Với những điều kiện nêu trên đã tạo cho Hà Tây những thuận lợi lớn:
Nằm ở vị trí địa lý thuận lợi cạnh thủ đô Hà Nội và vùng tam giác kinh tế
trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh nên có điều kiện thuận lợi để phát
triển kinh tế, chuyển dịch CCKT, đồng thời tạo điều kiện cho Hà Tây tiếp thu
công nghệ, khoa học kĩ thuật và giáo dục. Thủ đô Hà Nội là thị trường trực tiếp
của nhiều hàng hoá và dịch vụ như nông, lâm, thuỷ hải sản, vật liệu xây dựng,
hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ, du lịch nghỉ dưỡng Hà Tây là địa bàn mở
rộng của Hà Nội với các thành phố vệ tinh, là mạng lưới gia công của các xí
nghiệp công nghiệp của Hà Nội trong quá trình CNH, HĐH.
Hà Tây có điều kiện trao đổi lưu thông hàng hoá với các tỉnh trung du,
miền núi phía bắc, các tỉnh vùng đồng bằng Sông Hồng và các tỉnh phía nam.
Đồng thời, Hà Tây có tuyến phòng thủ phía đông nên có vị trí đặc biệt quan
trọng đối với an ninh quốc phòng.
50 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 505 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế (1991 - 2006), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường trong nước và mở
rộng thị trường ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu”. [25, .tr26]
Đại hội IX chủ trương phải ưu tiên phát triển LLSX đồng thời xây dựng
QHSX phù hợp theo định hướng XHCN, phát triển kinh tế đi đôi với với phát
triển văn hoá – xã hội, tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần
thiết để đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn; đồng thời chỉ rõ
những định hướng lớn về chính sách để thực hiện nhiệm vụ này đến năm 2010.
“Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
Chuyển dịch mạnh CCKT, cơ cấu lao động theo hướng CNH. Nâng cao rõ rệt
kết quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”. [25, tr.90]
Hội nghị Trung ương 5 khoá IX (18/3/2002) đã ra Nghị quyết “Về đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 -
2010” đã chỉ rõ nội dung tổng quát CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn: “CNH,
HĐH nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản
xuất hàng hoá lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, thực hiện cơ khí
hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ,
trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào
các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả
sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá trên thị trường. CNH, HĐH nông thôn là
quá trình chuyển dịch CCKT nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng giá trị sản
20
phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản
phẩm và lao động nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng, kinh tế - xã hội, quy
hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và
xây dựng QHSX phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh;
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ở nông thôn”.
[26, tr.42 - 43]
Đường lối và những quan điểm chỉ đạo quá trình chuyển dịch CCKT, CNH,
HĐH của Đảng đã trình bày thể hiện quá trình phát triển nhận thức và tư duy lý
luận của Đảng về đổi mới đất nước theo hướng CNH, HĐH và hội nhập kinh tế
quốc tế, chuyển dịch CCKT ở Việt Nam, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản đưa
nước ta trở thành nước công nghiệp. Những chủ trương đó của Đảng được quán
triệt và đưa vào thực hiện trong phạm vi cả nước. Đây là nền tảng và căn cứ xuất
phát cho quá trình lãnh đạo chuyển dịch CCKT của Đảng bộ Hà Tây thời kỳ từ
1991 – 2006.
1.3. Đảng bộ Hà Tây lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn
(1991 – 1995)
1.3.1. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội tỉnh Hà Tây
Hà Tây có toạ độ địa lý 20,31º - 21,17º vĩ độ bắc và 105,17º - 106º kinh
đông, bao quanh Thành phố Hà Nội về hai phía Tây - Nam với 3 cửa ngõ vào
thủ đô (trong 7 cửa ngõ) qua các quốc lộ 1, 6, 32. Hà Tây có tổng diện tích 2147
km2, phía Đông giáp Hà Nội, Hưng Yên, phía Tây giáp tỉnh Hoà Bình và Phú
Thọ, phía Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ, phía Nam giáp tỉnh Hà Nam. Hà
Tây nằm cạnh khu tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, hạt nhân
kinh tế của miền Bắc, nằm trên khu vực chuyển tiếp từ Tây bắc và trung du
miền Bắc với đồng bằng sông Hồng qua mạng lưới giao thông về đường thuỷ,
đường sắt và các bến cảng tương đối phát triển.
