MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 2
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ
CỦA TOÀ ÁN TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN 6
1.1. Nhà nước pháp quyền 6
1.2. Vị trí, vai trò của toà án trong nhà nước pháp quyền 7
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA
TOÀ ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM 7
2.1. Quá trình hình thành và phát triển ngành toà án và vị trí vai
trò của toà án nhân dân ở Việt Nam 7
2.2. Vị trí, vai trò của toà án nhân dân ở Việt Nam hiện nay 12
2.3. Những bất cập ảnh hưởng đến vị trí, vai trò của tòa án
nhân dân 15
Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO VỊ
TRÍ, VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐÁP ỨNG
YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY 18
3.1. Quan điểm nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân 18
3.2. Giải pháp nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân đáp ứng
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay 19
KẾT LUẬN 22
26 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 573 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Nâng cao vị trí, vai trò cùa tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quyền, Tòa án được giao quyền xét xử, quyền
chủ yếu trong quyền tư pháp một trong ba quyền lực nhà nước là quyền lập
pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp. Tòa án là cơ quan độc lập có thẩm
quyền riêng biệt do luật định, chuyên thực hiện việc xét xử bằng hoạt động
tố tụng tư pháp tương ứng về hiến pháp, hình sự, hành chính, dân sự, kinh
tế để bảo vệ chế độ hiến định, nhân thân, các quyền và tự do của con người
và của công dân. Vai trò của Tòa án trong nhà nước pháp quyền thể hiện ở
một số điểm sau:
Thứ nhất, khẳng định trong thực tiễn nguyên tắc phân công quyền
lực trong nhà nước pháp quyền.
Thứ hai, khẳng định trên thực tiễn nguyên tắc về tính phối hợp, chế
ước, kiểm tra lẫn nhau của ba nhánh quyền lực nhà nước trong nhà nước
pháp quyền.
Thứ ba, khẳng định nguyên tắc về tính tối cao của pháp luật, pháp
luật ngự trị trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ tư, Tòa án thông qua hoạt động xét xử có vai trò bảo vệ chế độ
hiến định, nhân thân, các quyền và tự do của con người và của công dân
trong nhà nước pháp quyền.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG VỊ TRÍ, VAI TRÒ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM
2.1. Quá trình hình thành và phát triển ngành Tòa án và vị trí
vai trò của TAND ở Việt Nam
2.1.1. TAND trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
Ngày 13-9-1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà đã ra Sắc lệnh thiết lập các Tòa án quân sự, đánh dấu sự ra đời
của TAND ở nước ta.
10
Ngày 24-1-1946, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã ra Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức các Tòa án và các ngạch
thẩm phán. Theo Sắc lệnh này, mô hình hệ thống Tòa án tổ chức theo cấp
xét xử lần đầu tiên được hình thành ở nước ta gồm: Tòa án sơ cấp, Tòa án
đệ nhị cấp và Tòa thượng thẩm.
Bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta (được Quốc hội nước Việt Nam
dân chủ Cộng hoà thông qua ngày 09-11-1946) ghi nhận hầu hết các
nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Tòa án, đồng thời, mô hình
hệ thống Tòa án đã có những thay đổi quan trọng. Theo đó, các cơ quan tư
pháp được tổ chức theo ba cấp gồm: Tòa án Tối cao; các Tòa án phúc
thẩm; các Tòa án đệ nhị cấp và sơ cấp.
Trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959, có thể thấy bước phát
triển về tổ chức và hoạt động của TAND. Các Tòa án quân sự, Tòa án binh
thực hiện tốt chức năng xét xử được giao, đã đóng vai trò quan trọng
trong việc trừng trị trấn áp bọn phản cách mạng, góp phần bảo vệ chính
quyền non trẻ của đất nước; Tòa án góp phần đập tan âm mưu và hành
động chống phá cách mạng của đế quốc Mỹ và bọn phản động tay sai
của chúng. Ngăn chặn có hiệu quả tư tưởng cầu an, hưởng lạc, công
thần, địa vị, thu vén cá nhân, giảm sút ý chí chiến đấu dẫn đến phạm tội
gây thiệt hại cho Nhà nước và xâm phạm đến sức mạnh chiến đấu của
quân đội. Đồng thời, thông qua hoạt động xét xử tuyên truyền giáo dục
pháp luật, góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức đấu tranh phòng
chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời hiệu quả hoạt động phá hoại của bọn
phản động, những hành vi trốn tránh nhiệm vụ như đào ngũ, kháng lệnh,
đầu hàng, phản bội hoặc chạy theo địch, xâm phạm tài sản của Nhà nước,
của công dân...
