Kiến thức về ngoại ngữ, tin học của đội ngũ thanh tra viên còn
khá thấp. Tỷ lệ thanh tra viên có trình độ đại học ngoại ngữ và tin học
chiếm tỷ lệ rất thấp (đại học ngoại ngữ chiếm 2,5%, đại học tin học
chiếm 0,6%), cho thấy nhiều thanh tra viên tỉnh Quảng Nam có trình
độ ngoại ngữ, tin học là chưa cao so với yêu cầu hiện nay.
- Ngành Thanh tra tỉnh Quảng Nam chưa có lực lượng thanh tra
viên ổn định và chuyên nghiệp. Trình độ và năng lực của thanh tra
viên chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, còn bất cập về nhiều mặt
như tri thức và năng lực thực thi nhiệm vụ cũng như khả năng vận
dụng khoa học công nghệ hiện đại trong công tác còn rất hạn chế. Số
thanh tra viên đào tạo mới có đủ trình độ chuyên môn nhưng lại thiếu
kinh nghiệm và ứng xử trong lĩnh vực thanh tra. Chất lượng thanh tra
viên về trình độ chuyên môn, tin học, ngoại ngữ giữa các sở, ban,
ngành và giữa các địa phương (cấp huyện) với nhau cũng như giữa
cấp tỉnh với cấp huyện chưa thật sự đồng đều, trình độ năng lực thực
tế chưa tương xứng với văn bằng
27 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 18/03/2022 | Lượt xem: 380 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Chất lượng thanh tra viên ở tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ông chức làm công tác tiếp
công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh và có
trang phục riêng.
1.2. Khái niệm và tiêu chí đánh giá chất lượng thanh tra viên
1.2.1. Khái niệm chất lượng thanh tra viên
Chất lượng thanh tra viên là tổng hợp các yếu tố về phẩm chất
chính trị, đạo đức lối sống, trình độ, năng lực, kinh nghiệm, kỹ năng
phối hợp công tác, mức độ và khả năng hoàn thành chức trách nhiệm
vụ được giao của mỗi thanh tra viên. Chất lượng thanh tra viên là
thành tố chủ yếu tạo nên chất lượng đội ngũ thanh tra viên.
1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng thanh tra viên
Để đưa ra các tiêu chí đánh giá chất lượng thanh tra viên là một
việc làm khó, nhạy cảm vì nó ảnh hưởng đến tất cả các khâu theo sau
trong công tác cán bộ. Đánh giá đúng nó có tính quyết định trong
việc phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, giúp phát huy
những ưu điểm, khắc phục nhược điểm nâng cao năng lực và hiệu
quả công tác cán bộ. Nếu đánh giá không đúng tất yếu việc sử dụng
không chuẩn làm hạn chế năng lực, mất niềm tin của cán bộ và nhân
dân; ảnh hưởng không tốt đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của
cơ quan, đơn vị.
Để việc đánh giá được thực hiện có hiệu quả cần dựa trên những
tiêu chí cụ thể phản ánh chất lượng thanh tra viên. Có rất nhiều tiêu
chí, yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng thanh tra viên, trong phạm vi đề
tài này, tác giả xin đề cập đến một số tiêu chí cơ bản sau:
1.2.2.1. Phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống
1.2.2.2. Năng lực
1.2.2.3. Trình độ và kinh nghiệm (thâm niên) công tác, kỹ năng
phối hợp trong công tác
1.2.2.4. Mức độ và khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thanh tra viên và
yêu cầu đối với nâng cao chất lượng thanh tra viên
1.3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thanh tra viên
1.3.1.1. Các quy định và thực hiện các quy định của pháp luật về
tiêu chuẩn thanh tra viên, các quy định về quy tắc ứng xử, đạo đức
nghề nghiệp của cán bộ, công chức thanh tra.