Về địa giới hành chính
Tỉnh Hà Tây có nhiều lần thay đổi địa giới hành chính cho tới hiện nay.
Tỉnh Sơn Tây thời Pháp thuộc được thành lập năm 1892 gồm 2 phủ và 4 huyện
(phủ Quốc Oai và phủ Quảng Oai; 4 huyện: Phúc Thọ, Thạch Thất, Tùng Thiện,
21
Bất Bạt). Tỉnh Hà Đông có 4 phủ và 6 huyện (bốn phủ: Hoài Đức, Ứng Hoà, Mỹ
Đức, Thường Tín; sáu huyện: Đan Phượng, Hoàn Long, Chương Mỹ, Phú
Xuyên, Thanh Oai, Thanh Trì). Toàn tỉnh có 105 tổng và 820 xã.
Năm 1965, theo Nghị quyết số 103NQ-TVQH ngày 21/4/1965, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội phê chuẩn hợp nhất tỉnh Hà Đông và Sơn Tây thành đơn vị
hành chính mới là Hà Tây, gồm 16 huyện, 2 thị xã, 311 xã, thị trấn. Diện tích
toàn tỉnh là 2.196,3 km2, dân số 1.298.537 người.
Năm 1976, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá VI, quyết định sáp nhập hai tỉnh
Hà Tây và Hoà Bình thành tỉnh Hà Sơn Bình gồm 24 huyện, 3 thị xã, 519 xã,
phường thị trấn. Diện tích toàn tỉnh là 6.726,8 km2, dân số 2.005.700 người.
Năm 1979, chuyển 5 huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài
Đức, và thị xã Sơn Tây sáp nhập vào Hà Nội.
Ngày 12/8/1991, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá VIII quyết định chia tách
tỉnh Hà Sơn Bình thành hai đơn vị hành chính là tỉnh Hà Tây và Hoà Bình, định
lại ranh giới của Hà Nội. Hà Nội chuyển trả lại cho Hà Tây các huyện Ba Vì,
Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức và thị xã Sơn Tây.
Theo Quyết định của Chính phủ thì đơn vị hành chính tỉnh Hà Tây gồm có
2 thành phố Hà Đông và Sơn Tây; 12 huyện là Ba Vì, Phúc Thọ, Đan Phượng,
Hoài Đức, Quốc Oai, Thạch Thất, Chương Mỹ, Thanh Oai, Thường Tín, Phú
Xuyên, Ứng Hoà, Mỹ Đức; gồm 295 xã, 27 phường, thị trấn.
Đến ngày 29 tháng 5 năm 2008, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã thông qua Nghị quyết số 15/2008/QH12 Về việc điều chỉnh địa
giới hành chính Thành phố Hà Nội và một số tỉnh liên quan đã hợp nhất toàn bộ
diện tích tự nhiên là 219.341,11 ha với dân số là 2.568.007 người của tỉnh Hà
Tây vào thành phố Hà Nội.
Trong phạm vi gianh giới của tỉnh cho đến nay đã có nhiều lần thay đổi về
địa lý hành chính các huyện, thị xã, thị trấn, xã phường theo thời gian để phù
hợp sự quản lý của các cấp chính quyền.
Về khí hậu: Hà Tây nằm trong nền chung của khí hậu miền Bắc là khí hậu
nhiệt đời gió mùa ẩm, có mùa đông khô và lạnh. Tuy nhiên, do đặc điểm địa
22
hình, Hà Tây được chia thành 3 vùng với chế độ khí hậu khác nhau: Vùng đồng
bằng, có độ cao trung bình 5-7m, chịu ảnh hưởng của gió biển, khí hậu nóng ẩm
hơn, nhiệt độ trung bình hàng năm 23,8ºC, lượng mưa trung bình 1700 -
1800mm. Vùng đồi, độ cao trung bình 15 - 50m, khí hậu lục địa, chịu ảnh hưởng
của gió Lào, nhiệt độ trung bình năm 23,5°C, lượng mưa trung bình là 2300 –
2400 mm. Vùng núi Ba Vì, độ cao từ 700 m trở lên đến đỉnh Ba Vì 1282m, nhiệt
độ khí hậu mát mẻ, trung bình 18°C.