2.1.2. TAND trong giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980
Tháng 4-1958, Quốc hội quyết định thành lập TAND Tối cao và
Viện Công tố nhân dân Trung ương, tách hệ thống TAND và Viện công tố
ra khỏi Bộ Tư pháp, đã đánh dấu bước cải cách tiếp theo về tổ chức và
hoạt động của TAND. Kể từ thời điểm này, hệ thống TAND không còn trực
thuộc Hội đồng Chính phủ mà chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất, đó là Quốc hội.
11
Ngày 31-12-1959, Quốc hội thông qua bản Hiến pháp năm 1959,
trong đó quy định hệ thống TAND bao gồm TAND Tối cao, các TAND
địa phương, các Tòa án quân sự. Trong trường hợp cần xét xử những vụ án
đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt. Đồng thời,
quy định các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Tòa án.
TAND Tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong
thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Các TAND địa phương chịu trách nhiệm
và báo cáo công tác trước hội đồng nhân dân địa phương
Ngành TAND đã tăng cường đấu tranh trấn áp bọn phản cách mạng,
trừng trị kịp thời và nghiêm khắc mọi hoạt động phản cách mạng, đặc biệt
là đối với các hoạt động gián điệp, biệt kích, hoạt động tổ chức phản cách
mạng, hoạt động chiến tranh tâm lý, phát huy đến mức cao nhất tác dụng
chính trị của việc xét xử, góp phần tiêu diệt bọn phản cách mạng ở miền
Bắc, đồng thời nêu cao tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, gây ảnh
hưởng chính trị tốt đối với miền nam.
Bên cạnh việc đấu tranh trấn áp bọn phản cách mạng, TAND đóng vai
trò quan trọng trong việc trừng trị những hành vi xâm phạm tài sản XHCN,
vi phạm các nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ quản lý kinh tế tài chính,
quản lý thị trường cũng như trong việc trừng trị các hành vi xâm phạm trật tự
trị an và an toàn xã hội, vi phạm các chính sách lớn của thời chiến. Góp phần
bảo vệ an ninh Tổ quốc, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo vệ trật tự công
cộng và an Tòan xã hội, xây dựng cuộc sống mới, con người mới...
2.1.3. TAND giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992
Ngày 18- 12-1980, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khoá IV, kỳ họp thứ 7 đã thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam
thống nhất. Theo các quy định của bản Hiếp pháp này thì hầu hết các
nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của TAND quy định tại Hiến
pháp năm 1959 vẫn tiếp tục được ghi nhận và bổ sung thêm hai nguyên tắc
quan trọng là "TAND xét xử tập thể và quyết định theo đa số" và "các bản
án và quyết định của TAND đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ
quan nhà nước, các tổ chức và mọi công dân tôn trọng; những người và
đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành".
12
Ngày 3-7-1981, Quốc hội khoá IV đã thông qua Luật tổ chức TAND (sau
đó được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung Luật tổ chức TAND được
Quốc hội thông qua ngày 22-12-1988). Theo quy định của Luật này thì hệ
thống TAND gồm: TAND Tối cao; các TAND tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương; các TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các Tòa án
quân sự; trong trường hợp đặc biệt hoặc trong trường hợp cần xét xử những vụ
án đặc biệt, Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước có thể quyết định thành lập Tòa
án đặc biệt.
Trong giai đoạn này, ngành Tòa án đã cùng toàn Đảng, Tòan dân, toàn
quân phát huy những nhân tố tích cực, khắc phục khó khăn giành nhiều
thắng lợi to lớn. Ngành Tòa án đã giữ vai trò quan trọng trong công cuộc đấu
tranh phòng và chống tội phạm, đẩy mạnh việc phổ biến giáo dục pháp luật,
xét xử kịp thời nghiêm khắc đúng pháp luật nhiều vụ án phản cách mạng,
nhiều vụ án về kinh tế và trật tự, an toàn xã hội. Góp phần tấn công truy quét
bọn phạm tội, nghiêm trị bọn lưu manh, côn đồ, bọn cướp của, xâm phạm
tính mạng, sức khỏe của nhân dân, giữ vững trật tự, an Tòan xã hội.
