Thực nghiệm điều tra là một biện pháp điều tra do cơ quan điều tra tiến hành theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự mà bản chất của nó là sử dụng những kiến thức chuyên môn, kỹ thuật
cần thiết nhằm tiến hành các hoạt động thực nghiệm dưới dạng: dựng lại, diễn lại, thử nghiệm những
hành vi, tình huống, tình tiết của một sự việc nhất định có ý nghĩa đối với vụ án nhằm xác định khả
năng diễn ra của chúng và kiểm tra, củng cố những chứng cứ đã có, thu thập chứng cứ mới, kiểm tra
đánh giá những giả thuyết điều tra, góp phần giải quyết đúng đắn vụ án hình sự và phòng ngừa tội
phạm
-Kết quả thực nghiệm điều tra là phương tiện để kiểm tra kết quả điều tra.
- Tác dụng chính của thực nghiệm điều tra là giải quyết những mâu thuẫn phát sinh từ những
tình tiết, tình huống nào đó có ý nghĩa cho hoạt động điều tra.
- Không phải là biện pháp cuối cùng để đi đến sự thật khách quan của vụ án. Trong khi thực
nghiệm điều tra, Điều tra viên sẽ phát hiện ra những mâu thuẫn trong những chứng cứ đã thu thập
được. Sau khi tiến hành hoạt động thực nghiệm điều tra sẽ là cơ sở cho việc tiến hành các biện
pháp điều tra tiếp theo. Đến khi nào các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án đều đã được kiểm
chứng và phù hợp với nhau thì mới có thể coi là hoạt động điều tra kết thúc, sự thật của vụ án
được làm sáng tỏ.
19 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 651 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận văn Các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự (Nguyễn Thị Minh), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động điều tra, phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo của cơ quan
điều tra các cấp, Thủ tr-ởng, Phó Thủ tr-ởng cơ quan điều tra và Điều tra viên trong quá trình
điều tra v.v
1.1.4. Yêu cầu của hoạt động điều tra vụ án hình sự
- Hoạt động điều tra phải đ-ợc tiến hành có kế hoạch
- Tiến hành nhanh chóng và linh hoạt
- Sử dụng có hiệu quả những biện pháp trinh sát, những ph-ơng tiện kỹ thuật trong quá trình
điều tra
- Vận động quần chúng tham gia vào hoạt động điều tra
1.2. Các biện pháp điều tra
Các biện pháp điều tra bao gồm: Khởi tố bị can và hỏi cung bị can; lấy lời khai; thu giữ vật
chứng; đối chất; nhận dạng; khám xét, thu giữ tài liệu, vật chứng; khám nghiệm hiện tr-ờng, tử
thi, xem xét dấu vết; thực nghiệm điều tra; tr-ng cầu giám định.
Trong quá trình điều tra, tùy từng vụ án cụ thể mà các biện pháp điều tra đ-ợc thực hiện toàn
bộ hay một phần. Có những biện pháp luôn luôn bắt buộc phải thực hiện (nh- khởi tố bị can, hỏi
cung bị can, lấy lời khai ng-ời tham gia tố tụng), có những biện pháp có thể không bắt buộc phải
thực hiện tùy theo nhu cầu điều tra.
Việc xác định phạm vi, giới hạn các biện pháp điều tra có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Việc điều tra phiến diện, không đầy đủ là một trong
những căn cứ để Viện kiểm sát, Tòa án trả hồ sơ điều tra bổ sung (Điều 168, 179 BLTTHS) hoặc
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm (Điều 273 BLTTHS) v.v
1.3. Khái quát các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp điều tra trong tố
tụng hình sự
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến tr-ớc năm 1989
Các quy định pháp lý về hoạt động điều tra hình sự đ-ợc ban hành với số l-ợng ch-a lớn và
chủ yếu d-ới dạng các văn bản d-ới luật, nội dung ch-a đầy đủ, phần lớn mới chỉ quy định về tổ
chức cơ quan điều tra và thẩm quyền điều tra, về nội dung này, tính hợp lý vẫn ch-a cao.
