9
1.1. Nhận thức về quyền con người . 9
1.1.1. Khái niệm về quyền con người. 9
1.1.2. Tính cấp thiết bảo vệ quyền con người trong bối cảnh xung đột vũ trang . 11
1.2. Khái quát chung về bốn Công ước Geneva. 16
1.2.1. Khái niệm về bốn Công ước Geneva. 16
1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của bốn Công ước Geneva . 18
1.2.3. Đặc điểm, vai trò, phạm vi áp dụng của bốn Công ước Geneva. 25
1.2.4. Phạm vi áp dụng của bốn Công ước Geneva. 32
Chương 2: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BỐN CÔNG ưỚC
GENEVA VỀ VIỆC BẢO HỘ NẠN NHÂN CHIẾN TRANH . 36
2.1. Các nguyên tắc chung. 36
2.2. Bảo hộ đối với những người tham chiến. 38
2.2.1. Bảo vệ những người bị thương, bị ốm, bị đắm tàu. 38
2.2.2. Bảo vệ tù binh . 43
2.2.3. Lính đánh thuê . 52
2.3. Bảo hộ đối với những đối tượng dân sự. 55
2.3.1. Bảo vệ các nhân viên y tế, đơn vị y tế và phương tiện vận chuyển y tế . 55
2.3.2. Bảo vệ các nhân viên tôn giáo . 60
2.3.3. Bảo vệ thường dân . 622
2.3.4. Bảo vệ những đối tượng đặc biệt trong xung đột vũ trang (phụ
nữ, trẻ em, phụ nữ có thai). 66
2.4. Các biện pháp bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả trong việc
thực thi các quy định của bốn Công ước Geneva và hai
Nghị định thư bổ sung . 67
2.4.1. Các biện pháp quốc gia. 67
2.4.2. Trách nhiệm của một số quốc gia bảo hộ, tổ chức trong việc hỗ
trợ và bảo vệ nạn nhân chiến tranh. 68
2.4.3. Xử lý vi phạm cá nhân bằng chế quy chế của cơ quan xét xử
hình sự quốc tế . 72
2.5. Đánh giá tính hiệu quả về các quy định bảo vệ quyền con
người của nạn nhân chiến tranh. 73
Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC THI VIỆC BẢO VỆ QUYỀN
CON NGưỜI TRONG BỐN CÔNG ưỚC GENEVA VÀ
GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT . 75
3.1. Nội luật hóa bốn Công ước Geneva và hai Nghị định thư
bổ sung vào pháp luật quốc gia . 75
3.2. Thực trạng thực thi việc bảo vệ quyền con người trong bốn
Công ước Geneva và hai Nghị định thư bổ sung . 80
3.2.1. Việc tuyên truyền phổ biến, giáo dục nội dung bốn Công ước
Geneva và hai Nghị định thư bổ sung . 80
3.2.2. Thực tiễn bảo vệ quyền con người trong xung đột vũ trang . 82
3.2.3. Nguyên nhân của tồn tại phổ biến vi phạm nhân quyền trong
chiến tranh. 96
3.3. Giải pháp để nâng cao tính hiệu quả trong việc thực thi bảo
vệ quyền con người trong bốn Công ước Geneva và hai Nghị
định thư bổ sung . 101
KẾT LUẬN . 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 109
26 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 570 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Bảo vệ quyền con ngƣời trong bốn công ước Geneva về việc bảo hộ nạn nhân chiến tranh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áp lý phổ quát (universal
legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và nhóm chống lại
những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) làm tổn hại đến
nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản
(fundamental freedoms) của con người.
Điều này có nghĩa là mặc dù quyền con người là bẩm sinh vốn có
nhưng chắc chắn sẽ có sự vi phạm nếu không có những quy định của pháp
luật để phân định rạch ròi việc được làm gì và không được làm gì, đâu là
hợp pháp hay bất hợp pháp. Vì thế quyền con người phải là những bảo
đảm pháp lý phổ quát thì mới bảo vệ nhân phẩm, thể chất, tinh thần cho
con người. Ở Việt Nam, vấn đề nhân quyền hay khái niệm quyền con
người “là những vấn đề mới mẻ, tồn tại nhiều quan điểm khác nhau nhưng
nhìn chung quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của
con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa
thuận pháp lý quốc tế”.
Theo Luật Nhân quyền quốc tế, quyền của một con người có hai
nhóm quyền chính: (i) nhóm quyền dân sự, chính trị và (ii) nhóm các
quyền kinh tế, xã hội, văn hóa.