1.3.1.2. Yếu tố về yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng
cơ quan thanh tra
1.3.1.3. Yếu tố về tổ chức, điều hành, quản lý của các cơ quan
thanh tra
1.3.1.4. Yếu tố về điều kiện hoạt động, chăm lo đời sống vật chất
và tinh thần cho thanh tra viên
1.3.1.5. Yếu tố tự rèn luyện, phấn đấu của mỗi thanh tra viên
1.3.2. Yêu cầu đối với nâng cao chất lượng thanh tra viên
Một là, nâng cao chất lượng thanh tra viên phải đáp ứng yêu cầu
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ngành thanh tra chuyên nghiệp,
trách nhiệm, kỷ cương, liêm chính;
Hai là, nâng cao chất lượng thanh tra viên phải đáp ứng yêu cầu
nâng cao chất lượng hiệu quả công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại,
tố cáo, tiếp công dân, phòng chống tham nhũng của từng cơ quan
thanh tra;
Ba là, nâng cao chất lượng thanh tra viên phải đi đôi với đảm
bảo số lượng, cơ cấu hợp lý, phù hợp với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ
và đặc điểm tình hình, điều kiện của từng cơ quan thanh tra theo cấp,
ngành, lĩnh vực
Bốn là, nâng cao chất lượng thanh tra viên phải được đặt trong
tổng thể nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, viên chức nói chung
trong từng địa phương, từng ngành, từng đơn vị theo mục tiêu, nhiệm
vụ cải cách hành chính do Đảng và Nhà nước đề ra.
Tiểu kết chương 1
Trong chương này, tác giả tập trung vào việc nghiên cứu, tìm
hiểu một số vấn đề lý luận cơ bản nhất về chất lượng thanh tra viên
kết hợp với việc nghiên cứu các văn bản pháp luật của Việt Nam có
liên quan đến lĩnh vực thanh tra và kiến thức, kinh nghiệm công tác
của chính bản thân để trên cơ sở đó hệ thống hóa các lý thuyết vừa
nêu trên và đưa ra các tiêu chí đánh giá chất lượng thanh tra viên.
Hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra phụ thuộc rất nhiều vào chất
lượng thanh tra viên. Tác giả cũng đã trình bày các yếu tố ảnh hưởng
đến chất lượng thanh tra viên và yêu cầu đối với nâng cao chất lượng
thanh tra viên để cùng với các tiêu chí đánh giá chất lượng thanh tra
viên làm cơ sở cho việc phân tích thực trạng và đề xuất các giải pháp
chủ yếu để nâng cao chất lượng thanh tra viên ở tỉnh Quảng Nam
trong các chương tiếp theo.
Chương 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG THANH TRA VIÊN
Ở TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Khái quát chung về tỉnh Quảng Nam, về các cơ quan
thanh tra và thanh tra viên ở tỉnh Quảng Nam
2.1.1. Khái quát chung về tỉnh Quảng Nam
Năm 1997, tỉnh Quảng Nam chính thức tách ra từ tỉnh Quảng
Nam - Đà Nẵng. Là một tỉnh ven biển thuộc vùng phát triển kinh tế
trọng điểm của miền Trung, phía Bắc giáp thành phố Đà Nẵng, phía
Đông giáp biển Đông với trên 125 km bờ biển, phía Tây giáp tỉnh
Kon Tum và nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào, phía Nam giáp
tỉnh Quảng Ngãi. Quảng Nam có 16 huyện và 2 thành phố, trong đó
có 9 huyện miền núi và 9 thành phố, huyện, thị xã, đồng bằng.
Trong năm 2016, mặc dù vẫn còn một số khó khăn, hạn chế
nhưng tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Nam tiếp tục có những
chuyển biến tích cực, kết quả đạt được khá toàn diện trên hầu hết các
lĩnh vực. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá; cơ cấu kinh tế, lao động
chuyển dịch theo hướng tích cực; sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp ổn định và phát triển, thu nội địa tăng cao; đời sống của nhân
dân ngày càng được cải thiện, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
được giữ vững, tai nạn giao thông giảm cả ba tiêu chí.
Với đặc điểm về điều kiện địa lý, tự nhiên, tình hình kinh tế - xã
hội của Quảng Nam vừa là tiềm năng vừa là thách thức đối với chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trong việc thực hiện
các mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế, văn hóa - xã hội có bước
phát triển và quốc phòng - an ninh được đảm bảo.