1.3.2. Từ năm 1989 đến năm 2003
BLTTHS đầu tiên ra đời năm 1989 là một điểm mốc lớn trong lịch sử phát triển pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam, có tác động tích cực trong quá trình tố tụng hình sự nói chung và hoạt động điều
tra hình sự nói riêng. Bộ luật đã dành 6 ch-ơng với 49 Điều luật để quy định những vấn đề quan trọng
liên quan đến hoạt động điều tra hình sự, phần lớn các điều luật này đ-ợc dành để quy định về trình tự,
thủ tục tiến hành các biện pháp điều tra cụ thể.
Những thay đổi của Bộ luật Hình sự năm 1999 về phân loại tội phạm còn có ảnh h-ởng đến
việc tổ chức hoạt động điều tra hình sự và đòi hỏi cần có sự điều chỉnh trong pháp luật tố tụng hình
sự. Do đó, trong lần sửa đổi, bổ sung thứ 3 đối với BLTTHS năm 1988, vấn đề thời hạn điều tra và
thời hạn tạm giam để điều tra các loại tội phạm đã đ-ợc quy định lại một cách cụ thể phù hợp với sự
thay đổi nêu trên của Bộ luật Hình sự năm 1999, tạo thuận lợi cho việc áp dụng các chế định này
trong thực tế điều tra hình sự.
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
- Xây dựng đ-ợc hệ thống các cơ quan điều tra và các cơ quan khác đ-ợc giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra khá hợp lý, b-ớc đầu đảm bảo đ-ợc tính chuyên sâu.
- Bổ sung những quy định làm cơ sở pháp lý cho việc tăng c-ờng mối quan hệ phối hợp giữa
điều tra theo tố tụng và điều tra trinh sát.
BLTTHS năm 2003 đã kế thừa và phát triển các quy định về hoạt động điều tra nói chung, các
biện pháp điều tra nói riêng. Các biện pháp điều tra tuy vẫn giữ nguyên nh- cũ nh-ng nội dung, trình
tự, thủ tục tiến hành các biện pháp điều tra đ-ợc bổ sung nhiều theo h-ớng đảm bảo tính khách quan
của biện pháp đ-ợc thực hiện; tôn trọng, bảo vệ quyền của ng-ời tham gia tố tụng trong hoạt
động điều tra. Những sửa đổi, bổ sung đó phù hợp với định h-ớng tăng c-ờng tính dân chủ trong
hoạt động tố tụng, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà n-ớc pháp quyền và cải cách t- pháp hiện nay
ở n-ớc ta theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Có thể khẳng định rằng, các quy định pháp lý về hoạt động điều tra hình sự về cơ bản ngày
một hoàn thiện, đáp ứng khá kịp thời đòi hỏi của thực tiễn điều tra hình sự, góp phần đáng kể vào
những thành tựu mà cơ quan điều tra đã đạt đ-ợc trong thời gian qua.
Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến l-ợc cải cách t- pháp đến năm 2020 đã nêu
rõ: "Xác định rõ nhiệm vụ của cơ quan điều tra trong mối quan hệ với các cơ quan khác đ-ợc
giao một số hoạt động điều tra theo h-ớng cơ quan điều tra chuyên trách điều tra tất cả các vụ
án hình sự, các cơ quan khác chỉ tiến hành một số hoạt động điều tra sơ bộ và tiến hành một số
biện pháp theo yêu cầu của cơ quan điều tra chuyên trách. Tr-ớc mắt tiếp tục thực hiện mô hình
tổ chức cơ quan điều tra theo pháp luật hiện hành; nghiên cứu và chuẩn bị mọi điều kiện để tiến
tới tổ chức lại cơ quan điều tra theo h-ớng thu gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa công tác trinh
sát và hoạt động điều tra tố tụng hình sự".
Ch-ơng 2
Quy định của Luật tố tụng hình sự Việt Nam
về các biện pháp điều tra
2.1. Khởi tố bị can và hỏi cung bị can
2.1.1. Khởi tố bị can
Khởi tố bị can là việc cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố đối với một
ng-ời khi có đủ căn cứ xác định rằng ng-ời đó đã thực hiện hành vi phạm tội.
Quyết định khởi tố bị can là văn bản pháp lý cần thiết để cơ quan điều tra áp dụng tất cả các
biện pháp ngăn chặn, thu thập chứng cứ, biện pháp đảm bảo việc giải quyết vụ án đối với bị can.