2.1.4. TAND giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2002
Ngày 15/4/1992, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa VIII, kỳ hợp thứ 11 đã thông qua Hiến pháp năm 1992. Một số
quy định mới của Hiến pháp năm 1992 đã tạo cơ sở cho việc đổi mới các
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan Tòa án. Trên cơ sở Hiến
pháp năm 1992, ngày 6-10-1992, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá IX, kỳ họp thứ nhất đã thông qua Luật tổ chức TAND năm
1992 (sau đó được sửa đổi, bổ sung theo các Luật sửa đổi, bổ sưng một số
điều của Luật tổ chức TAND, được Quốc hội thông qua ngày 28-12-1993 và
ngày 28-l0-1995). Đồng thời, ngày 19-4-1993, Uỷ ban thường vụ Quốc hội
thông qua Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự và ngày 14-5-1993 thông qua
Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm TAND. Với việc ban hành các văn bản
pháp luật này, tổ chức và hoạt động của TAND đã được kiện toàn và đổi mới
một bước để phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo các Nghị quyết của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá VII và khoá VIII.
13
Tương ứng với sự thay đổi về nhiệm vụ, thẩm quyền của TAND, cơ
cấu tổ chức của các TAND có sự bổ sung căn bản so với các quy định của
pháp luật trong các giai đoạn trước năm 1992. Cụ thể, về cơ cấu tổ chức
của TAND Tối cao gồm có: Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao; Uỷ ban
Thẩm phán TAND Tối cao; Tòa án quân sự Trung ương, Tòa hình sự, Tòa
dân sự, Tòa kinh tế, Tòa lao động, Tòa hành chính, các Tòa phúc thẩm của
TAND Tối cao và bộ máy giúp việc của TAND Tối cao.
TAND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cơ cấu tổ chức của Tòa
án cấp này gồm: Uỷ ban Thẩm phán, Tòa hình sự, Tòa dân sự, Tòa kinh tế,
Tòa lao động, Tòa hành chính và bộ máy giúp việc của TAND tỉnh.
Đối với cơ cấu tổ chức của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh mặc dù được giao thêm thẩm quyền xét xử các vụ án kinh tế,
lao động, hành chính nhưng vẫn giữ nguyên như trước đây, không có Uỷ
ban Thẩm phán và cũng không có các Tòa chuyên trách.
Có thể thấy, hệ thống Tòa án đã có những cải cách nhất định cả về tổ
chức và hoạt động, bước đầu đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của Tòa án
trong công cuộc đổi mới đất nước và phù hợp với thực tiễn đời sống kinh
tế, chính trị, xã hội ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Kết quả đổi mới tổ
chức và hoạt động của Tòa án thể hiện ở việc Tòa án đã được giao thêm
thẩm quyền giải quyết, xét xử các vụ án kinh tế, lao động, hành chính và
giải quyết các yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp; trong cơ cấu tổ
chức của TAND Tối cao và Tòa án cấp tỉnh thành lập các Tòa chuyên
trách tương ứng để thực hiện việc xét xử các loại vụ mới thuộc thẩm quyền
của Tòa án; chế độ bổ nhiệm thẩm phán theo tiêu chuẩn cụ thể với nhiệm
kỳ 5 năm thay cho chế độ bầu thẩm phán, đồng thời để bảo đảm cho việc
bổ nhiệm thẩm phán đúng và có chất lượng đã thành lập hội đồng tuyển
chọn thẩm phán Tòa án các cấp góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ làm công tác xét xử. Có bước tiến mới bên cạnh việc cải cách chế độ
tiền lương đối với thẩm phán, thể hiện sự đánh giá lao động xét xử là một
loại lao động quan trọng, cần được sự ưu đãi của nhà nước. Bên cạnh đó,
cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của các Tòa án đã được quan tâm và
cải thiện một bước.