Với tài nguyên khí hậu trên, Hà Tây có điều kiện nuôi trồng được nhiều
loài động thực vật có nguồn gốc tự nhiên từ nhiều miền địa lý khác nhau thuận
lợi cho việc phát triển nền nông nghiệp đa dạng. Tuy nhiên, vào mùa khô, cây
trồng thiếu nước, mùa mưa thường có bão lũ, gây ngập úng và uy hiếp hệ thống
đê sông chống lụt.
Về địa hình: phía tây tỉnh là đồi núi với diện tích tự nhiên 70.400 ha, chiếm
1/3 diện tích toàn tỉnh. Địa hình núi có độ cao tuyệt đối 300 trở lên đến độ cao
nhất là đỉnh núi Ba Vì 1281m, với diện tích 17.000 ha, trong đó có 7.400 ha
rừng quốc gia. Địa hình có độ cao tuyệt đối từ 30 – 100m là đồi thấp, 100 –
200m là đồi cao với diện tích 53.400 ha, trong đó đồi thấp là chủ yếu. Địa hình
đồng bằng phía đông có độ cao lớn nhất là 11m với diện tích là 144.450 ha
chiếm 2/3 diện tích toàn tỉnh, mang đặc trưng đồng bằng Bắc bộ ô trũng ven đê.
Với kiểu địa hình trên, Hà Tây có điều kiện thuận lợi thực hiện đa dạng hoá
cây trồng, vật nuôi, luân canh được nhiều vụ trong năm (diện tích trồng cây vụ
đông có thể đạt 80% diện tích canh tác), nhưng phải có công trình chống úng,
kết hợp lựa chọn chế độ canh tác thích hợp với chế độ mưa, ngập ở các vùng
trũng trong đê.
Về tài nguyên đất: Vùng đồng bằng có các loại đất: đất phù sa được bồi:
17.030 ha (8%), đất phù sa không được bồi: 51.392 ha (24%), đất phù sa Gley:
51.551 ha (24%). Vùng đồi núi gồm các loại đất chủ yếu: đất nâu vàng trên phù
sa cổ 20.603 ha (10%), đất đỏ vàng trên đá phiến sét 10.783 ha, đất nâu đỏ và
mùn đỏ vàng trên đá macma bazơ và đất nâu đỏ trên đá vôi. Nhìn chung đất có
độ phì cao, với nhiều loại địa hình nên có thể bố trí được nhiều loại cây trồng
23
ngắn ngày, dài ngày, cây lương thực, cây công nghiệp, đồng cỏ chăn nuôi, cây
rừng đa tác dụng với các hệ thống canh tác có tưới hoặc không tưới.
Về tài nguyên nước: Được sông Hồng bọc ở phía đông, sông Đà ở phía bắc
và các sông nội địa khác phân bố đều trong lãnh thổ với mật độ khá cao. Với
lượng nước sơ bộ hàng năm khoảng 180 – 200 tỷ m³. Theo đó là tài nguyên phù
sa sông Hồng và sông Đà khoảng 170 triệu tấn/năm. [87, tr.8] Nhìn chung, tài
nguyên nước dồi dào cho nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt, nếu xây dựng
được hệ thống cấp thoát nước hoàn chỉnh để lấy nước sông và giữ nước mùa
mưa, cấp nước mùa khô. Phù sa sông là nguồn dinh dưỡng quan trọng để cải tạo
đất và tăng năng suất cây trồng.
Tài nguyên khoáng sản: Hà Tây có một số khoáng sản chính sau: đá vôi
(Mỹ Đức, Chương Mỹ), đá granit (Chương Mỹ), sét (Chương Mỹ, Thạch Thất,
Quốc Oai), cao lanh (Ba Vì, Quốc Oai), vàng gốc và sa khoáng (Quốc Oai,
Chương Mỹ), đồng (Ba Vì), abet (Ba Vì), đôlômít (Quốc Oai), nước khoáng (Ba
Vì) với chất lượng và trữ lượng cho phép khai thác và chế biến ở quy mô công
nghiệp vừa và lớn.