2.1.2. Hỏi cung bị can
Hỏi cung bị can là biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự, do Điều tra viên tiến hành bằng
cách tác động trực tiếp vào tâm lý bị can nhằm mục đích thu đ-ợc lời khai trung thực, đúng đắn
và đầy đủ về hành động phạm tội của bị can và đồng bọn cũng nh- những tin tức cần thiết khác
góp phần làm sáng tỏ sự thật của vụ án.
- Là biện pháp điều tra phổ biến nhất, có khả năng thu nhiều tin tức nhất về vụ án đang điều
tra cũng nh- các tin tức khác mà cơ quan điều tra cần thu thập.
- Hỏi cung cũng dễ dẫn đến sai lầm chủ quan, xâm phạm nghiêm trọng tới quyền lợi của bị
can. Chính vì vậy mà khoản 2 Điều 72 BLTTHS năm 2003 đã quy định lời nhận tội của bị can, bị
cáo chỉ có thể đ-ợc coi là chứng cứ nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án. Không đ-ợc
dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội.
2.2. Lấy lời khai ng-ời làm chứng, ng-ời bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
ng-ời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
2.2.1. Lấy lời khai ng-ời làm chứng
Lấy lời khai của ng-ời làm chứng là biện pháp điều tra đ-ợc tiến hành nhằm thu thập, theo trình
tự tố tụng hình sự, lời khai của ng-ời làm chứng về những tình tiết của vụ án đang đ-ợc điều tra và
những tin tức, tài liệu khác có ý nghĩa đối với hoạt động điều tra và phòng ngừa tội phạm.
- Lời khai của ng-ời làm chứng th-ờng thu thập đ-ợc nhiều thông tin về vụ án, đối t-ợng gây án
và những tình tiết khác có liên quan đến vụ án xảy ra.
- Khi lấy lời khai của ng-ời làm chứng ch-a đủ 16 tuổi phải mời cha mẹ hoặc ng-ời đại diện
hợp pháp khác hay thầy cô giáo của ng-ời đó tham dự. Do vậy, khi triệu tập ng-ời làm chứng
ch-a đủ 16 tuổi, Điều tra viên cũng phải gửi giấy mời cho cả những ng-ời nói trên.
- Lời khai của ng-ời làm chứng là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng để chứng
minh sự thật của vụ án, sau khi đ-ợc kiểm tra, xác minh thận trọng cần đ-ợc sử dụng có hiệu quả
trong quá trình tiến hành hoạt động điều tra để chứng minh sự thật của vụ án; cũng nh- trong
hoạt động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm.
- Không dùng lời khai của ng-ời làm chứng nh- chứng cứ duy nhất để kết luận về vụ án.
2.2.2. Lấy lời khai của ng-ời bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, ng-ời có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
- Ng-ời bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự... là những ng-ời mà quyền lợi, nghĩa vụ
của họ bị ảnh h-ởng bởi các tình tiết của vụ án. Chính vì vậy mà lời khai của họ có thể không
khách quan, mà thiên theo h-ớng chủ quan có lợi cho mình.
- Cần phải đối chiếu với nhiều lời khai của các đối t-ợng khác và những chứng cứ khác thu
thập trong quá trình điều tra để tìm ra đ-ợc lời khai chân thật, đáng tin cậy để sử dụng vào trong
việc khám phá sự thật khách quan của vụ án.
2.3. Đối chất
Đối chất là biện pháp điều tra đ-ợc áp dụng trong tr-ờng hợp có sự mâu thuẫn trong lời khai
giữa những ng-ời tham gia tố tụng với nhau về cùng một vấn đề nhằm xác định sự thật khách
quan của vụ án.
- Nh-ợc điểm: dễ bộc lộ những chứng cứ đã thu thập đ-ợc; bị can dễ có điều kiện thông
cung, nên Điều tra viên phải thận trọng và chỉ sử dụng biện pháp đối chất khi đã sử dụng các biện
pháp điều tra khác không giải quyết đ-ợc mâu thuẫn trong lời khai.
2.4. Nhận dạng
Nhận dạng là biện pháp điều tra đ-ợc tiến hành nhằm mục đích làm rõ sự đồng nhất, sự
t-ơng đồng hay sự khác biệt giữa đối t-ợng nhận dạng và đối t-ợng có liên quan đến vụ án mà
ng-ời nhận dạng đã tri giác đ-ợc tr-ớc đây bằng cách quan sát, so sánh các đặc điểm, vết tích
của đối t-ợng nhận dạng với hình ảnh đối t-ợng mà ng-ời nhận dạng đã tri giác tr-ớc đây còn
ghi nhớ trong trí nhớ của ng-ời nhận dạng.