14
2.2. Vị trí, vai trò của TAND ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Vị trí, vai trò của Tòa án trong mối quan hệ với cơ quan nhà
nước khác
2.2.1.1. Mối quan hệ với Quốc hội
Mối quan hệ này mang tính chất giữa cấp trên và cấp dưới, điều này
được ghi nhận tại Điều 84 Hiến pháp 1992, cụ thể như sau:
- Quốc hội ban hành luật về tổ chức của hệ thống Tòa án cũng như các
quy tắc tố tụng của các Tòa án. Quốc hội đồng thời cũng có quyền bãi bỏ các
văn bản pháp luật của Tòa án trái với Hiến pháp, luật, hay nghị quyết của mình.
- Quốc hội bầu và bãi nhiệm chức danh cao nhất của hệ thống Tòa
án, Chánh án TAND Tối cao. Quốc hội cũng có quyền bỏ phiếu bất tín
nhiệm đối với vị trí này.
- Quốc hội quyết định về ngân sách của hệ thống Tòa án trên cơ sở
dự toán ngân sách tổng thể do Chính phủ trình.
- TAND Tối cao phải báo cáo hàng năm trước Quốc hội và báo cáo
đó sẽ được xem xét tại phiên họp Tòan thể của Quốc hội. Chánh án TAND
Tối cao sẽ có thể bị Quốc hội chất vấn.
Mối quan hệ giữa hệ thống Tòa án và Quốc hội đồng thời được thể
hiện thông quan mối quan hệ giữa nó với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, cơ
quan được uỷ quyền giải quyết một số công việc của Quốc hội giữa các kỳ
họp của cơ quan này quy định tại Điều 91 Hiến pháp 1992 và Điều 25, 37
và 44 Luật Tổ chức TAND năm 2002.
2.2.1.2. Mối quan hệ với Chủ tịch nước
Theo Điều 103 Hiến pháp 1992, với tư cách là nguyên thủ quốc gia,
Chủ tịch nước có thẩm quyền đề cử ứng cử viên cho chức vụ Chánh án
TAND Tối cao để Quốc hội bầu.
Theo Điều 40 Luật Tổ chức TAND năm 2002 thì Chủ tịch nước cũng
có quyền bổ nhiệm và cách chức các phó chánh án và thẩm phán TAND
Tối cao theo đề nghị của Uỷ ban tuyển chọn thẩm phán tương ứng.
TAND Tối cao, thông qua vai trò của Chánh án, có trách nhiệm báo
cáo hàng năm lên Chủ tịch nước. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc
biệt Chủ tịch nước có quyền gửi các câu hỏi chất vấn tới TAND Tối cao và
yêu cầu trả lời bằng văn bản từ phía tòa án này. Trong các vụ việc hình sự
15
có tuyên án tử hình, người bị tuyên án có quyền xin Chủ tịch nước ân xá.
Nếu đơn xin ân xá được chấp thuận thì người bị tuyên án đó sẽ được nhận
hình phạt khác.
2.2.1.3. Mối quan hệ với Chính phủ
Sau năm 2002, Chính phủ không còn ảnh hưởng trực tiếp tới hệ
thống Tòa án như trước đây nữa. Mối quan hệ giữa Chính phủ và hệ thống
Tòa án mang tính phối hợp nhiều hơn: Chính phủ là cơ quan chấp hành và
là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất; hệ thống Tòa án thực thi chức
năng xét xử của nhà nước. Chính phủ không còn kiểm soát ngân sách và
nhân sự của Tòa án như trước năm 2002 nữa và hệ thống Tòa án cũng
không phải báo cáo hay chịu trách nhiệm trước Chính phủ như đối với
Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hay Chủ tịch nước.
Tuy nhiên, với những thẩm quyền của một cơ quan chấp hành điều hành
của Quốc hội được quy định tại Điều 109 của Hiến pháp, về mặt pháp lý thì
Chính phủ vẫn có được một số uy thế nhất định đối với hệ thống Tòa án.
Thứ nhất, Chính phủ chịu trách nhiệm dự thảo và thi hành ngân sách
nhà nước hàng năm.
Thứ hai, Bộ Tư pháp - cơ quan bộ thuộc Chính phủ - vẫn có trách nhiệm
thực thi các phán quyết dân sự của Tòa án. Lý do của cơ chế thi hành án này
vẫn mang tính lịch sử. Bộ Tư pháp đã tiếp quản công tác này từ năm 1993.