Về tài nguyên cảnh quan, lịch sử, du lịch:
Theo thống kê của Bộ văn hoá thì Hà Tây (cũ) là tỉnh đứng thứ 3 trong cả
nước (sau Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) về số lượng di tích lịch sử (300 di tích)
với mật độ 14 di tích/100km2 (cả nước là 2,2 di tích/km2). [87, tr.11] Vùng núi
Ba Vì và dải núi đá vôi phía tây tạo ra cảnh quan và khí hậu đa dạng, các khu
rừng nguyên sinh, các bản làng dân tộc với văn hóa truyền thống
Với tiềm năng cảnh quan và di tích lịch sử, vị trí địa lý nằm cạnh Hà Nội và
tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, Hà Tây được đánh giá là
điểm du lịch có tầm cỡ quốc gia và quốc tế. Tuy vậy, để đưa du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn trong CCKT phải được đầu tư lớn để xây dựng cơ sở hạ
tầng du lịch, nâng cấp các di tích lịch sử và cảnh quan, khôi phục và xây dựng
văn hoá dân gian
Tài nguyên con người: dân số Hà Tây đầu những năm 1990 là 2,237 triệu
người, mật độ bình quân 992 người/km², trong đó vùng đồng bằng trên
24
1000người/km², vùng đồi núi 791 người/km². Mật độ dân số Hà Tây gấp 26 lần
bình quân của thế giới và 5,1 lần bình quân của cả nước, là tỉnh đông dân thứ 7
của Việt Nam, 93% dân số sống ở nông thôn, chỉ 7% sống ở thành thị, 25% dân
số đang học ở cấp học phổ thông. Có 9 xã đồng bào dân tộc với dân số 29.000
người, chủ yếu là người Mường. Lao động 1,1 triệu người, trong đó 80% là lao
động nông nghiệp, 1/3 xã có làng nghề thủ công với 117.000 lao động có tay
nghề. Lao động nông nghiệp có trình độ văn hoá khá (21% có trình độ cấp III,
62% trình độ cấp II, 14% là cấp I). [87, tr.12]
Với những điều kiện nêu trên đã tạo cho Hà Tây những thuận lợi lớn:
Nằm ở vị trí địa lý thuận lợi cạnh thủ đô Hà Nội và vùng tam giác kinh tế
trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh nên có điều kiện thuận lợi để phát
triển kinh tế, chuyển dịch CCKT, đồng thời tạo điều kiện cho Hà Tây tiếp thu
công nghệ, khoa học kĩ thuật và giáo dục. Thủ đô Hà Nội là thị trường trực tiếp
của nhiều hàng hoá và dịch vụ như nông, lâm, thuỷ hải sản, vật liệu xây dựng,
hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ, du lịch nghỉ dưỡng Hà Tây là địa bàn mở
rộng của Hà Nội với các thành phố vệ tinh, là mạng lưới gia công của các xí
nghiệp công nghiệp của Hà Nội trong quá trình CNH, HĐH.
Hà Tây có điều kiện trao đổi lưu thông hàng hoá với các tỉnh trung du,
miền núi phía bắc, các tỉnh vùng đồng bằng Sông Hồng và các tỉnh phía nam.
Đồng thời, Hà Tây có tuyến phòng thủ phía đông nên có vị trí đặc biệt quan
trọng đối với an ninh quốc phòng.
Khó khăn thách thức của Hà Tây trong thời kỳ đổi mới, CNH, HĐH là sự
cạnh tranh mạnh mẽ về kinh tế của các trung tâm công nghiệp lớn như Hà Nội,
Hải Phòng, Quảng Ninh; các trung tâm mới nổi như Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hải
Dương, Bắc Ninh. Cơ sở hạ tầng thấp kém, 90% doanh nghiệp trung ương, địa
phương có trình độ kỹ thuật trung bình và lạc hậu, năng suất và hiệu quả thấp.