- Việc nhận dạng cũng có thể làm ảnh h-ởng tới quyền lợi của mỗi ng-ời, việc quyết định và đ-a
ra hình thức nhận dạng phù hợp cũng là một yêu cầu đặt ra cho Điều tra viên trong hoạt động của
mình. Chọn ng-ời nhận dạng và đối t-ợng nhận dạng không đúng, không những khó phát huy đ-ợc
tác dụng mà còn có thể làm ảnh h-ởng đến sự an toàn của ng-ời đ-ợc chọn để nhận dạng, hoặc ảnh
h-ởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án.
- Ng-ợc lại, sau khi xác minh đ-ợc kết quả nhận dạng đúng thì có thể sử dụng nó nh- là một
trong những chứng cứ của vụ án, tr-ờng hợp ng-ời nhận dạng đ-a ra kết luận nghi vấn đối t-ợng
nhận dạng có liên quan đến vụ án thì chỉ đ-ợc sử dụng vào việc nhận định, phán đoán, xác định
ph-ơng h-ớng điều tra.
2.5. Khám xét
Khám xét là một biện pháp điều tra do những ng-ời có thẩm quyền tiến hành bằng cách lục soát,
tìm kiếm trong ng-ời, đồ vật, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, th- tín b-u kiện, b-u phẩm của một
ng-ời, nhằm phát hiện và thu giữ vật chứng, tài liệu có liên quan trực tiếp đến vụ án. Việc khám xét
chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm đ-ợc tiến hành khi cần phát hiện ng-ời đang bị truy nã.
- Biện pháp khám xét sẽ ảnh h-ởng tới quyền tự do cá nhân. Nếu không đủ căn cứ do pháp
luật quy định thì không đ-ợc quyền khám xét.
- Việc khám ng-ời, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm chỉ đ-ợc tiến hành khi có căn cứ để nhận định
trong ng-ời, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm của một ng-ời có công cụ, ph-ơng tiện phạm tội, đồ vật,
tài sản do phạm tội mà có, hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án. Việc khám chỗ ở, chỗ
làm việc, địa điểm cũng đ-ợc tiến hành khi cần phát hiện ng-ời đang bị truy nã.
- Khi khám xét, chỉ đ-ợc thu giữ những đồ vật, tài liệu có ý nghĩa cho hoạt động điều tra và mô tả
đúng thực trạng vào biên bản, đ-a vào hồ sơ vụ án.
Các biện pháp khám xét đ-ợc trình bày ở các điểm sau đây.
2.5.1. Khám ng-ời
Khám ng-ời là việc lục soát, tìm kiếm, nghiên cứu trong ng-ời, quần áo đang mặc và đồ vật,
ph-ơng tiện mang theo của họ nhằm phát hiện và thu giữ công cụ, ph-ơng tiện phạm tội, đồ vật,
tài sản do phạm tội mà có, những dấu vết, đồ vật, tài liệu có ý nghĩa đối với hoạt động điều tra.
2.5.2. Khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm
Khám xét chỗ ở, địa điểm là việc tìm kiếm các chứng cứ phạm tội tại chỗ ở, địa điểm nhất
định
2.5.3. Khám xét, thu giữ th- tín, điện tín, b-u kiện, b-u phẩm tại b-u điện
Các th- tín, điện tín, b-u kiện, b-u phẩm bị khám xét phải còn đang nằm trong sự quản lý của cơ
quan b-u điện ch-a giao cho ng-ời nhận, nếu đã giao cho ng-ời nhận mang theo ng-ời hoặc để tại
chỗ thì đ-ợc coi là đồ vật.
Trong thực tiễn, hoạt động điều tra có những tr-ờng hợp cần thiết phải tiến hành khám xét
nhiều đối t-ợng ở nhiều nơi cùng một lúc. Khi khám xét đòi hỏi phải tiến hành đồng thời, có sự
phối hợp thống nhất trong hành động của các lực l-ợng, đảm bảo không để cho đối t-ợng tẩu tán,
tiêu hủy tài liệu, vật chứng của vụ án.