2.1.2. Khái quát thực trạng về tổ chức và hoạt động các cơ
quan thanh tra ở tỉnh Quảng Nam
Ngay sau khi tỉnh Quảng Nam được tái lập, Thanh tra tỉnh
Quảng Nam được Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định thành lập và đi
vào hoạt động từ ngày 02/01/1997. Hiện nay, hệ thống cơ quan thanh
tra nhà nước ở tỉnh Quảng Nam gồm Thanh tra tỉnh, 18 đơn vị thanh
tra cấp huyện và 17 đơn vị thanh tra cấp sở, ban, ngành (không tính
thanh tra Công an tỉnh, thanh tra Bộ chỉ huy quân sự tỉnh).
Với hệ thống các cơ quan thanh tra nêu trên, công tác thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng của toàn ngành
Thanh tra tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2011 - 2016 đã đạt được nhiều
kết quả khá quan trọng. Cụ thể như sau:
- Công tác thanh tra:
+ Thanh tra hành chính: toàn ngành đã triển khai được 821 cuộc
thanh tra trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, vượt kế hoạch đề ra.
+ Thanh tra chuyên ngành:
Giai đoạn từ năm 2011 - 2016, toàn ngành thanh tra đã tổ chức
thực hiện 13.983 cuộc thanh tra, kiểm tra tại 50.708 cá nhân, tổ chức.
Qua công tác thanh tra, kiểm tra chuyên ngành đã phát hiện và xử lý
nhiều tổ chức, cá nhân vi phạm.
- Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo: Giai đoạn từ
năm 2011-2016, toàn ngành thanh tra đã giải quyết 3.646/3970 vụ
khiếu nại, đạt tỷ lệ 91,8% và 264/313 vụ tố cáo, đạt tỷ lệ 84,3%. Kết
quả giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo cho thấy có vụ việc khiếu
nại, tố cáo đúng; có vụ việc khiếu nại, tố cáo sai; có vụ việc khiếu
nại, tố cáo có đúng có sai.
- Công tác phòng, chống tham nhũng: Toàn ngành đã phối hợp
với các cơ quan chức năng tiến hành thanh tra kinh tế - xã hội, giải
quyết khiếu nại, tố cáo gắn với công tác phòng, chống tham nhũng.
Qua kết quả thanh tra đã phát hiện 04 vụ/09 người có dấu hiệu tham
nhũng với số tiền 570,875 triệu đồng, đã thu hồi nộp ngân sách nhà
nước 355,98 triệu đồng, xử lý trách nhiệm của người đứng đầu để xảy
ra tham nhũng 01 vụ và chuyển cơ quan điều tra xử lý hình sự 01 vụ.
Bên cạnh những kết quả như vừa nêu trên, công tác thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng của tỉnh
Quảng Nam giai đoạn 2011 - 2016 vẫn còn những hạn chế, tồn tại
nhất định như:
Có địa phương chậm triển khai thực hiện kế hoạch thanh tra,
một số cuộc thanh tra còn kéo dài thời gian thực hiện, chưa đảm bảo
tiến độ; chưa thực hiện việc thẩm định báo cáo kết luận thanh tra và
thực hiện các cuộc thanh tra lại.
Hiệu quả phát hiện, xử lý tham nhũng qua công tác thanh tra
chưa cao, phát hiện nhiều sai phạm, nhưng phát hiện tham nhũng còn
ít.
Một số đơn vị, địa phương chưa chú trọng đúng mức đến công
tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
2.1.3. Khái quát thực trạng thanh tra viên ở tỉnh Quảng Nam
(số liệu tính đến tháng 12 năm 2016)
2.1.3.1. Số lượng, cơ cấu thanh tra viên trong từng cơ quan
thanh tra của toàn ngành Thanh tra tỉnh Quảng Nam (bảng 2.1).
2.1.3.2. Cơ cấu thanh tra viên toàn ngành Thanh tra tỉnh Quảng
Nam
Tính đến năm 2016, tổng số cán bộ, công chức toàn ngành thanh
tra tỉnh Quảng Nam là 259 người, thanh tra viên chiếm 159 người,
đạt tỷ lệ 61,4%. Cơ cấu thanh tra viên toàn ngành Thanh tra tỉnh
Quảng Nam được thể hiện cụ thể ở biểu đồ 2.2 và 2.3.