Đất chật, người đông, tốc độ tăng dân số còn cao gây sức ép lớn về việc làm, thu
nhập và các vấn đề xã hội. GDP đầu người thấp, là tỉnh chưa cân bằng được
ngân sách. Du lịch là thế mạnh của Hà Tây song, cần phải đầu tư lớn vào cơ sở
25
vật chất, cảnh quan, môi trường sinh thái, cần phải xây dựng các tour du lịch với
các hình thức, nội dung hấp dẫn trong khi rất thiếu vốn
1.3.2. Những chủ trương, giải pháp chính lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu
kinh tế (1991 – 1995)
Thực hiện chủ trương của Bộ chính trị, Hà Tây được phân định lại địa giới
hành chính từ 1/10/1991, toàn tỉnh có 12 huyện, 2 thị xã với tổng diện tích là
214300 ha, dân số 2,1 triệu người.
Đánh giá về thực trạng kinh tế - xã hội thời kỳ 1986 - 1991, Đại hội đại
biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VII nhận định: Tình hình địa phương có những
chuyển biến đáng kể trên các mặt, lương thực, thực phẩm tăng khá, hàng tiêu
dùng phong phú, đa dạng hơn trước. Cơ sở vật chất phục vụ nông thôn, nông
nghiệp được tăng cường. Thực hiện đổi mới quản lý kinh tế, phát triển kinh tế
nhiều thành phần đạt được một số kết quả bước đầu. Thực hiện các chính sách
xã hội trên một số mặt có cố gắng. Đời sống số đông nhân dân được cải thiện
một bước. Dân chủ xã hội có tiến bộ. Tình hình chính trị ổn định. Công tác quản
lý nhà nước, công tác xây dựng Đảng đang từng bước được đổi mới. [28, tr.8]
Tuy nhiên, còn nhiều tồn tại yếu kém: sản xuất lương thực phát triển chưa
toàn diện, kết quả 3 chương trình kinh tế chưa xứng với tiềm năng, chủ yếu do
chỉ đạo và quản lý còn yếu kém. Sản xuất nông nghiệp ở nhiều xã vẫn còn độc
canh và chưa vững chắc, chậm tiếp thu tiến bộ kĩ thuật, riêng vùng đồi gò còn
nhiều khó khăn, cần phải xem xét cơ cấu cây trồng cho phù hợp. Công nghiệp
và thủ công nghiệp mới chiếm 26%. Hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng thủ công
nghiệp gia công. Nông sản xuất khẩu ít và chưa có mặt hàng chủ lực. Hoạt động
dịch vụ du lịch còn yếu kém.
Vận dụng cơ chế quản lý mới đối với các thành phần kinh tế chưa có kinh
nghiệm và còn nhiều khuyết điểm. Phần lớn cơ sở kinh tế quốc doanh địa
phương nhỏ bé, vốn ít, kĩ thuật lạc hậu, quản lý kém, chậm thích ứng với cơ chế
mới. Có 16% số cơ sở thuộc tỉnh và 40% số cơ sở thuộc huyện bị thua lỗ phải
ngừng hoạt động.
26
Từ khi thực hiện chính sách Khoán 10, hoạt động của nhiều ban quản lý
HTX nông nghiệp rất lúng túng. Do nhận thức về quyền sử dụng, chuyển
nhượng, thừa kế ruộng đất không đúng đã nảy sinh mâu thuẫn giữa nhiều xã,
thôn, xóm đã ảnh hưởng không tốt đến sản xuất và đoàn kết nông thôn. Nhiều
HTX mua bán ngừng hoạt động, nhiều HTX tiểu thủ công nghiệp phải chuyển
sang làm nông nghiệp.
Trong quản lý kinh tế quốc doanh có nhiều sơ hở, quản lý kinh tế tư nhân
không chặt đã làm phát sinh nhiều tiêu cực mới như lừa đảo, chiếm dụng làm
thất thoát vốn của nhà nước, của tập thể.
Tốc độ tăng dân số còn cao. Một bộ phận lao động, nhất là ở các thị xã
thiếu việc làm. Chất lượng giáo dục có những mặt tiếp tục giảm; công tác khám
chữa bệnh ở nhiều cơ sở y tế làm chưa tốt; hoạt động văn hoá quần chúng ở cơ
sở bị mai một, các hủ tục mê tín dị đoan phục hồi. Đời sống của một bộ phận
dân cư còn túng thiếu; một số cán bộ hưu trí, mất sức thu nhập thấp không đủ
mức sống tối thiểu.
