Tóm tắt Luận văn Nghiên cứu nhóm từ biểu thị họat động thị giác của con người trong tiếng Việt và tiếng Pháp

MỤC LỤC

Trang

PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU 3

1. Lí do chọn đề tài 4

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6

3. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu 7

4. Phương pháp nghiên cứu 8

4.1. Phương pháp miêu tả 8

4.1.1. Thủ pháp phân tích nghĩa tố 8

4.1.2. Thủ pháp thống kê 10

4.2. Phương pháp so sánh - đối chiếu 10

PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG 11

Chương 1: Cơ sở lí thuyết liên quan 13

1.1. Lí thuyết về trường nghĩa 13

1.2. Phân biệt trường nghĩa và trường từ vựng 19

Chương 2: Nghiên cứu nhóm từ biểu thị hoạt động thị

giác của con người trong tiếng Việt22

2.1. Trường nghĩa biểu thị hoạt động thị giác của con

người trong tiếng Việt22

2.1.1. Xác lập trường nghĩa miêu tả hoạt động thị giác của

con người trong tiếng Việt22

2.1.2. Miêu tả trường nghĩa hoạt động thị giác của con

người trong tiếng Việt25

a. Phân tích cấu trúc nghĩa của các nghĩa tố trong trường nghĩa 256

b. Hiện tượng đồng nghĩa trong trường nghĩa 35

2.2. Trường từ vựng của trường nghĩa hoạt động thị giác

của con người trong tiếng Việt38

2.2.1. Xác lập trường từ vựng 38

2.2.2. Phân tích các ý nghĩa của nhóm từ biểu thị hoạt

động thị giác của con người trong tiếng Việt40

2.2.3. Miêu tả trường từ vựng của trường nghĩa 45

Chương 3: So sánh trường từ vựng - ngữ nghĩa biểu thị

hoạt động thị giác của con người trong tiếng Việt vàtiếng Pháp48

3.1. Số lượng từ thuộc trường nghĩa 48

3.2. Sự tương ứng về từ trong trường nghĩa ở tiếng Việt vàtiếng Pháp49

3.3. Các nghĩa tố trong trường nghĩa miêu tả các từ chỉ

hoạt động thị giác của con người trong tiếng Pháp56

3.4. Trường từ vựng của trường nghĩa hoạt động thị giác

của con người trong tiếng Pháp71

PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN 75

TÀI LIỆU THAM KHẢO 78

pdf25 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 708 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Nghiên cứu nhóm từ biểu thị họat động thị giác của con người trong tiếng Việt và tiếng Pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t rất quan trọng. Hiện tƣợng bày tỏ việc hiểu hoặc biết nghĩa của một câu hay một sự vật, hiện tƣợng thông qua thị giác là hiện tƣợng điển hình. Chính điều này cho chúng ta thấy đƣợc cách thức mà ngôn ngữ phản ánh mối quan hệ giữa những cảm nhận về mặt sinh học và quá trình ý niệm hoá tinh thần. Thị giác không chỉ đóng vai trò quan trọng giúp chúng ta định vị trong không gian mà còn giúp chúng ta xác lập những quan điểm cụ thể của từng cá nhân và từ đó đƣa ra những nhận xét về sự vật, hiện tƣợng phản ánh quan điểm của mình. Cùng một sự vật, hiện tƣợng trong thế giới khách quan, nhƣng thông qua lăng kính tri nhận của ngƣời nói hoặc viết, chúng ta có thể đƣa ra những phát biểu mô tả khác nhau về mặt ngôn ngữ. Điều này chứng tỏ ngôn ngữ bị ảnh hƣởng lớn bởi cảm nhận tri giác, đặc biệt là cơ quan thị giác của con ngƣời. 9 Nghiên cứu trƣờng từ vựng - ngữ nghĩa của nhóm từ biểu thị hoạt động thị giác của con ngƣời là một khía cạnh khá thú vị. Chúng ta đều biết, trong các giác quan của con ngƣời, đôi mắt thƣờng biểu thị nhiều cảm xúc nhất. Mọi niềm vui, nỗi buồn, sự tức giận hay lo âu đều thể hiện trong “cửa sổ tâm hồn” ấy. Bằng những hiểu biết còn khá khiêm tốn của mình, tôi mong muốn bƣớc đầu có thể khảo sát và nghiên cứu cấu trúc của nhóm từ biểu thị hoạt động thị giác của con ngƣời trong sự so sánh giữa tiếng Việt và tiếng Pháp. Qua đó nhằm phát hiện ra những điểm giống và khác nhau giữa hai ngôn ngữ trong quá trình biểu thị cảm xúc ở mỗi quốc gia trong cùng một trƣờng nghĩa. Điều này có ý nghĩa rất sâu sắc cả về mặt lí luận lẫn thực tiễn, đặc biệt là trong lĩnh vực dạy và học ngoại ngữ, dịch thuật. Học một ngôn ngữ là học cả nền văn hoá của dân tộc ấy. Vì vậy, nghiên cứu ngôn ngữ gắn liền với những biểu hiện văn hoá là vô cùng cần thiết. Đề tài nghiên cứu của tôi rất mong muốn đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình trong nghiên cứu trƣờng từ vựng - ngữ nghĩa. 