Hoạt động khám xét còn bao gồm cả khám xét lại ng-ời, đồ vật, chỗ ở, địa điểm, th- tín, điện
tín, b-u kiện, b-u phẩm.
2.6. Khám nghiệm hiện tr-ờng, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể
2.6.1. Khám nghiệm hiện tr-ờng
Khám nghiệm hiện tr-ờng là biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự, do Điều tra viên trực tiếp
tiến hành nhằm nghiên cứu, ghi nhận, mô tả hiện tr-ờng; phát hiện, thu thập, đánh gi ácác dấu vết, vật
chứng, các tin tức, tài liệu liên quan tại hiện tr-ờng phục vụ cho điều tra, xử lý tội phạm, đồng thời
phát hiện những nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, phát hiện ph-ơng thức, thủ đoạn hoạt
động mới của tội phạm để phục vụ phòng ngừa tội phạm.
- Khám nghiệm hiện tr-ờng là một hoạt động điều tra phức tạp, đan xen nhiều yếu tố về tố
tụng, về nghiệp vụ điều tra, kỹ thuật hình sự, tổ chức lực l-ợng, thậm chí có thể liên quan đến
hoạt động điều tra khác đ-ợc tiến hành đồng thời nh- việc lấy lời khai.
- Những ng-ời trực tiếp thi hành cần chú ý rèn luyện t- duy tốt về nghiệp vụ điều tra, đầu t-
tốt trang bị kỹ thuật phục vụ cho công tác khám nghiệm hiện tr-ờng đảm bảo đ-ợc tính khoa học
và hiệu quả cao.
2.6.2. Khám nghiệm tử thi
Khám nghiệm tử thi là biện pháp điều tra của Điều tra viên có bác sĩ pháp y, kiểm sát viên
và có thể là giám định viên pháp y tham gia đối với tử thi nhằm phát hiện dấu vết tội phạm trên
thân thể ng-ời chết hoặc nguyên nhân cái chết.
- Khám nghiệm tử thi có ảnh h-ởng rất lớn đến phong tục, tập quán và tình cảm của những
ng-ời gần gũi, có mối quan hệ với tử thi, khi thực hiện biện pháp này cần chú ý tuân thủ nghiêm
chỉnh các quy định của pháp luật, đảm bảo việc giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, tìm ra sự
thật của vụ án.
- Trong nhiều tr-ờng hợp, khám nghiệm tử thi không đ-a ra đ-ợc kết luận cuối cùng thì phải
tiến hành thêm biện pháp giám định để có đ-ợc câu trả lời cho vụ án.
2.6.3. Xem xét dấu vết trên thân thể
Xem xét dấu vết trên thân thể là biện pháp điều tra nhằm phát hiện trên thân thể ng-ời bị bắt
bị tạm giữ, bị can, ng-ời bị hại, ng-ời làm chứng để phát hiện dấu vết của tội phạm hoặc các dấu
vết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
- Chỉ có những vụ án mà Điều tra viên thấy cần thiết phải tiến hành xem xét dấu vết trên thân
thể để khẳng định đ-ợc những chứng cứ, tài liệu khác đã đ-ợc thu thập.
2.7. Thực nghiệm điều tra
Thực nghiệm điều tra là một biện pháp điều tra do cơ quan điều tra tiến hành theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự mà bản chất của nó là sử dụng những kiến thức chuyên môn, kỹ thuật
cần thiết nhằm tiến hành các hoạt động thực nghiệm d-ới dạng: dựng lại, diễn lại, thử nghiệm những
hành vi, tình huống, tình tiết của một sự việc nhất định có ý nghĩa đối với vụ án nhằm xác định khả
năng diễn ra của chúng và kiểm tra, củng cố những chứng cứ đã có, thu thập chứng cứ mới, kiểm tra
đánh giá những giả thuyết điều tra, góp phần giải quyết đúng đắn vụ án hình sự và phòng ngừa tội
phạm
- Kết quả thực nghiệm điều tra là ph-ơng tiện để kiểm tra kết quả điều tra.
- Tác dụng chính của thực nghiệm điều tra là giải quyết những mâu thuẫn phát sinh từ những
tình tiết, tình huống nào đó có ý nghĩa cho hoạt động điều tra.