1.1.2. Tính cấp thiết bảo vệ quyền con người trong bối cảnh xung
đột vũ trang
Thứ nhất, chiến tranh tất yếu gây ra nhiều mất mát, đau thương về
con người
6
Theo số liệu của Bộ quốc phòng và một số tài liệu khác, trong chiến
tranh thế giới thứ nhất: 8 triệu binh sĩ bị chết, 15 triệu người bị thương
nặng, trong đó 7 triệu người bị tàn phế suốt đời; trong chiến tranh thế giới
thứ hai: khoảng 60 triệu người chết, 90 triệu người tàn phế.
Thứ hai, kinh tế kiệt quệ, thiệt hại lớn về tài sản
Cũng theo ghi chép từ nguồn tài liệu trên, chiến tranh thế giới thứ
nhất kết thúc, thiệt hại về vật chất khoảng 260 tỉ USD.
Thứ ba, môi trường bị phá hủy nghiêm trọng.
Với số lượng rất lớn chất độc hoá học đã rải xuống hủy hoại môi
trường sống
Thứ tư, một tất yếu khách quan khi xung đột xảy ra là quyền con
người bị thu hẹp, hạn chế hơn so với quyền con người trong thời bình:
Quyền sống với tư cách là một trong những quyền cơ bản nhất của
con người được quy định trong Luật Nhân quyền quốc tế thì trong Luật
Geneva, đối phương cầm súng tước đoạt mạng sống của nhau là hợp pháp.
Bên cạnh đó, theo Luật Nhân quyền quốc tế, mọi cá nhân mà tước đoạt tự
do của người khác thì phải chịu tố tụng (ngoại trừ một số ngoại lệ) còn
trong Luật Geneva, luật vẫn cho phép các nhà nước giam giữ tù binh chiến
tranh, có thể giam giữ một số dân thường vì lí do an ninh.
Thứ năm, các quyền cơ bản của con người bị xâm phạm nghiêm trọng.
Quyền sống (của các đối tượng vô can), quyền ăn uống tối thiểu,
quyền về môi trường, quyền về sức khỏe bị vi phạm nghiêm trọng. Đặc
biệt, một số quyền như quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc
trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo cũng bị vi phạm khá phổ biến, điển hình
là, thí nghiệm kinh hoàng trên cơ thể con người của Đức quốc xã.
1.2. Khái quát chung về bốn Công ƣớc Geneva
1.2.1. Khái niệm về bốn Công ước Geneva
Luật Geneva là khái niệm chỉ tập hợp những văn kiện được xây dựng
dưới sự bảo trợ của Ủy ban Chữ thập đỏ quốc tế (International committee
7
of the Red Cross – ICRC) và được thông qua trong các hội nghị ngoại giao
tổ chức ở Geneva (Thụy Sỹ) từ giữa thế kỉ XIX. Những văn kiện xuất phát
từ nguồn này có nội dung trọng tâm nhằm bảo vệ nạn nhân của các cuộc
xung đột vũ trang (bao gồm những binh sỹ bị thương, bị ốm, bị đắm tàu,
thường dân, tù binh...).
1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của bốn Công ước Geneva
Năm 1859, một công dân Thụy Sĩ – Hăngri Đuynăng đã tận mắt
chứng kiến hậu quả kinh hoàng, hàng ngàn binh sỹ bị thương nằm bất lực
và bị bỏ rơi mà không có ai chăm sóc trong trận Solferino (miền Bắc nước
Ý). Trải nghiệm đó đã thôi thúc ông và những người bạn của ông thành lập
Ủy ban quốc tế giúp đỡ thương binh vào năm 1863 – tổ chức phi chính
phủ quốc tế đầu tiên trên lĩnh vực này và là tiền thân của Ủy ban Chữ thập
đỏ quốc tế hiện nay. Năm 1864 Ủy ban đã tổ chức một hội nghị ngoại giao
quốc tế ở Geneva với sự tham gia của đại diện từ 16 quốc gia châu Âu.Tại
hội nghị, 16 quốc gia này đã ký một hiệp gọi là Công ước Geneva.