2.1.3.3. Đặc điểm thanh tra viên tỉnh Quảng Nam
Ngoài năm đặc điểm chung đã nêu ở mục 1.1.3, Thanh tra viên
tỉnh Quảng Nam còn có những đặc điểm riêng như sau:
- Thứ nhất, lực lượng thanh tra viên tỉnh Quảng Nam được hình
thành từ nhiều nguồn như bộ đội chuyển ngành sau giải phóng, cán bộ
địa phương và tuyển dụng mới,những năm gần đây, trải qua thử
thách và rèn luyện, lực lượng thanh tra viên đã từng bước trưởng thành
và phát triển cả về số lượng và chất lượng, có sự kế thừa ba độ tuổi.
- Thứ hai, lực lượng thanh tra viên ở tỉnh Quảng Nam hầu hết
xuất thân từ quê hương tỉnh Quảng Nam, giàu truyền thống cách mạng,
được thừa hưởng truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất, dũng
cảm trong đấu tranh giải phóng và xây dựng đất nước, hun đúc tinh
thần và ý chí phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Thứ ba, xuất thân từ quê hướng Quảng Nam, một tỉnh miền
Trung còn nghèo, thường phải chịu nhiều thiên tai lũ lụt nặng nề nên
thanh tra viên ở tỉnh Quảng Nam có tinh thần chịu đựng gian khổ,
biết kiên trì vượt qua mọi khó khăn, luôn giữ vững miền tin, đạo đức
nghề nghiệp trong sáng, được nhân dân tin yêu.
2.2. Chất lượng thanh tra viên ở tỉnh Quảng Nam - Ưu điểm,
hạn chế và nguyên nhân:
2.2.1. Ưu điểm và nguyên nhân
2.2.1.1. Ưu điểm
Thứ nhất, về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống:
Trong giai đoạn từ năm 2011 - 2016, lực lượng thanh tra viên
tỉnh Quảng Nam luôn ứng xử theo những tiêu chuẩn, nguyên tắc,
chuẩn mực đạo đức của nghề thanh tra, không vi phạm các điều đảng
viên, cán bộ, công chức nói chung và những điều thanh tra viên
không được làm nói riêng. Kết quả kiểm điểm theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XI) cho thấy không có thanh tra viên suy
thoái về tư tưởng chính tri, đạo đức, lối sống; không có tình trạng
mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ ở các cơ quan thanh tra.
Thứ hai, về năng lực:
Năng lực của thanh tra viên ở tỉnh Quảng Nam được thể hiện rõ
nét ở kết quả công tác của toàn ngành Thanh tra trên tất cả các mặt
công tác như quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng và tiến hành thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo, phòng chống tham nhũng của giai đoạn 2011-
2016.
Thứ ba, về trình độ đào tạo và kinh nghiệm công tác, kỹ năng
phối hợp trong công tác:
- Về trình độ đào tạo: Trong năm 2016, số thanh tra viên có trình
độ trên đại học là 17 trên tổng số 159 thanh tra viên chiếm 11,3% và
chiếm 6,5% so với 259 cán bộ, công chức ngành thanh tra. Điều này
được thể hiện ở biểu đồ 2.3.
- Trình độ lý luận chính trị:
Năm 2016, toàn Ngành có tổng cộng 159 thanh tra viên. Trong
đó có 70 thanh tra viên có trình độ cử nhân, cao cấp chiếm tỷ lệ 44%;
có 54 thanh tra viên có trình độ trung cấp, chiếm tỷ lệ 34%. Điều này
được thể hiện ở biểu số 2.4.
Theo số liệu trên và đối chiếu với tiêu chuẩn của thanh tra viên
theo Nghị định 97/2011/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2011 quy
định về thanh tra viên và cộng tác viên thanh tra cho thấy tỉnh Quảng
Nam đã quan tâm lớn đến việc đào tạo trình độ lý luận chính trị cho
lực lượng thanh tra viên đáp ứng yêu cầu của công việc và trước yêu
cầu của tình hình mới.