- Không phải là biện pháp cuối cùng để đi đến sự thật khách quan của vụ án. Trong khi thực
nghiệm điều tra, Điều tra viên sẽ phát hiện ra những mâu thuẫn trong những chứng cứ đã thu thập
đ-ợc. Sau khi tiến hành hoạt động thực nghiệm điều tra sẽ là cơ sở cho việc tiến hành các biện
pháp điều tra tiếp theo. Đến khi nào các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án đều đã đ-ợc kiểm
chứng và phù hợp với nhau thì mới có thể coi là hoạt động điều tra kết thúc, sự thật của vụ án
đ-ợc làm sáng tỏ.
2.8. Tr-ng cầu giám định
Tr-ng cầu giám định là việc cơ quan hoặc ng-ời tiến hành tố tụng đề nghị cơ quan có thẩm
quyền xem xét, kết luận một vấn đề về chuyên môn, kỹ thuật cần đ-ợc làm rõ trong vụ án hình sự
trong những tr-ờng hợp do pháp luật quy định hoặc khi cần thiết.
Những tr-ờng hợp bắt buộc phải tr-ng cầu giám định:
- Nguyên nhân chết ng-ời, tính chất th-ơng tích, mức độ tổn hại sức khỏe hoặc khả năng lao
động;
- Tình trạng tâm thần của bị can, bị cáo trong tr-ờng hợp có nghi ngờ về năng lực trách
nhiệm hình sự của họ;
- Tình trạng tâm thần của ng-ời làm chứng hoặc ng-ời bị hại trong tr-ờng hợp có nghi ngờ về
khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn đối với những tình tiết của vụ án;
- Tuổi của bị can, bị cáo, ng-ời bị hại, nếu việc đó có ý nghĩa đối với vụ án nếu không có tài
liệu khẳng định tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó;
- Chất độc, chất ma túy, chất phóng xạ, tiền giả.
Ngoài ra, xét thấy cần thiết thì cơ quan tiến hành tố tụng ra quyết định tr-ng cầu giám định.
Những tr-ờng hợp bắt buộc phải tr-ng cầu giám định là những tr-ờng hợp liên quan trực tiếp đến
việc xác định tội danh, cũng nh- khung hình phạt dành cho ng-ời phạm tội.
Trong quá trình giám định, giám định viên có thể phát hiện cho cơ quan điều tra những
nguyên nhân, điều kiện thực hiện việc phạm tội; những sơ hở, thiếu sót của ta và những thủ đoạn
hoạt động của kẻ phạm tội. Điều đó có ý nghĩa phòng ngừa tội phạm hoặc có tác dụng đấu tranh
đối với hoạt động phạm tội.
Pháp luật không quy định việc cá nhân tự mình tr-ng cầu giám định. Trong nhiều tr-ờng hợp
khi kết quả cá nhân tự tr-ng cầu giám định sẽ đ-ợc cơ quan điều tra xác minh và chấp nhận,
nh-ng có những cơ quan điều tra lại không chấp nhận việc tr-ng cầu giám định của cá nhân. Việc
tr-ng cầu giám định của ng-ời tham gia tố tụng cũng là một hoạt động để đ-a ra chứng cứ chứng
minh cho vụ án, vì vậy cần phải đ-ợc tôn trọng, cơ quan điều tra có thể sử dụng những kết quả
tr-ng cầu giám định của ng-ời tham gia tố tụng phục vụ cho quá trình chứng minh sự thật của vụ
án sau khi đã thẩm định lại tính hợp pháp và sự chính xác của kết quả đó.
2.8.1. Việc tiến hành giám định
Việc tiến hành giám định có thể tiến hành tại cơ quan giám định hoặc tại nơi tiến hành điều
tra vụ án ngay sau khi có quyết định tr-ng cầu giám định.
Thứ nhất: tiến hành tại cơ quan giám định bởi giám định t- pháp là công việc phức tạp, đòi
hỏi phải sử dụng kiến thức, ph-ơng tiện, ph-ơng pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên
ngành, phải đ-ợc tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ với thời gian cần thiết. Đồng thời, tại cơ
quan giám định sẽ đáp ứng đ-ợc yêu cầu bảo mật về nội dung vụ án.
Thứ hai: Tại hiện tr-ờng, việc tiến hành giám định đáp ứng đ-ợc yêu cầu kịp thời của hoạt
động điều tra và giải quyết vụ án.