Công ước Geneva đầu tiên năm 1864 với 10 điều luật và tiếp tục
được bổ sung và phát triển vào năm 1906, 1929 chỉ quan tâm đến những
người bị thương, bị ốm trên chiến trường đồng thời kêu gọi sự bảo vệ đối
với tất cả các cơ sở y tế, nhân viên y tế và bất kỳ người dân giúp đỡ những
người bị thương. Công ước quy định Hội Chữ thập đỏ quốc tế là một nhóm
y tế trung tính. Để đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn quốc tế, các Công
ước Geneva năm 1949 với 600 điều luật, bao gồm:
Thứ nhất, Công ước Geneva (I) về bảo vệ những người bị thương và
bị bệnh trong lực lượng vũ trang trên đất liền 1949
Thứ hai, Công ước Geneva (II) về bảo vệ những người bị thương, bị
ốm, bị đắm tàu thuộc các lực lượng vũ trang trên biển 1949
Thứ ba, Công ước Geneva liên quan đến đối xử tù nhân của chiến
tranh 1949
Thứ tư, Công ước Geneva (IV) về bảo vệ thường dân trong thời gian
chiến tranh được thông qua vào năm 1949
8
Với thực tế diễn biến phức tạp, thực tế đã chứng minh bốn Công ước
Geneva chưa đủ hiệu quả pháp lý, vì thế, hai Nghị định thư bổ sung bốn
công ước bao gồm Nghị định thư (I) về bảo vệ các nạn nhân trong các
cuộc xung đột vũ trang mang tính chất quốc tế và Nghị định thư (II) về bảo
vệ các nạn nhân trong các cuộc xung đột vũ trang không mang tính chất
quốc tế ra đời như một tất yếu khách quan của tình hình quốc tế.
1.2.3. Đặc điểm, vai trò, phạm vi áp dụng của bốn Công ước Geneva
1.2.3.1. Đặc điểm của bốn Công ước Geneva
Thứ nhất, bảo vệ một số nhóm người nhất định, bảo vệ tính nhân bản
Luật Geneva chỉ bảo vệ những nhóm người nhất định bao gồm:
những người bị thương, bị ốm, bị đắm tàu, dân thường, tù binh, nhà báo,
nhân viên y tế, nhân viên tôn giáo và một số đối tượng khác (gọi chung là
các đối tượng được bảo hộ). Mặt khác, Luật Geneva ra đời mục đích bảo
vệ tính nhân bản của các dân tộc, ngăn cản sự tiêu diệt tận gốc các dân tộc
với nhau, bảo vệ quyền cơ bản nhất của con người đó là quyền sống.
Thứ hai, Luật Geneva là ngành luật mang tính thực tiễn, chấp nhận
thực tiễn
Luật Geneva ra đời không hề có mục tiêu kích động chiến tranh, cổ
động chiến tranh mà chỉ là chấp nhận một thực tiễn khách quan, đồng thời,
đưa ra các quy tắc pháp lý tương ứng để hạn chế tới mức tối thiểu thiệt hại
xảy ra.
Thứ ba, Luật Geneva là Điều ước quốc tế mang tính chất đa phương, để
ngỏ cho mọi quốc gia tham gia cũng như cho quyền tự do rút khỏi công ước
Luật Geneva cũng là một điều ước quốc tế đa phương, năm 1864 có
10 thành viên tham gia, năm 1949 có 196 thành viên, một số quốc gia vẫn
còn bỏ ngỏ chưa kí kết.
Thứ tư, bản chất của bốn Công ước Geneva là giới hạn việc sử dụng
bạo lực trong khuôn khổ sự cần thiết thích đáng nhằm hạn chế tới mức
thấp nhất thiệt hại xảy ra và bảo vệ quyền con người trong chiến tranh
chứ không ngăn chặn chiến tranh.
9
Mục đích của sự ra đời Luật Geneva không phải nhằm xóa bỏ chiến
tranh, mà vẫn thừa nhận chiến tranh như là một thực tế khách quan và cố
gắng làm hạn chế những tổn thất, thiệt hại không cần thiết về sinh mạng,
tài sản để đảm bảo sự tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của con người.
1.2.3.2. Vị trí, vai trò của bốn Công ước Geneva
Thứ nhất, bốn Công ước Geneva là một trong những văn bản cơ bản,
nền tảng, trụ cột, đầu tiên của Luật Nhân đạo quốc tế về bảo hộ nạn nhân
chiến tranh.
Bốn công ước là những viên gạch nền tảng đầu tiên để các quốc gia
thành viên, hàng loạt các văn kiện mang tính pháp lý khác của Luật Nhân
Đạo quốc tế ra đời.
Thứ ba, đây là một trong những Điều ước quốc tế đầu tiên chủ tịch
nước kí sắc lệnh đánh dấu sự phát triển nhân quyền ở Việt Nam
Những năm 1957 – 1959, Mĩ và tay sai tăng cường dùng bạo lực
khủng bố phong trào đấu tranh của quần chúng, thực hiện chính sách “tố
cộng, diệt cộng”, hàng triệu đảng viên, người dân vô tội bị giết hại. Vì thế,
Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức kí kết bốn Công ước Geneva về việc bảo
hộ nạn nhân chiến tranh vào năm 1957.