- Trình độ ngoại ngữ, tin học:
Năm 2016, ngành Thanh tra tỉnh Quảng Nam có 04 thanh tra
viên có bằng đại học ngoại ngữ, chiếm 2,5 % tổng số thanh tra viên
trên địa bàn; 155 thanh tra viên có chứng chỉ ngoại ngữ (hoặc chứng
chỉ tiếng dân tộc nếu công tác ở vùng có người dân tộc thiểu số),
chiếm 97,5% tổng số thanh tra viên trên địa bàn; 1 thanh tra viên có
bằng đại học tin học, chiếm 0,6 % tổng số thanh tra viên trên địa bàn;
158 thanh tra viên có chứng chỉ tin học, chiếm 99,4% tổng số thanh
tra viên trên địa bàn. Cụ thể được thể hiện ở biểu đồ 2.5.
Theo số liệu trên, tất cả thanh tra viên có trình độ ngoại ngữ, tin
học đáp ứng được theo tiêu chuẩn quy định hiện tại của ngạch thanh
tra. Với trình độ ngoại ngữ, tin học như vậy thì bước đầu đáp ứng
được yêu cầu của công việc.
- Kinh nghiệm công tác (được đo bằng thâm niên công tác):
Năm 2016, toàn ngành Thanh tra có 159 thanh tra viên, trong đó
có 31 thanh tra viên với thâm niên công tác dưới 5 năm chiếm 19,5%,
có 70 thanh tra viên với thâm niên từ 5 năm đến 10 năm, chiếm 44%;
có 40 thanh tra viên với thâm niên công tác từ 11 năm đến 20 năm,
chiếm 25,2%, có 18 thanh tra viên với thâm niên công tác trên 20
năm, chiếm 11,3% (xem biểu đồ 2.6). Qua phân tích số liệu cho thấy
tỷ lệ thâm niên công tác của thanh tra viên như vậy là tương đối hợp
lý, với cơ cấu này thanh tra viên tỉnh Quảng Nam đáp ứng được yêu
cầu đặt ra của công việc. Nhóm thanh tra viên có thâm niên công tác
dưới 5 năm lớn hơn nhóm thanh tra viên thâm niên công tác trên 20
được xem là hợp lý, đảm bảo đủ để thay thế cho nhóm thanh tra viên
có thâm niên công tác trên 20 năm đến tuổi nghỉ hưu kể cả khi nhóm
thanh tra viên có thâm niên công tác dưới 5 năm được thuyên
chuyển, điều động sang vị trí công tác khác thì vẫn không sợ bị thiếu
hụt lực lượng kế cận để thực thi nhiệm vụ.
- Kỹ năng phối hợp trong công tác:
Trong giai đoạn từ năm 2011 - 2016, kết quả công tác thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng cũng như
quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và phòng chống tham nhũng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đạt được
những kết quả quan trọng như đã nêu ở mục 2.1.2, được các cấp, các
ngành đánh giá cao và nhân dân đồng tình ủng hộ. Để đạt được
những kết quả như vậy, có rất nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên
nhân xuất phát từ kỹ năng phối hợp trong công tác của lực lượng
thanh tra viên. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, lực lượng thanh tra
viên ở tỉnh Quảng Nam đã phát huy tính chủ động sáng tạo, linh hoạt
trước những tình huống phát sinh; phối hợp tốt trong tổ chức công
việc, trong từng hoạt động tác nghiệp và làm việc theo nhóm, đoàn
thanh tra.
* Cơ cấu giới tính thanh tra viên ngành thanh tra tỉnh Quảng
Nam tính đến năm 2016:
Mặc dù trong các tiêu chuẩn đặt ra cho thanh tra viên cũng như
trong các văn bản pháp luật chưa có đề cập đến nội dung về cơ cấu
giới tính nhưng thực tế đặc thù của yêu cầu công tác thanh tra thì cơ
cấu giới cũng là một nội quan trọng, có sự ảnh hưởng nhất định đến
hiệu quả công việc.