2.8.2. Nội dung kết luận giám định
Kết luận giám định là lời khẳng định mang tính chuyên môn của ng-ời giám định về vấn đề
đ-ợc tr-ng cầu. Từ kết luận này, cơ quan điều tra và cụ thể là Điều tra viên sẽ đ-a ra đ-ợc h-ớng
điều tra tiếp theo hoặc kết luận về nội dung vụ án đang cần đ-ợc làm sáng tỏ. Kết luận giám định
hoàn toàn không đồng nghĩa với kết luận về nội dung vụ án.
2.8.3. Giám định bổ sung hoặc giám định lại
Giám định bổ sung đ-ợc tiến hành trong tr-ờng hợp nội dung kết luận giám định ch-a rõ,
ch-a đầy đủ hoặc khi phát sinh những vấn đề mới liên quan đến những tình tiết của vụ án đã đ-ợc
kết luận tr-ớc đó.
Giám định lại đ-ợc tiến hành trong khi có nghi ngờ về kết quả giám định hoặc có mâu thuẫn
trong các kết luận giám định về cùng một vấn đề cần giám định.
Ch-ơng 3
Giải pháp nâng cao hiệu quả
các biện pháp điều tra trong tố tụng hình sự
3.1. Dự báo tình hình tội phạm và những yêu cầu đối với công tác điều tra trong giai
đoạn mới
Trong quá trình đổi mới đất n-ớc, do tác động của mặt trái nền kinh tế thị tr-ờng, của xu thế
hội nhập kinh tế quốc tế, tình hình tội phạm ở n-ớc ta trong thời gian vừa qua và trong những
năm tới đang và sẽ diễn biến rất phức tạp; tội phạm ngày càng tinh vi, xảo quyệt về thủ đoạn,
ph-ơng thức và ngày càng nghiêm trọng về tính chất, mức độ nguy hiểm.
Yêu cầu hệ thống cơ quan t- pháp ở n-ớc ta, trong đó cơ quan điều tra phải đ-ợc củng cố,
kiện toàn, đổi mới toàn cả về quy mô và chất l-ợng, đáp ứng đ-ợc yêu cầu đấu tranh phòng,
chống tội phạm trong tình hình mới. Việc đổi mới mô hình tổ chức cơ quan điều tra cần đ-ợc đặt
trong tổng thể của tiến trình đổi mới hệ thống chính trị, bộ máy nhà n-ớc và cơ quan t- pháp;
phải kế thừa đ-ợc những -u điểm của mô hình tổ chức cơ quan điều tra trong quá trình hình
thành, phát triển từ năm 1945.
Các cơ quan điều tra cùng với các Điều tra viên là chủ thể tiến hành tố tụng trong hoạt động
điều tra vụ án. Việc bố trí, sắp xếp đội ngũ Điều tra viên, tổ chức phân công công việc hợp lý cho
từng ng-ời quyết định sự thành công hay thất bại trong công tác điều tra. Cán bộ điều tra cần
không ngừng học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt, tự rèn luyện các phẩm chất nhân cách để
ngày càng hoàn thiện mình.
Bên cạnh yêu cầu thu gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động trinh sát và hoạt động
điều tra, cần hoàn thiện mô hình tổ chức cơ quan điều tra theo nguyên tắc phải t-ơng xứng với chức
năng, nhiệm vụ đ-ợc giao để cơ quan điều tra trở thành công cụ đủ mạnh của Nhà n-ớc nhằm
ngăn chặn, đấu tranh có hiệu quả mọi hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã
hội..., không bỏ lọt tội phạm, không làm oan ng-ời vô tội, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà n-ớc, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới đất n-ớc, đáp ứng
đ-ợc yêu cầu kịp thời, nhanh nhạy trong việc điều tra, khám phá tội phạm.
3.2. Những giải pháp
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tố tụng hình sự, đặc biệt là pháp luật về điều tra
trong tố tụng hình sự
- Về thời hạn của việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm: Cần quy định thời hạn cho từng
giai đoạn giải quyết vụ án hợp lý hơn, vừa đảm bảo đ-ợc yêu cầu giải quyết vụ án nhanh chóng,
đồng thời, đảm bảo thời gian cho những vụ án có tính chất phức tạp.
- Nên bổ sung biện pháp ghi âm, ghi hình khi lập biên bản hoạt động tố tụng tại Điều 95,
Điều 125 BLTTHS.