1.2.4. Phạm vi áp dụng của bốn Công ước Geneva
Phạm vi áp dụng là các cuộc xung đột vũ trang mang tính chất quốc tế
và các cuộc xung đột vũ trang không mang tính chất quốc tế. Một số trường
hợp không áp dụng Luật Geneva: Bạo loạn nội bộ, Căng thẳng nội bộ.
Chương 2
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BỐN CÔNG ƢỚC GENEVA
VỀ VIỆC BẢO HỘ NẠN NHÂN CHIẾN TRANH
2.1. Các nguyên tắc chung
* Phân biệt giữa thường dân và binh lính, giữa mục tiêu dân sự và
mục tiêu quân sự
10
Việc phân biệt này cấm các bên tham chiến lợi dụng việc trà trộn lẫn
với dân thường vì sẽ gây thiệt hại rất lớn cho thường dân.
* Cấm tấn công và bảo hộ những người không tham gia hoặc đã bị
loại khỏi vòng chiến đấu
Nội dung cơ bản của nguyên tắc này đó là tất cả những người thuộc
lực lượng vũ trang bị thương, bị bệnh, bị đắm tàu, tù binh, dân thường,
nhân viên y tế, tù binh, nhân viên tôn giáo, nhà báo đều phải được tôn
trọng và bảo vệ mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc,
màu da, tín ngưỡng, tôn giáo...
* Đối xử nhân đạo với tù binh và những người của bên đối
phương bị bắt giữ
Các bên tham chiến phải tôn trọng sinh mạng, phẩm giá, các quyền
tự do về tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo, quyền được liên lạc với gia đình
và tiếp nhận cứu trợ, cung cấp chỗ ăn, chỗ ở đảm bảo các điều kiện về ánh
sáng, vệ sinh và chăm sóc y tế cho họ. Đặc biệt khi xem xét chế tài kỉ luật
hay tư pháp thì cũng phải thể hiện thái độ khoan dung, nhân đạo.
2.2. Bảo hộ đối với những ngƣời tham chiến
2.2.1. Bảo vệ những người bị thương, bị ốm, bị đắm tàu
2.2.1.1. Khái niệm người bị thương, bị ốm, bị đắm tàu
Định nghĩa người bị thương, bị ốm, bị đắm tàu bao gồm cả binh lính
và thường dân. Khái niệm “người bị thương” bao gồm các dấu hiệu sau: có
chấn thương và không có bất kỳ hành động đối địch nào. Khái niệm “người
bị bệnh” thì dấu hiệu thông thường là bệnh tật, ngoài ra còn có các dấu hiệu
khác: rối loạn bất lực khác về thể chất hoặc tinh thần và không có bất kỳ
hành động đối địch nào. Cụ thể, định nghĩa còn nêu ra một số đối tượng
được coi là những người bị thương, bị ốm như người tàn tật, phụ nữ có thai,
sản phụ, trẻ sơ sinh... Phạm vi khái niệm người bị đắm tàu bao gồm cả trên
biển (theo nghĩa truyền thống) và trên các sông, hồ dù đối tượng chuyên
chở đó thuộc quân sự hay dân sự. Khái niệm tàu được mở rộng ra cả máy
11
bay, “rủi ro” thì bao gồm rủi ro do việc bắn hạ bởi họa lực của các bên
tham chiến hoặc rủi ro về kĩ thuật, thời tiết.
2.2.1.2. Những quy tắc về bảo vệ những người bị thương, bị ốm, bị đắm tàu
* Điều kiện để được bảo vệ là những người bị thương, bị ốm, bị đắm
tàu phải từ bỏ bất kỳ hành động đối địch nào
Đây là cơ sở đầu tiên để những đối tượng này được bảo vệ.
* Những người bị thương, bị ốm, bị đắm tàu phải được tôn trọng và
bảo vệ trong tất cả mọi trường hợp. Họ phải được đối xử và chăm sóc một
cách nhân đạo. Bất kỳ hành động nào nhằm tước đoạt mạng sống hoặc
xâm hại những người bị thương, bị ốm, bị đắm tàu đều bị cấm
Để những người bị thương, bị ốm, bị đắm tàu được tôn trọng, bảo vệ,
được chăm sóc và đối xử nhân đạo thì nguyên tắc bình đẳng, không phân
biệt đối xử về chủng tộc, màu da, tín ngưỡng, tôn giáo, giới tính, tín
ngưỡng phải được thực hiện nghiêm chỉnh.