Với những quy định của pháp luật hiện hành, Chính phủ đã không có
nhiều điều kiện tạo ảnh hưởng tới hoạt động của Tòa án như trước. Bộ Tư
pháp không còn nhiệm vụ quản lý Tòa án về tổ chức, Chính phủ cũng
không thực hiện nhiệm vụ quyết định ngân sách cho Tòa án; do vậy, sự
ảnh hưởng tới tính độc lập xét xử của thẩm phán, xét từ góc độ Chính phủ
là không lớn.
2.2.1.4. Với các cơ quan Viện kiểm sát, các cơ quan Công an, Thanh
tra, Tư pháp, cơ quan hữu quan khác.
Điều 15 Luật tổ chức TAND năm 2002 quy định: Tòa án cùng với
Viện kiểm sát, các cơ quan Công an, Thanh tra, Tư pháp, cơ quan hữu quan
khác, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đơn
vị vũ trang nhân dân nghiên cứu và thực hiện những chủ trương, biện pháp
nhằm phòng ngừa và chống tội phạm, các vị phạm pháp luật khác.
16
* Tòa án có vị trí trung tâm trong các cơ quan tư pháp. Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị (khoá IX) về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định:
Tổ chức các cơ quan tư pháp và các thiết chế bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa
học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó
xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm [5, tr. 3].
2.2.2. Vị trí, vai trò của Tòa án thể hiện thông qua chức năng,
nhiệm vụ của Tòa án
Theo điều 127 của Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001) thì:
"TAND tối cao, các TAND địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án
khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam" [36, tr.71].
TAND là hệ thống cơ quan độc lập với thẩm quyền riêng biệt là xét
xử, thông qua hoạt động xét xử thực hiện sự kiểm tra việc tuân thủ pháp
luật của cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp. TAND trong phạm vi
chức năng của mình: Có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản
của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và
nhân phẩm của công dân.
Tòa án thông qua hoạt động xét xử (các vụ án hình sự, dân sự, hôn
nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và hành chính) có vai trò
là công cụ bảo vệ chế độ hiến định, nhân thân, các quyền và tự do của con
người và của công dân trong nhà nước pháp quyền; giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an Tòan xã hội, tạo môi trường ổn định để quốc gia phát triển đồng
thời góp phần vào hoà bình và an ninh của nhân loại. Khẳng định tính chất
công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế của nhà nước pháp quyền.
Bằng các hoạt động của mình, tòa án góp phần giáo dục công dân
trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng
những nguyên tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật khác.
2.2.3. Vị trí, vai trò của Tòa án thể hiện thông qua thẩm quyền của
Tòa án
2.2.3.1. Thẩm quyền chung của Tòa án
* ThÈm quyÒn vÒ xÐt xö h×nh sù. Cụ thể, quy định tại Điều 9 Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003; §iÒu 5, §iÒu 6 Bé luËt H×nh sù.
17
* ThÈm quyÒn vÒ xÐt xö c¸c vô viÖc d©n sù
Theo Bé luËt tè tông d©n sù th× Toµ ¸n cã thÈm quyÒn gi¶i quyÕt c¸c
vô ¸n vÒ tranh chÊp d©n sù, h«n nh©n vµ gia ®×nh, kinh doanh, th-¬ng
m¹i, lao ®éng vµ thÈm quyÒn gi¶i quyÕt c¸c viÖc vÒ yªu cÇu d©n sù, h«n
nh©n vµ gia ®×nh, kinh doanh, th-¬ng m¹i, lao ®éng. Cụ thể quy định tại
Điều 25, Điều 26, Điều 27, Điều 28, Điều 29, Điều 30, Điều 31, Điều 32
Bộ Luật Tố tụng dân sự.
* Thẩm quyền về xét xử các vụ án hành chính: Quy định tại Điều 28
Luật tố tụng hành chính.
* Thẩm quyền của Tòa án đối với các quyết định cá biệt của cơ quan, tổ
chức. Quy định tại Điều 32 a Luật sửa đổi bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự
(năm 2011)
2.2.3.2. Thẩm quyền theo hệ thống tổ chức ngành TAND
Quy định tại Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, Pháp lệnh Tổ
chức Tòa án quân sự.