Kỉ cương pháp luật chưa nghiêm, trật tự an toàn xã hội còn diễn biến phức
tạp. Nhiều quy định về quản lý kinh tế, ruộng đất, quản lý đô thị, giao thông,
nhà ở không được chấp hành. Bộ máy nhà nước còn nhiều hiện tượng trì trệ,
tiêu cực, tham nhũng, nhiều trường hợp xử lý không nghiêm và kéo dài. Nhiều
tệ nạn xã hội chưa giảm. Đáng chú ý là nạn trộm cắp, trấn lột xảy ra ở nhiều nơi
khiến nhân dân lo lắng.
Quản lý nhà nước chưa bao quát được các thành phần kinh tế, hiệu lực điều
hành bằng pháp luật còn hạn chế, chính quyền cơ sở nhiều nơi yếu. Các cơ quan
bảo vệ pháp luật có lúc phối hợp hoạt động không chặt chẽ, trùng chéo, trong xử
lý còn chậm và nôn nóng.
Nguyên nhân chính của những hạn chế trên là do kiến thức và năng lực tổ
chức chỉ đạo thực hiện của Tỉnh uỷ, các ngành, các cấp chưa theo kịp yêu cầu
đổi mới. Phong cách lãnh đạo chưa nhạy bén và thiếu tập trung, việc phân công
trách nhiệm và tổ chức kiểm tra làm chưa tốt. Chưa tích cực tranh thủ sự giúp đỡ
của các ngành, các tổ chức kinh tế, khoa học kĩ thuật của Trung ương. [28, tr.12]
27
Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tây lần thứ VII tháng 3/1992 đã đề ra những mục
tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội cho đến năm 1995 là: “Vận dụng sáng tạo
đường lối đổi mới của Đảng, đề cao tinh thần đoàn kết, tự lực tự cường, phấn
đấu xây dựng và phát triển kinh tế địa phương với cơ cấu nông nghiệp toàn diện
gắn với công nghiệp chế biến và xuất khẩu, dịch vụ du lịch; cơ sở hạ tầng được
tăng cường; đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân được cải thiện; quốc
phòng an ninh được đảm bảo. Đến năm 1995, phấn đấu đạt các mục tiêu: Giải
quyết tốt hơn vấn đề lương thực, có thêm nhiều nông sản hàng hoá chế biến và
hàng tiêu dùng, tăng nhanh hàng xuất khẩu; giảm tỷ lệ sinh mỗi năm một phần
nghìn, giảm bớt số lao động thiếu việc làm. Từng bước xây dựng nông thôn mới
và nếp sống văn minh trật tự ở các thị xã, thị trấn. Ổn định và cải thiện một bước
đời sống nhân dân; Xây dựng một số cơ sở hạ tầng bức thiết; giữ vững ổn định
chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, chống mọi biểu hiện tiêu cực; kiện toàn
và làm trong sạch bộ máy, đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức
Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của các đoàn thể nhân
dân”. [28, tr.17]
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể và các
giải pháp lớn phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội, trong đó nhiệm vụ, giải pháp
phát triển kinh tế đặc biệt được coi trọng:
Thứ nhất, phát triển nông nghiệp toàn diện, tăng thêm lương thực, đồng
thời tăng nhanh các loại nông sản hàng hoá.
Đầu tư thâm canh, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật sinh học, đưa nhanh giống
mới vào sản xuất để tăng sản lượng lương thực bình quân hàng năm 5% nhằm
đảm bảo nhu cầu lương thực của nhân dân, căn bản khắc phục nạn đói giáp hạt.
Đồng thời, sử dụng có hiệu quả các loại đất, tăng nhanh giá trị nông sản hàng
hoá trên một đơn vị diện tích.
Thứ hai, khai thác tài nguyên, điện năng sẵn có và lao động biết nhiều
nghề để phát triển sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu.
28
Đưa giá trị sản lượng công nghiệp và thủ công nghiệp hàng năm tăng 8-
10%. Hướng chủ yếu là đẩy mạnh chế biến nông sản, vật liệu xây dựng, đồ dùng
gia đình, may mặc, dịch vụ sửa chữa và các mặt hàng thủ công truyền thống
Khuyến khích kinh tế ngoài quốc doanh, mở rộng sự hợp tác đa dạng, liên
doanh liên kết, nhất là kinh tế gia đình, cá thể phát triển sản xuất hàng tiêu
dùng, hàng xuất khẩu và mở mang chế biến nông sản, từng bước hình thành
mạng lưới công nghiệp nông thôn.