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là cấu trúc nghĩa của nhóm từ biểu thị hoạt động thị giác của con ngƣời trong tiếng Việt. Chúng ta có thể thấy từ trong tiếng Việt vốn dĩ đã mang tính khái quát cao, đồng thời vẫn mang tính mềm dẻo, uyển chuyển trong vận dụng. Trên cơ sở tiếng Việt, tiến hành đối chiếu với cấu trúc nghĩa của các từ trong tiếng Pháp; từ đó rút ra sự tƣơng đồng và khác biệt của nhóm từ này trong tiếng Pháp. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Ở đây, tôi chỉ dừng lại khảo sát và nghiên cứu đặc điểm của các từ chỉ hoạt động của thị giác trong tiếng Việt và tiếng Pháp. Các từ tiếng Việt đƣợc khảo sát, nghiên cứu và phân tích dựa trên “Từ điển tiếng Việt” của Hoàng Phê. Các từ tiếng Pháp đƣợc xác định dựa trên cơ sở các từ tiếng Việt dịch chuyển sang và khảo sát, phân tích dựa trên Từ điển Việt - Pháp (Dictionnaire Vietnamien - franỗais), Từ điển Pháp - Việt (Dictionnaire Franỗais - vietnamien), của Nhà xuất bản Khoa học Hà Nội, Từ điển Pháp - Pháp - Việt của Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, 2005, 10 Từ điển Le Petit Larousse, Imprimerie Carteman - Tournai, 1992. Qua việc nghiên cứu này, chúng ta sẽ một phần nào đƣợc sáng tỏ thêm đặc điểm cấu trúc của nhóm từ biểu thị hoạt động thị giác của con ngƣời trong hai ngôn ngữ. 3. MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA NGHIÊN CỨU Đề tài “Nghiên cứu nhóm từ biểu thị hoạt động thị giác của con người trong tiếng Việt và tiếng Pháp” nhằm mục đích sau: Khảo sát cấu trúc ngữ nghĩa của nhóm từ biểu thị hoạt động của mắt trong tiếng Việt và tiếng Pháp. Rút ra những điểm giống và khác nhau giữa hai ngôn ngữ. Thấy đƣợc những đặc trƣng về văn hoá của hai dân tộc thông qua việc nghiên cứu nhóm từ vựng - ngữ nghĩa này. Ngoài ra, đề tài còn có một ý nghĩa nhất định cả về mặt lí luận và thực tiễn. Về mặt lý luận: khảo sát, nghiên cứu và đối chiếu cấu trúc nghĩa của một nhóm từ trong tiếng Việt và tiếng Pháp, góp phần bổ sung những lí thuyết nghiên cứu về trƣờng từ vựng - ngữ nghĩa; đồng thời đem đến một bức tranh ngữ nghĩa với những điểm tƣơng đồng và dị biệt ở hai ngôn ngữ trong cùng một trƣờng nghĩa. Việc khảo sát và nghiên cứu trƣờng từ vựng - ngữ nghĩa trong tiếng Việt và tiếng Pháp là tƣơng đối khó khăn vì hai ngôn ngữ hoàn toàn không có quan hệ họ hàng với nhau, thuộc loại hình ngôn ngữ khác nhau; hai nƣớc, hai dân tộc nói hai thứ tiếng này lại ở hai khu vực rất khác nhau, có những đặc điểm văn hoá, lịch sử, phong tục khác nhau... Tuy nhiên, việc nghiên cứu sẽ góp phần nhỏ bé trong việc làm sáng tỏ những khác biệt về ngôn ngữ và văn hoá giữa tiếng Việt và tiếng Pháp, đồng thời bổ sung thêm lí thuyết so sánh đối chiếu các ngôn ngữ. Về mặt thực tiễn: Việc khảo sát cấu trúc nghĩa của nhóm từ biểu thị hoạt động của mắt trong hai ngôn ngữ giúp cho làm sáng tỏ những đặc trƣng về trƣờng từ vựng - ngữ nghĩa này ở hai dân tộc khác nhau; đồng thời làm sáng tỏ cấu trúc trƣờng nghĩa trong hai ngôn ngữ, từ đó giúp cho việc biên 11 dịch đạt hiệu quả hơn. Thực tế, việc dạy và học ngoại ngữ cũng nhƣ dịch thuật ở nƣớc