* Nghiêm cấm mọi hành vi xâm hại đến tính mạng và thân thể của họ
như sát hại hoặc thủ tiêu, tra tấn hoặc sử dụng cho các cuộc thí nghiệm
sinh học, cố ý không chăm sóc y tế hoặc chủ tâm đặt họ vào nguy cơ có thể
bị lây bệnh nhiễm trùng:
Hành vi nghiêm cấm này được quy định cụ thể tại Điều 12 Công ước
(I), (II) và Điều 11 Nghị định thư (I).
* Tại mọi thời điểm và nhất là sau một trận chiến, các bên xung đột
cần thực hiện ngay lập tức tất cả những biện pháp để tìm kiếm và thu lượm
những người bị thương, bị ốm, bị đắm tàu để đảm bảo chăm sóc y tế đồng
thời bảo vệ họ khỏi bị cướp bóc, hành hạ:
Việc quy định này được thể hiện rất rõ trong các Điều 15, 16, 17
Công ước (I); Điều 17(1) Công ước (II) và Điều 8 Nghị định thư (II).
2.2.2. Bảo vệ tù binh
2.2.2.1. Định nghĩa tù binh
Nguyên tắc chung để được công nhận là tù binh theo Công ước thì
12
phải đáp ứng hai điều kiện: điều kiện được công nhận là lực lượng vũ
trang và điều kiện thỏa mãn quy chế chiến binh. Ta có thể định nghĩa về tù
binh như sau: “bất kỳ thành viên lực lượng vũ trang của một bên xung đột
nào cũng là chiến binh và bất kỳ chiến binh nào bị bắt giữ cũng có thể
được coi là tù binh”. Tuy nhiên, một số trường hợp ngoại lệ sau dù không
thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu vẫn được coi là tù binh và một số đối tượng
được đối xử như tù binh. Một số đối tượng khi bị bắt không được hưởng
quy chế tù binh: chiến binh có hành động xảo trá vi phạm quy tắc tự phân
biệt và công khai mang vũ khí, lính đánh thuê, lính biệt kích, gián điệp.
2.2.2.2. Những quy tắc về bảo vệ và đối xử đối với tù binh
* Quyền của tù binh
Thứ nhất, quyền được tôn trọng danh dự, nhân phẩm trong mọi
trường hợp:
Điều này có nghĩa là khi họ bị bắt họ có các quyền dân sự nào thì
được giữ nguyên sau khi trở thành tù binh, trừ trường hợp đặc biệt thì nước
giam giữ có thể hạn chế quyền của tù binh nhưng chỉ trong tình trạng giam
giữ đòi hỏi. Đặc biệt, các bên không được tra tấn về thể chất hoặc tinh
thần, nhục mạ nhằm cưỡng ép tù binh khai thông tin
Thứ hai, quyền được đối xử nhân đạo
Quy định nghiêm cấm những hành động gây thương tật thể chất, các
thí nghiệm y học, khoa học đối với tù binh
Tính nhân đạo thể hiện xuyên suốt trong các quy định của Công ước
nhưng nổi bật nhất thể hiện ở chế độ kỷ luật áp dụng với tù binh: chế tài
hình sự và chế tài kỉ luật.
Thứ ba, quyền được đối xử bình đẳng với mọi tù binh
Tất cả các tù binh của nước giam giữ đều được đối xử như nhau,
không chịu bất kỳ sự phân biệt bất lợi nào, dựa trên chủng tộc, quốc tịch,
tôn giáo, chính kiến trừ một số trường hợp ngoại lệ.
* Những quy tắc về bảo đảm điều kiện giam giữ về vật chất của tù binh
13
Nước giam giữ phải đảm bảo tù binh được sống ở không gian đủ ánh
sáng, đủ lượng khí, đủ sưởi ấm, không bị ẩm thấp phù hợp với phong tục, tập
quán của tù binh, khẩu phần ăn hàng ngày đủ cả về chất, lượng, chủng loại,
tuyệt đối không được thi hành những biện pháp kỉ luật “bỏ đói tập thể” đối
với tù binh
* Những quy tắc về đảm bảo điều kiện giam giữ về tinh thần của tù binh
Tù binh được phép tự do sinh hoạt tôn giáo trong khuôn khổ các quy
tắc kỷ luật thông thường do bên giam giữ đặt ra, đồng thời, tù binh được tự
do hoạt động sinh hoạt tinh thần, thể thao, giải trí để nhằm đảm bảo cho tù
binh sống khỏe về tinh thần, tránh được stress, chán nản.