Khẩn trương sắp xếp lại các cơ sở sản xuất, tập trung đầu tư cho những cơ
sở sản xuất có hiệu quả và những cơ sở làm hàng xuất khẩu có thị trường ổn
định. Tích cực hợp tác liên doanh với các tổ chức kinh tế, các cơ quan khoa học
kĩ thuật của Trung ương và các tỉnh bạn, kể cả ngoài nước để có thêm vốn đầu
tư và đổi mới công nghệ sản xuất.
Thứ ba, chấn chỉnh hoạt động phân phối lưu thông, góp phần ổn định thị
trường giá cả, thực hiện kinh doanh có hiệu quả, làm tốt việc thu chi ngân sách
và phấn đấu có tích luỹ.
Sắp xếp lại hệ thống kinh doanh của các ngành lương thực, vật tư, thương
mại theo yêu cầu kinh doanh, không nhất thiết theo địa giới hành chính để kinh
doanh có hiệu quả, tham gia điều tiết thị trường. Đồng thời sắp xếp lại bộ máy
quản lý, đảm bảo quản lý có hiệu quả đối với các thành phần kinh tế.
Chấn chỉnh các chợ đã có, mở thêm chợ mới ở những nơi có nhu cầu. Củng
cố các chợ chính ở các thị xã thành các trung tâm giao lưu hàng hoá của dân cư
trên địa bàn rộng. Tăng cường quản lý thị trường, chống các hiện tượng trốn
thuế, làm hàng giả, buôn bán hàng cấm
Mở mang dịch vụ du lịch, nghiên cứu quy hoạch tổng thể các di tích, các
cảnh quan thiên nhiên, các di sản văn hoá. Tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan
trung ương và các tỉnh bạn để từng bước khai thác, phát triển du lịch thành một
ngành kinh tế của địa phương.
Thực hiện nghiêm túc các giải pháp về tài chính ngân hàng. Xoá bỏ bao cấp
tồn tại trong vốn, tín dụng, giá; giải quyết dứt điểm việc thanh toán nợ giữa các
đơn vị kinh tế; thực hiện việc giao vốn và có quy chế bảo toàn vốn của nhà nước
29
giao cho các doanh nghiệp. Kiểm kê đánh giá lại toàn bộ tài sản, nhà đất trong
các cơ quan hành chính sự nghiệp, đoàn thể, lực lượng vũ trang để giao trách
nhiệm bảo quản sử dụng
Thứ tư, từng bước xây dựng cơ sở vật chất phục vụ sản xuất và đời sống
Trong lúc nguồn vốn eo hẹp, cần phải xác định rõ thứ tự ưu tiên đầu tư để
dần hình thành những cơ sở hạ tầng cấp thiết. Nguồn ngân sách chủ yếu đầu tư
bổ sung cho một số trạm biến thế, đường điện cao thế, một số công trình thuỷ lợi,
các cơ sở sản xuất giống; tu bổ, nâng cấp tuyến đường 21b, 22, đường dây thông
tin liên lạc; mở rộng mạng lưới truyền thanh ở nông thôn; các công trình ở đô thị
như điện, nước, bệnh viện, vệ sinh công cộng.
Thứ năm, tiếp tục đổi mới quản lý và phát huy tiềm năng của các thành
phần kinh tế.
Đối với kinh tế quốc doanh, ra sức củng cố và phát triển những cơ sở quan
trọng mà các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không thể thay thế được. Đối
với kinh tế tập thể, coi trọng đổi mới kinh tế HTX nông nghiệp, bảo đảm cho
các hộ xã viên thực sự là đơn vị kinh tế tự chủ, đồng thời nâng cao trách nhiệm
và năng lực của ban quản lý trong việc điều hành sản xuất, hướng dẫn kĩ thuật,
làm dịch vụ điện nước, giống, tiêu thụ nông sản cho các hộ xã viên.