Nhìn vào Biểu đồ 2.7 và Phụ lục 4 ta thấy, tổng số thanh tra viên
nữ là 46/159 người, chiếm 28,9% tổng số thanh tra viên. Tỷ lệ thanh
tra viên nữ so với nam chiếm 40,7%. Như vậy, tỷ lệ cơ cấu giới tính
tương đối hợp lý vì do đặc thù của ngành Thanh tra thường xuyên đi
công tác trên địa bàn rộng, đường đi xa, khó khăn nhất là đối với một
số huyện miền núi cao như Nam Trà My, Phước Sơn, Nam Giang,
Đông Giang, Tây Giang; có đoàn làm việc tại cơ sở phải ở lại nhiều
ngày nên thanh tra viên nữ đi làm xa có phần hạn chế so với nam.
* Cơ cấu độ tuổi thanh tra viên ngành thanh tra tỉnh Quảng Nam
tính đến năm 2016:
Cũng giống như cơ cấu giới tính, cơ cấu độ tuổi thanh tra viên
chưa được đề cập đến trong các quy định pháp luật của ngành thanh
tra. Tuy nhiên, đây là một trong những tiêu chí cần phải được xem
xét vì nó liên quan rất nhiều đến đặc thù công việc của ngành thanh
tra nói chung và của chất lượng thanh tra viên nói riêng.
Nhìn vào Biểu đồ 2.8 ta thấy tỷ lệ về cơ cấu độ tuổi của thanh
tra viên như vậy là hợp lý. Thanh tra viên có độ tuổi dưới 30 chiếm tỷ
lệ 9,4% là điều hiển nhiên vì cán bộ, công chức thanh tra từ khi tuyển
dụng vào thì phải trải qua một thời gian công tác khoảng từ 3 - 5 năm
mới được tạo điều kiện đi học nghiệp vụ về thanh tra viên và nghiệp
vụ quản lý nhà nước chương trình chuyên viên, theo đó Nghị định
97/2011/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2011 quy định về thanh tra
viên và cộng tác viên thanh tra cũng có quy định cụ thể về điều kiện
thời gian công tác để được xem xét, bổ nhiệm vào ngạch thanh tra
viên. Tỷ lệ về cơ cấu thanh tra viên có độ tuổi từ 30 - 50 tuổi và độ
tuổi từ 51 - 60 được xem như là “cơ cấu vàng” của ngành thanh tra,
bởi vì đây là hai độ tuổi mà thanh tra viên vừa đảm bảo trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, có kỹ năng tốt, vừa có bề dạy kinh nghiệm
trong công tác. Thanh tra viên có độ tuổi từ 30-50, chiếm tỷ lệ
(62,9%) cao hơn nhiều so với thanh tra viên có độ tuổi từ 51-60 tuổi
(27,7%) cũng là một ưu thế lớn, không sợ tình trạng thiếu hụt lực
lượng thanh tra viên có chất lượng khi thanh tra viên có tuổi cao 51-
60 tuổi về nghỉ hưu.
Thứ tư, mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao:
Qua số liệu nhìn từ Biểu đồ 2.9 cho ta thấy, từ năm 2011 - 2015
tất cả thanh tra viên được đánh giá ở mức hoàn thành xuất sắc và
hoàn thành tốt nhiệm vụ. Riêng năm 2016, có một trường hợp bị
đánh giá ở mức hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực
và số lượng thanh tra viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ có giảm hơn
so với năm 2014 và năm 2015 mặc dù tổng số thanh tra viên có tăng,
lý do là trong năm 2016 tỉnh Quảng Nam đã ban hành mới quy định
về công tác xét duyệt và công nhận sáng kiến. Vì vậy, trong năm
2016 công tác xét duyệt sáng kiến của các cơ quan trên địa bàn tỉnh
được tiến hành chặt chẽ và thực chất hơn nên số lượng sáng kiến của
thanh tra viên năm 2016 ít hơn năm 2014 và năm 2015 và kết quả là
số lượng thanh tra viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cũng giảm
tương ứng với số lượng sáng kiến của thanh tra viên. Nhìn chung, số
lượng thanh tra viên được đánh giá ở mức độ hoàn thành xuất sắc và
hoàn thành tốt nhiệm vụ có tăng nhẹ theo sự gia tăng của tổng số
thanh tra viên. Số lượng thanh tra viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
luôn cao hơn so với nhiều so với số lượng thanh tra viên hoàn thành
tốt nhiệm vụ.