* Những quy tắc về cứu trợ tù binh
Tù binh được nhận các đồ cứu trợ từ cá nhân, cơ quan, tổ chức, Ủy
ban chữ thập đỏ quốc tế những đồ dùng, vật phẩm phục vụ cho thể chất
cũng như tinh thần.
* Những quy tắc về sử dụng sức lao động của tù binh
Khi sử dụng sức lao động, nước cầm giữ phải tuân thủ nguyên tắc
bình đẳng trên cơ sở tính đến tuổi tác, giới tính, cấp bậc và khả năng thể
lực của họ và đặc biệt nhằm mục đích giữ cho họ được sức khỏe về thể
chất và tinh thần, không lợi dụng lao động để trừng phạt, trả thù. Tù binh
không phải làm những công việc có hại cho sức khỏe, không được bắt tù
binh làm một việc bị coi là hạ nhục đối với nhân viên trong lực lượng vũ
trang, khi được tai nạn thì phải chăm sóc và hưởng phụ cấp.
* Quy tắc đối xử với tù binh ốm nặng, tử vong
Tù binh ốm thì được lập chúc thư và gửi ngay về nước. Tù binh chết
thì được chôn cất tử tế, danh sách mồ mả được gửi lại cho nước tù binh
thuộc quyền để người thân có thể tìm kiếm hài cốt.
2.2.3. Lính đánh thuê
Định nghĩa về lính đánh thuê được ghi nhận trong Điều 47 Nghị định
thư (I).
14
Quyền lợi của lính đánh thuê sẽ được hưởng sự bảo hộ tại Điều 75
Nghị định thư (I). Cụ thể quyền lợi của lính đánh thuê được bảo vệ bởi: cấm
xâm hại đến tính mạng, sức khỏe thân thể hay tinh thần của con người,
quyền được xét xử công bằng
2.3. Bảo hộ đối với những đối tƣợng dân sự
2.3.1. Bảo vệ các nhân viên y tế, đơn vị y tế và phương tiện vận
chuyển y tế
2.3.1.1. Những quy tắc về bảo vệ các nhân viên y tế
* Định nghĩa về nhân viên y tế:
Điều 8(c) Nghị định thư (I) nhân viên y tế được quy định cụ thể hơn
và mở rộng hơn với điều kiện là những nhân viên y tế phải được chỉ định
hoặc thừa nhận bởi một bên trong cuộc xung đột, bao gồm hai loại: những
nhân viên làm công tác chuyên môn về y tế và những nhân viên làm công
tác hành chính, phục vụ.
* Các quy tắc bảo vệ đối với nhân viên y tế dân sự:
Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các nhân viên y tế
Điều này có nghĩa là các bên xung đột phải loại trừ nhân viên y tế là
mục tiêu tấn công
2.3.1.2. Những quy tắc về bảo vệ các đơn vị y tế:
* Định nghĩa về các đơn vị y tế:
Đơn vị y tế được hiểu là những cơ sở và đơn vị khác, bất kể thuộc
quân y hay dân y, được tổ chức ra với mục đích y tế.
* Quy tắc về bảo vệ các đơn vị y tế:
Các đơn vị y tế, dù là quân y hay dân y, bất cứ lúc nào cũng đều phải
được tôn trọng, bảo vệ và không bao giờ là mục tiêu tấn công
2.3.1.3. Những quy tắc về vận chuyển y tế
Việc vận chuyển y tế là các hoạt động chuyên chở bằng đường bộ,
đường thủy, đường hàng không những đối tượng như những người bị
thương, bị ốm, bị đắm tàu, nhân viên y tế, nhân viên tôn giáo và các
15
phương tiện y tế. Hoạt động vận chuyển y tế là đối tượng được miễn trừ
tấn công và bắt giữ khi thỏa mãn yêu cầu nhận dạng, tư cách pháp lý,
hoạt động.
2.3.1.4. Những quy tắc về bảo vệ các khu vực, địa điểm y tế và an toàn
Các bên xung đột cùng với sự giúp đỡ của các nước bảo hộ và Ủy
ban Chữ thập đỏ sẽ thỏa thuận những khu vực nào là khu vực, địa điểm y
tế an toàn và về nguyên tắc các bên trong cuộc xung đột phải có nghĩa vụ
tôn trọng và bảo vệ những địa điểm này, không bao giờ tấn công và các địa
điểm đó trừ trường hợp vi phạm.