2.3. Những bất cập ảnh hƣởng đến vị trí, vai trò của TAND
2.3.1. Về cơ cấu tổ chức của Tòa án hiện nay
Theo Hiến pháp và Luật tổ chức tòa án thì hệ thống TAND hiện nay
gồm 3 cấp được tổ chức theo địa giới hành chính, được phân định nhiệm
vụ quyền hạn theo Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ Luật tố tụng dân sư và Luật
tố tụng hành chính.
Như vậy, khi xét về khía cạnh hành chính và tài chính thì vị trí độc
lập của Tòa án hiện nay không phải là hoàn toàn độc lập nếu như không
muốn nói là phụ thuộc của TAND địa phương vào các cơ quan chính
quyền địa phương (Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân) và phụ thuộc
vào chính TAND tối cao.
Ngoài ra, mặc dù Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền xét xử ở Việt
nam, nhưng pháp luật lại quy định Quốc hội có quyền thành lập các Tòa án
đặc biệt bất cứ lúc nào. Tuy trên thực tế chưa có trường hợp nào xảy ra,
nhưng lại thể hiện rằng hệ thống Tòa án không phải là hệ thống hoàn toàn
độc lập trong bộ máy nhà nước Việt Nam.
2.3.2.Về thẩm quyền của Tòa án
Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì các vụ việc dân sự (bao
gồm các tranh chấp, yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh
18
thương mại, lao động) thuộc thẩm quyền của Tòa án đều được liệt kê; cá
biệt có vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án với điều kiện nhất đinh, ví dụ
như điều kiệm về hòa giải cớ sở ở một số tranh chấp về lao động;
Bên cạnh đó, Luật tố tụng hành chính mới ban hành tuy đã mở rộng
thẩm quyền của Tòa án, không theo cách liệt kê 22 loại quyết định hành
chính, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền của Tòa án như trước đây,
nhưng lại quy đinh theo cách loại trừ. Các quy định của pháp luật về thẩm
quyền của Tòa án theo cách trên không bao quát được hết các vụ việc dân
sự trong thực tế và với quy định loại trừ như Luật tố tụng hành chính thì có
rất nhiều trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện, yêu cầu của người khởi
kiện với lý do không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, trong khi họ
có quyền được yêu cầu được bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình
bằng con đường Tòa án công bằng và nghiêm minh.
Hơn nữa, hiện nay chưa có cơ chế phán quyết nào, vì thế đương
nhiên là Tòa án cũng không có thẩm quyền phán quyết về những vi
phạm hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong
khi đó, một trong những yêu cầu xây dụng nhà nước pháp quyền nói
chung phải là: đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong
các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, chống lại sự độc đoán và tùy tiện
các cơ quan trong bộ máy nhà nước, cán bộ, quan chức trong bộ máy
nhà nước vì sự bình đẳng và công lý, dân chủ, đảm bảo các quyền, tự do
của công dân.
2.3.3. Về hoạt động của Tòa án
Trong nhưng năm gân đây, số lượng các loại vụ án thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án liên tục gia tăng mạnh, trung bình mỗi năm tăng
khoảng 15% . Bên cạnh đó, trong công tác giải quyết, xét xử các loại vụ
án: Tỷ lệ các bản án, quyết định của Tòa án bị hủy, sửa do lỗi chủ quan
của thẩm phán chưa giảm mạnh; một số trường hợp, việc Tòa án cấp phúc
thẩm sửa bản án, quyết định sơ thẩm còn thiếu căn cứ thuyết phục; một số
Tòa án địa phương còn để xảy ra tình trạng chậm đưa ra xét xử đối với
những vụ án dân sự đã có quyết định giám đốc thẩm hủy bản án có hiệu
lực pháp luật để xét xử lại; số lượng đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
chưa được giải quyết còn khá lớn...;
19
Nguyên nhân dẫn đến các khuyết điểm trên là do số lượng các vụ
án và đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm mà TAND phải thụ lý giải
quyết là rất lớn trong khi số lượng cán bộ, Thẩm phán của một số Tòa án
chưa đủ, vẫn còn một số cán bộ, Thẩm phán hạn chế về năng lực trình
độ để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; chế đố chính sách đối với cán bộ Tòa
án chưa thực sự tương xứng với tính chất công việc, chưa giúp cho
ngành Tòa án có thể thu hút nguồn cán bộ có trình độ, năng lực vào công
tác trong ngành, đặc biệt là những nơi vùng sâu, vùng xa thiếu nguồn
tuyển dụng cán bộ; một số cơ quan, tổ chức chưa phối hợp chặt chẽ với
Tòa án, thậm chí chưa làm hết trách nhiệm của mình theo quy định của
pháp luật trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ, giám định, tham gia
định giá tài sản, thực hiện ủy thác tư pháp... làm cho quá trình giải quyết
vụ án gặp nhiều khó khăn...