2.2.1.2. Nguyên nhân ưu điểm
- Đức tính đặc trưng của người Quảng Nam; đa dạng hóa các
phương thức học tập và hình thức đào tạo.
- Sự quan tâm của các cấp ủy, chính quyền, thủ trưởng các cơ
quan thanh tra.
- Thanh tra Chính phủ và Trường Cán bộ Thanh tra trong thời
gian qua đã rất quan tâm, tạo điều kiện về đào tạo, bồi dưỡng cho đội
ngũ cán bộ, công chức ngành Thanh tra của tỉnh.
- Vai trò, uy tín, sự ảnh hưởng, sự quan tâm toàn diện về các mặt
của lãnh đạo Thanh tra tỉnh và thủ trưởng các cơ quan thanh tra đối
với thanh tra viên.
- Sự phát huy truyền thống cách mạng và ý thức vươn lên, chịu
khó học tập, tu dưỡng, rèn luyện của thanh tra viên .
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.2.2.1. Hạn chế:
- Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước đang có những
diễn biến phức tạp, mặt trái của cơ chế thị trường tác động đã phần
nào ảnh hưởng đến một số thanh tra viên, đã có giảm sút ý chí phấn
đấu, tinh thần trách nhiệm trong công tác chưa cao, có thái độ và
hành vi lười học tập, nghiên cứu dẫn đến hiệu quả công tác thấp chưa
đáp ứng yêu cầu công việc.
- Tính đến năm 2016, trong tổng số 259 cán bộ, công chức thanh
tra nói chung và 159 thanh tra viên nói riêng thì trong đó chỉ có 17
thanh tra viên có trình độ đào tạo chuyên môn sau đại học. Con số
này còn quá khiêm tốn so với yêu cầu ngày càng cao của công việc,
công tác thanh tra đòi hỏi phải hiểu biết sâu về nhiều lĩnh vực nhưng
số cán bộ giỏi và chuyên gia còn thiếu.
- Kiến thức về ngoại ngữ, tin học của đội ngũ thanh tra viên còn
khá thấp. Tỷ lệ thanh tra viên có trình độ đại học ngoại ngữ và tin học
chiếm tỷ lệ rất thấp (đại học ngoại ngữ chiếm 2,5%, đại học tin học
chiếm 0,6%), cho thấy nhiều thanh tra viên tỉnh Quảng Nam có trình
độ ngoại ngữ, tin học là chưa cao so với yêu cầu hiện nay.
- Ngành Thanh tra tỉnh Quảng Nam chưa có lực lượng thanh tra
viên ổn định và chuyên nghiệp. Trình độ và năng lực của thanh tra
viên chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, còn bất cập về nhiều mặt
như tri thức và năng lực thực thi nhiệm vụ cũng như khả năng vận
dụng khoa học công nghệ hiện đại trong công tác còn rất hạn chế. Số
thanh tra viên đào tạo mới có đủ trình độ chuyên môn nhưng lại thiếu
kinh nghiệm và ứng xử trong lĩnh vực thanh tra. Chất lượng thanh tra
viên về trình độ chuyên môn, tin học, ngoại ngữ giữa các sở, ban,
ngành và giữa các địa phương (cấp huyện) với nhau cũng như giữa
cấp tỉnh với cấp huyện chưa thật sự đồng đều, trình độ năng lực thực
tế chưa tương xứng với văn bằng.
- Tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của một bộ phận
thanh tra viên còn yếu, phong cách làm việc chậm đổi mới, tinh thần
phục vụ nhân dân chưa cao; số lượng chưa đáp ứng được yêu cầu
trước mắt và lâu dài; nguy cơ hẫng hụt giữa các thế hệ thanh tra viên
vẫn tiềm ẩn nếu như các cơ quan thanh tra không có lực lượng thanh
tra viên ổn định do việc điều động, luân chuyển thanh tra viên sang
lĩnh vực công tác khác. Một thực tế nữa cho thấy rằng vẫn còn tình
trạng thiếu lực lượng thanh tra viên có kinh nghiệm và trình độ
chuyên môn cao đặc biệt là thanh tra ở các huyện miền núi.