2.3.1.5. Bảo vệ quyền lợi của các đối tượng thông qua biểu tượng và
dấu hiệu phân biệt
Sử dụng các biểu tượng như Biểu tượng phận biệt mà các bên có thể
lựa chọn một trong ba loại: Chữ thập đỏ trên nền trắng, trăng lưỡi liềm đỏ
trên nền trắng hoặc sư tử và mặt trời đỏ trên nền trắng làm dấu hiệu trên
các vật dụng, phương tiện vận chuyển y tế, nhân viên y tế để bảo vệ an
toàn cho khu vực, đối tượng.
2.3.2. Bảo vệ các nhân viên tôn giáo
2.3.2.1. Định nghĩa các nhân viên tôn giáo
Nhân viên tôn giáo là binh lính hay thường dân, chuyên thực hiện chức
năng tôn giáo và thuộc một trong các lực lượng mà pháp luật quy định.
2.3.2.2. Quy tắc bảo vệ các nhân viên tôn giáo
Các nhân viên tôn giáo phải được tôn trọng và bảo vệ trong mọi
trường hợp, bất kỳ sự tấn công nào mà nhằm trực tiếp vào các nhân viên
tôn giáo hoặc bất kỳ hành động nào xâm phạm các quyền của họ đều bị coi
là sự vi phạm nghiêm trọng và có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo
pháp luật quốc tế, nghiêm cấm các hành vi trả thù nhằm vào họ. Họ không
bị bắt buộc làm việc gì khác ngoài chức năng tôn giáo của họ.
2.3.3. Bảo vệ thường dân
2.3.3.1. Khái quát chung về thường dân
16
Thường dân là những người sinh sống trên những vùng đang xảy ra
chiến sự, họ không tham gia chiến sự, tức không phải là chiến binh và
không tham gia một phong trào nổi dậy chống lực lượng chiếm đóng, họ
cần sự cứu giúp từ các lực lượng y tế, tôn giáo, các tổ chức nhân đạo
quốc tế và trong nước để nhằm thoát khỏi tình trạng chiến tranh: chết
chóc, đói khát
2.3.3.2. Bảo vệ thường dân trong các lãnh thổ đối phương hoặc bị
đối phương chiếm đóng
* Bảo hộ chung cho cư dân trước một số hậu quả do chiến tranh
Cư dân được trú ẩn ở các khu vực và địa điểm an toàn và bệnh viện
hay các khu trung lập hóa để tự bảo vệ quyền an toàn cho mình, được y tế
chăm sóc, được cứu trợ.
* Quy chế và việc đối xử với người được bảo hộ (tức là công dân của
các quốc gia tham chiến)
Trong mọi hoàn cảnh, những người được bảo vệ phải được tôn trọng
về thân thể, danh dự, quyền lợi gia đình, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục,
tập quán. Bên cạnh đó, cấm xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần,
các hình phạt, cướp bóc, trả thù. Đồng thời, cấm các dạng tấn tấn công mà
đe dọa khủng khiếp đến cuộc sống của người dân, cấm một số phương
pháp chiến tranh. Mặt khác, thường dân ở trong các lãnh thổ đối phương
hoặc bị chiếm đóng hoặc thuộc sự kiểm soát của một bên xung đột được
quyền hưởng các hoạt động cứu trợ:
2.3.4. Bảo vệ những đối tượng đặc biệt trong xung đột vũ trang
(phụ nữ, trẻ em, phụ nữ có thai)
Phụ nữ, trẻ em phải được bảo vệ khỏi bị hãm hiếp, nô lệ tình dục, khi
phụ nữ có thai phạm tội thì hạn chế tới mức thấp nhất xử hình phạt tử hình.
Đồng thời, các bên phải thi hành mọi biện pháp để đảm bảo trẻ em dưới 15
tuổi không tham gia chiến sự.
17
2.4. Các biện pháp bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả trong việc
thực thi các quy định của bốn Công ƣớc Geneva và hai Nghị định thƣ
bổ sung
2.4.1. Các biện pháp quốc gia
* Trách nhiệm chuyển nội dung các văn kiện sang ngôn ngữ quốc gia
và chuyển hóa nội dung văn kiện vào hệ thống pháp luật quốc gia
Đây là viên gạch nền đầu tiên để thể chế nội dung của luật vào pháp
luật quốc gia.
* Phổ biến, giáo dục nội dung của Công ước và hai Nghị định thư
đối với người đứng đầu nhà nước, binh lính thuộc lực lượng vũ trang, cán
bộ y tế, toàn thể nhân dân
Điều này có nghĩa là cần thiết lập các chương trình huấn luyện quân
sự, sau đó nếu có điều kiện thì xây dựng chương trình giáo dục dân sự, các
khóa đào tạo.