- Cần bổ sung vào Điều 139 BLTTHS về đối t-ợng là băng ghi âm, ghi hình để nhận dạng, phù
hợp với sự phát triển của khoa học, công nghệ hiện nay.
- Để đảm bảo tính khách quan và quyền lợi của bị can, bị cáo thì BLTTHS cần có quy định
khi cơ quan điều tra mở niêm phong và kiểm tra các thông tin đ-ợc l-u giữ trong các máy tính, ổ
cứng, đĩa mềm, đĩa CD, ổ USD phải có mặt Kiểm sát viên, chủ sở hữu hoặc ng-ời quản lý máy
tính, các ổ đĩa máy tính đó.
- Cần quy định về việc cho phép ng-ời tham gia tố tụng tự mình yêu cầu giám định (tự chi
phí). Cần tránh những quan niệm sai lầm cho rằng BLTTHS chỉ quy định cơ quan điều tra mới có
thẩm quyền tr-ng cầu giám định, cho nên chỉ có những kết luận giám định do cơ quan tiến hành
tố tụng tr-ng cầu mới có giá trị chứng minh.
- Cần có những quy định thích hợp để chuyển hóa tài liệu trinh sát thành chứng cứ gián tiếp bằng
cách sử dụng tài liệu đó nh- là một ph-ơng pháp tác động tâm lý trong việc hỏi cung bị can, lấy lời
khai của ng-ời tham gia tố tụng, thực nghiệm điều tra, xây dựng và khám nghiệm hiện tr-ờng
v.v
3.2.2. Các giải pháp nâng cao chất l-ợng công tác điều tra
Nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất Điều tra viên
- Xây dựng cho cán bộ điều tra t- cách đạo đức trong sáng, mẫu mực, biết đặt lợi ích của Nhà
n-ớc, của tập thể, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, có ý thức cao về nhiệm vụ, hoàn thành
tốt mọi nhiệm vụ đ-ợc giao; tạo mối quan hệ tốt với quần chúng nhân dân.
- Cần -u tiên lựa chọn và bố trí vào các cơ quan điều tra những cán bộ có khả năng hoạt động
điều tra nh-: hiểu biết rộng; có khả năng quan sát tốt, nhạy bén và nhanh chóng phát hiện đ-ợc
vấn đề, có khả năng diễn đạt lập luận lôgíc, chặt chẽ, có tác phong chững chạc, có khả năng kiềm
chế bản thân và có độ ổn định cảm xúc, ý chí cao.
Hoàn thiện tổ chức, biên chế các cơ quan điều tra.
- Xây dựng tổ chức biên chế cho phù hợp với đặc điểm và yêu cầu của từng địa ph-ơng.
- Xây dựng nguồn nhân lực dự trữ dồi dào để có thể sẵn sàng đáp ứng đ-ợc yêu cầu trong bất
kỳ tình huống nào.
+ Nguồn đ-ợc tuyển chọn từ các tr-ờng đào tạo nghiệp vụ;
+ Đội ngũ chiến sĩ nghĩa vụ có nguyện vọng ở lại phục vụ lâu dài trong lực l-ợng vũ trang.
Những đối t-ợng này đều phải đ-ợc thẩm tra t- cách lý lịch rõ ràng, phẩm chất đạo đức trong
sáng.
Giáo dục, đào tạo gắn chặt với sử dụng Điều tra viên theo quy trình chặt chẽ, định h-ớng
thống nhất cho cả nhà tr-ờng và cơ quan chuyên môn
- Từ khâu tuyển chọn đầu vào của cán bộ làm công tác điều tra bằng việc kiểm tra sức khỏe, xác
minh lý lịch, kiểm tra những kiến thức cần thiết cũng nh- t- cách đạo đức tr-ớc khi tiến hành đào
tạo chuyên môn nghiệp vụ.
- Th-ờng xuyên sàng lọc sao cho lựa chọn đ-ợc những cán bộ vững về chính trị, mẫu mực về
đạo đức và giỏi về chuyên môn để có thể hoàn thành nhiệm vụ đ-ợc giao trong điều kiện tốt nhất.
- Coi trọng việc tập huấn bồi d-ỡng cho Điều tra viên
Đổ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- v_l0_01755_8658_2009973.pdf