2.3.4. Những bất cập khác liên quan đến thẩm phán
2.3.4.1. Về nhiệm kỳ của thẩm phán
Nhiệm kỳ của thẩm phán hiện nay là 5 năm. Quy định về nhiệm kỳ
của thẩm phán có ảnh hưởng không nhỏ đến tính độc lập của thẩm phán
trong khi thi hành nhiệm vụ. Việc quy định nhiệm kỳ Thẩm phán đã phần
nào đòi hỏi Thẩm phán phải cố gắng phấn đấu học tập về chuyên môn
nghiệp vụ, giữ gìn phẩm chất đạo đức để được bổ nhiệm lại trong nhiệm
kỳ tiếp theo, nhưng đây cũng là điểm làm hạn chế tính độc lập của Thẩm
phán khi xét xử. Các Thẩm phán rất ngại xét xử những vụ án phức tạp hay
các vụ án có liên quan đến người có thẩm quyền, cơ quan hành chính ở địa
phương có ảnh hưởng đến việc tái bổ nhiệm của thẩm phán.
2.3.4.2. Chế độ đãi ngộ đối với thẩm phán
Bên cạnh những thách thức và áp lực về công tác chuyên môn, thì
Thẩm phán hiện nay còn phải đối diện với một thách thức không nhỏ đó là
chế độ đãi ngộ.
Lương trên thực tế chưa đủ nuôi Thẩm phán và gia đình. Các chế độ
đãi ngộ khác cũng quá thấp chưa tương xứng với tính chất đặc thù công
việc và trách nhiệm ngày càng cao của Thẩm phán vì vậy, nguyên tắc độc
lập khi xét xử của thẩm phán cũng bị đe dọa.
20
Chƣơng 3
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO VỊ TRÍ, VAI TRÒ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG
NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Quan điểm nâng cao vị trí, vai trò của TAND
Thứ nhất, nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án với mục tiêu đảm bảo
công bằng, bình đẳng và dân chủ, tôn trọng và bảo vệ các quyền, tự do của
con người.
Thứ hai, nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án, đảm bảo tính độc lập của
Tòa án nhưng phải đảm bảo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất
có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; giữ vững bản chất của Nhà
nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản..
Thứ ba, nâng cao vị trí, vai trò của Tòa án cùng với việc cải cách tổ
chức và hoạt động của Tòa án ở Việt Nam là nhiệm vụ bao quát trên nhiều
lĩnh vực, trên một phạm vi rộng; việc tổ chức thực hiện cải cách tư pháp
cần thực hiện trong mối quan hệ và tác động lẫn nhau giữ cải cách hành
chính và đối mới công tác lập pháp hiện nay; xuất phát từ điều kiện và
thực tiễn của Việt Nam; cần thực hiện nhiệm vụ từng bước, vững chắc,
hiệu quả và quán triệt nguyên tắc lựa chọn những vấn đề cấp bách, có
trọng tâm, trọng điểm để triển khai trước; xác định Tòa án là trung tâm, xét
xử là trọng tâm; trước hết cần: Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác
định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm
minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là
khâu đột phá của hoạt động tư pháp.
Thứ tư, trong quá trình nâng cao vị trí vai trò của Tòa án cùng với
việc cải cách tổ chức và hoạt động của Tòa án
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ll_tran_phung_vuong_nang_cao_vi_tri_vai_tro_cua_toa_an_nhan_dan_dap_ung_yeu_cau_xay_dung_nha_nuoc_ph.pdf