- Trong thực tế, ngành Thanh tra có nhu cầu về nhân lực nhưng
khó tuyển dụng nhất là ở tuyến huyện miền núi, vì thế nên việc sử
dụng cán bộ, công chức trái ngành nghề vẫn còn xảy ra, chưa phát
huy hết năng lực chuyên môn của cán bộ, công chức và ít nhiều còn
gặp khó khăn khi thực thi nhiệm vụ.
- Hiện nay, đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nói chung và
thanh tra viên nói riêng đang đứng trước những khó khăn rất lớn về
kỹ năng phối hợp trong công tác. Ở tỉnh Quảng Nam còn có hiện
tượng chậm chễ hoặc không giải quyết thoả đáng về các vấn đề bức
xúc của người dân hoặc các tổ chức, đơn vị mà việc quy trách nhiệm
để xử lý thuộc về ai lại rất khó xác định. Kỹ năng phối hợp trong
công tác vẫn còn một số hạn chế nhất định. Quá trình ra quyết định
hành chính trong các cơ quan quản lý nhà nước còn mất nhiều thời
gian, nhiều văn bản pháp quy còn chồng chéo, trùng lặp nên khó
khăn trong thực hiện nhiệm vụ; nghiệp vụ kỹ thuật hành chính còn
yếu, một bộ phận thanh tra viên không hiểu rõ vị trí, vai trò, nhiệm
vụ và các mối quan hệ phải thực hiện trong công việc cũng như
không nắm chắc các quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của chính cơ quan mình và thẩm quyền của chính thanh
tra viên nhất là đối với lực lượng thanh tra viên chuyên ngành.
Có thể nhận định rằng, chất lượng thanh tra viên ở tỉnh Quảng
Nam hiện nay xét cả về chất lượng, số lượng, cơ cấu còn một số mặt
chưa ngang tầm với đòi hỏi của công tác quản lý nhà nước thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng, phát triển kinh tế
- xã hội của tỉnh.
2.2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế:
- Do tác động mặt trái của cơ chế thị trường và sự phá hoại của
các thế lực thù địch với cách mạng Việt Nam.
- Công tác tuyển dụng chưa khoa học, bài bản và hiệu quả mang
lại chưa cao mà trong đó có nguyên nhân là do các văn bản về công
tác tuyển dụng cán bộ, công chức của ngành Thanh tra còn thiếu đã
tạo nên những bất cập cơ bản, thiếu sự thống nhất và đồng bộ trong
toàn Ngành. Do phụ thuộc vào chỉ tiêu biên chế được cấp trên giao,
nên việc tuyển dụng của Ngành hầu hết áp dụng các hình thức tuyển
dụng theo quy định chung, vẫn còn hiện tượng “giải quyết” mối quan
hệ quen biết giới thiệu nên việc tuyển dụng cán bộ, công chức mặc
dù có công khai nhưng thực chất việc làm này còn mang tính hình
thức, chưa thu hút được người có trình độ cao vào Ngành. Vì vậy,
thực chất vẫn còn một số ít thanh tra viên chưa phát huy được năng
lực, chưa đáp ứng yêu cầu của công việc được giao,
- Vẫn còn tình trạng, một số cơ quan, đơn vị làm công tác tuyển
dụng cán bộ, công chức thanh tra không theo quy trình chặt chẽ,
khách quan dẫn tới chất lượng được tuyển dụng không đáp ứng yêu
cầu công tác.
- Chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ cho thanh tra viên
không khuyến khích và thu hút được người vào làm, nhất là những
chuyên ngành đang cần như: kỹ sư xây dựng, tài chính tín dụng, thị
trường chứng khoán, đầu tư nước ngoài,
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng còn chậm được đổi mới, nặng về
lý thuyết, đào tạo chưa gắn với sử dụng, đối tượng đào tạo, bồi
dưỡng, hình thức, nội dung và một số vấ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_chat_luong_thanh_tra_vien_o_tinh_quang_nam.pdf