* Xử lý vi phạm bằng hệ thống pháp luật của quốc gia thành viên:
Với việc thể chế những nội dung của Luật Geneva vào pháp luật quốc
gia, quốc gia là chủ thể duy nhất sử dụng những quy định của luật áp dụng
trên thực tế để xét xử và trừng trị những nghi can vi phạm theo đúng pháp luật.
2.4.2. Trách nhiệm của một số quốc gia bảo hộ, tổ chức trong việc
hỗ trợ và bảo vệ nạn nhân chiến tranh
2.4.2.1. Quốc gia bảo hộ và các tổ chức thay thế
Nước bảo hộ bắt đầu làm nhiệm vụ của mình khi có sự đồng ý của
các bên xung đột. Nhiệm vụ của các quốc gia bảo hộ là đảm bảo sự tôn
trọng và thi hành công ước đồng thời đảm bảo quyền lợi của các bên xung
đột thông qua các hoạt động cụ thể như: thăm và giữ liên lạc đối với những
đối tượng được bảo vệ, đặc biệt là những tù nhân; giám sát các hoạt động
trợ giúp nhân đạo; đứng ra làm trung gian giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn
giữa các bên
18
2.4.2.2. Thúc đẩy sự tôn trọng các quy định của Công ước và hai
Nghị định thư thông qua Ủy ban điều tra nhân đạo quốc tế
Phạm vi hoạt động của Ủy ban là cuộc xung đột vũ trang mang tính
chất quốc tế và chỉ những quốc gia nào thừa nhận thẩm quyền của Ủy ban
mới có quyền yêu cầu Ủy ban thực hành nhiệm vụ này.
2.4.2.2. Hoạt động của Phòng thông tin quốc gia, Cơ quan thông tin
Trung ương
Phòng thông tin chính thức và Cơ quan tù binh Trung ương về tù
binh có vai trò thu thập tất cả thông tin liên quan đến tù binh, người bị
thương bị ốm và chuyển tin tức đến nước nguyên quán càng sớm càng tốt.
2.4.2.3. Hoạt động của Ủy ban hội chữ thập đỏ quốc tế:
Nhiệm vụ của ICRC bao gồm: hoạt động cứu trợ như phân phát
những đồ cứu trợ, đến thăm tù binh cũng như các hoạt động giám sát thông
qua việc đi thăm tất cả những nơi có tù binh, đặc biệt là nơi giam giữ, tạm
giam hoặc nơi tù binh lao động, đồng thời tổ chức các cuộc hội thảo, đối
thoại quốc tế nhằm tăng cường sự tuân thủ của các quốc gia đối với luật
Nhân đạo nói chung và Luật Geneva nói riêng
2.4.3. Xử lý vi phạm cá nhân bằng chế quy chế của cơ quan xét xử
hình sự quốc tế
Tòa án hình sự quốc tế ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan này,
là cơ quan xét xử hình sự quốc tế độc lập và thường trực, trừng trị các loại
tội: tội diệt chủng, tội phạm chống lại nhân loại, tội phạm chiến tranh và
tội xâm lược với nguyên tắc không áp dụng quyền miễn trừ cho những
người đứng đầu hay là quan chức cao cấp của nhà nước, thành viên cơ
quan lập pháp.
2.5. Đánh giá tính hiệu quả về các quy định bảo vệ quyền con
ngƣời của nạn nhân chiến tranh
* Quy định pháp lý về bốn Công ước và hai Nghị định thư bổ sung về
cơ bản đã trở thành khung pháp lý cơ sở cho việc bảo vệ quyền con người
19
* Một số đối tượng còn chưa được bảo vệ:
+ Luật chưa bảo vệ một số đối tượng sau: lính đánh thuê (vì đặt ra
tiêu chuẩn quá cao khiến thực tế họ là “lính đánh thuê” nhưng lại “không
phải là lính đánh thuê” theo Công ước), lính biệt kích, gián điệp.
+ Hiện nay xuất hiện lực lượng vũ trang phi chính phủ với sự hiện
diện xuyên quốc gia như mạng lưới Al – Queda sẽ được xác định là xung
đột thuộc vào loại nào xung đột mang tính chất quốc tế hay không mang
tính chất quốc tế và khi họ bị bắt làm tù binh thì họ có được hưởng quy
chế tù binh hay không là vấn đề đang t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- qcn_nguyen_phuong_nhung_bao_ve_quyen_con_nguoi_trong_bon_cong_uoc_geneva_ve_viec_bao_ho_nan_nhan_chi.pdf