Khuyến khích kinh tế gia đình, cá thể, tư nhân và các hình thức kinh tế
khác ở thành thị và nông thôn phát triển sản xuất, kinh doanh hàng tiêu dùng,
hàng xuất khẩu, nhận đất khai hoang trồng rừng, trồng cây công nghiệp và các
mặt sản xuất kinh doanh khác mà luật pháp không cấm, được tự do liên doanh
và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, chấp hành đúng luật pháp và các
nghĩa vụ khác do nhà nước quy định.
Thứ sáu, phát triển sự nghiệp khoa học và đổi mới quy trình, công nghệ sản
xuất phục vụ thiết thực cho việc phát triển kinh tế, mở mang xuất khẩu, phục vụ
đời sống nhân dân. Nhanh chóng ứng dụng các tiến bộ kĩ thuật, nhất là công
nghệ sinh học nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng lương thực, thực phẩm, nâng cao
chất lượng hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Có biện pháp chuyển giao nhanh
chóng kĩ thuật đến các hộ sản xuất, nhất là các loại giống mới có năng suất cao.
30
Sử dụng tốt số cán bộ khoa học hiện có, tăng cường đào tạo thêm cán bộ, đồng
thời tranh thủ sợ hợp tác, giúp đỡ của các cơ quan, cán bộ khoa học ở Trung
ương và Hà Nội. Có kế hoạch đầu tư thích đáng cho sự nghiệp khoa học.
Hạ thấp nhịp độ tăng dân số; tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động;
đổi mới hoạt động, xây dựng và phát triển giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao
Củng cố quốc phòng an ninh; nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, vai
trò của mặt trận và các đoàn thể nhân dân; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng bộ, làm trong sạch đội ngũ đảng viên [28, tr.39]
Những chủ trương trên khẳng định quyết tâm của của Đảng bộ Hà Tây
trong phát triển kinh tế - xã hội sau khi tái lập tỉnh.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII, từ ngày 14-
15/10/1992, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh họp Hội nghị lần thứ 4 “Về đẩy mạnh
xuất khẩu và du lịch”. Hội nghị nhận định: “Hà Tây là tỉnh lớn ở khu vực đồng
bằng sông Hồng, có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, nhiều điểm di tích văn
hoá, di tích lịch sử, có thế mạnh về du lịch. Tiềm năng thiên nhiên phong phú đa
dạng. Hà Tây có nhiều làng nghề truyền thống, sản xuất nhiều mặt hàng thủ
công mỹ nghệ nổi tiếng để xuất khẩu. Trong những năm qua, các lợi thế về xuất
khẩu du lịch chưa được tỉnh khai thác hết tiềm năng”.
Từ thực tế đó, Tỉnh uỷ đã thảo luận và ra Kết luận số 67 – KL/TU “Về một
số chủ trương, biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu và du lịch đến
năm 1995” Hội nghị đề ra mục tiêu:
Về xuất khẩu, đến năm 1995, toàn tỉnh phấn đấu có một số sản phẩm xuất
khẩu chủ lực với khối lượng tăng trên hai lần so với năm 1990.
Về du lịch, xúc tiến quy hoạch tổng thể các tuyến du lịch trên địa bàn tỉnh
bao gồm các cảnh quan thiên nhiên, các di tích lịch sử, các công trình văn hoá
lâu đời gắn với hoạt động du lịch văn hoá của Hà Nội. Trên cơ sở đó, ngành
du lịch quy hoạch từng cụm như cụm Ba Vì - Đồng Mô - Suối Hai, cụm Hương
Sơn - Hà Đông, cụm Chùa Trăm Gian - Chùa Tây Phương - Chùa Thầy Trước
mắt, cần tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng phục vụ ở khu vực
31
Chùa Hương và khu vực Ba Vì - Đồng Mô, thu hút khách thăm quan trong nước
và quốc tế, từng bước xây dựng thành khu du lịch có tầm cỡ quốc gia.
Từ mục tiêu trên, Hội nghị đề ra 8 giải pháp lớn để đẩy mạnh hoạt động
xuất nhập khẩu và du lịch của tỉnh. Trong đó có một số giải pháp quan trọng là:
“Tích cực tranh thủ sự giúp đỡ của các cơ quan Trung ương, tìm cơ hội th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- v_l2_01847_5928_2003135.pdf