ta còn gặp nhiều thiếu sót. Sở dĩ là do vốn tri thức từ vựng - ngữ nghĩa về ngoại ngữ hay ngôn ngữ cần chuyển dịch là chƣa thực sự đầy đủ, nhiều khi quá trình dịch thuật còn diễn ra một cách khiên cƣỡng, chƣa phản ánh đúng đặc trƣng ngôn ngữ và văn hoá của dân tộc sử dụng ngôn ngữ ấy. Vì vậy, việc tìm ra cấu trúc nghĩa của một nhóm từ trong hai ngôn ngữ sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nghĩa của các từ, sử dụng chúng một cách chính xác hơn, đồng thời giúp cho việc dịch thuật từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia trong cùng một trƣờng nghĩa thuận lợi hơn. Nhìn chung, có thể thấy rằng, động từ trong tiếng Việt quả thật là một loại từ gói ghém trong nó và kéo theo nó khá nhiều vấn đề có liên quan tới cả mặt lí luận lẫn thực tiễn của ngôn ngữ học nói chung, của Việt ngữ học nói riêng. Theo tác giả Nguyễn Kim Thản, có lẽ rằng từ “khoảng trời” động từ tiếng Việt, có thể nhìn thấy đƣợc nhiều hiện tƣợng của cả “bầu trời” tiếng Việt không phải là điều quá đáng và nếu nói rằng từ những đặc điểm của tiếng Việt có thể nhìn thấy nhiều đặc điểm của những ngôn ngữ cùng loại hình thì không xa sự thật là bao nhiêu. Vì vậy, việc nghiên cứu động từ tiếng Việt vẫn còn là những vấn đề khá phức tạp, cần phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Từ đó, chúng ta có thể so sánh đối chiếu với động từ trong các ngôn ngữ khác. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, tôi tập trung đi sâu nghiên cứu động từ biểu thị hoạt động thị giác của con ngƣời trong tiếng Việt và tiếng Pháp. Với hiểu biết còn hạn còn hạn chế của mình, tôi hy vọng đóng góp một phần nhỏ bé trong việc nghiên cứu vấn đề này. 4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 4.1. Phƣơng pháp miêu tả 4.1.1. Thủ pháp phân tích nghĩa tố Thủ pháp pháp phân tích nghĩa tố có vai trò quan trọng trong việc xác định cấu trúc nghĩa của trƣờng nghĩa. Thủ pháp này giúp chúng ta phân chia nội dung nghĩa của từ thành các nghĩa tố khác nhau. Mỗi từ đƣợc cấu thành từ một số nghĩa tố nhất định theo những quan hệ xác định nào đó. 12 Thủ pháp phân tích nghĩa tố còn cho phép chúng ta có thể miêu tả một số lƣợng lớn các từ của ngôn ngữ tự nhiên bằng một số lƣợng hữu hạn các nghĩa tố. Bởi vì từ vựng là sự kết hợp của các thành tố ngữ nghĩa, mọi nghĩa đều có thể chia ra thành những yếu tố nghĩa nhỏ nhất không thể chia nhỏ đƣợc hơn nữa. Ngƣời ta cho rằng, có thể miêu tả tất cả các từ của ngôn ngữ bằng một số hữu hạn các nghĩa tố nhƣ vậy. Những tƣ tƣởng này có cả ở Mĩ, Pháp, Nga và các nƣớc khác. Đối với ngữ vị học của Hjemslev, tất cả cái hiểu biện và cái đƣợc biểu hiện của tín hiệu có thể phân tích thành các đơn vị có tính chất yếu tố tạo thành của chúng. Những đơn vị nhƣ vậy L.Hjemslev gọi là các cấu hình (figure). Phân tích thành tố ở Mĩ xuất phát từ nhân học ngôn ngữ (linguistic anthropology). Theo cách phân tích này, các đơn vị đƣợc phân tích ra thành một chuỗi các đặc trƣng ngữ nghĩa (semantic features), hay các thành tố nghĩa (components). Đây chính là một quá trình phân tích nghĩa của từ thành các nét khu biệt tối thiểu, tức là phân tích thành những yếu tố đối lập với những yếu tố khác. GS.TS Nguyễn Thiện Giáp (Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, Nhà in ĐHQGHN, 2009) đã cho chúng ta thấy đƣợc những quan niệm khác nhau về đặc điểm của nghĩa tố nhƣ sau: i) Nghĩa tố là yếu tố nhỏ nhất của khái niệm, nó có tính chất liên ngữ. ii) Nghĩa tố là yếu tố thu đƣợc bằng kinh nghiệm trong khi nghiên cứu một ngôn ngữ riêng biệt. Các đơn vị từ vựng chỉ đƣợc phân tích đến bƣớc có thể phân biệt nghĩa vị này với nghĩa vị khác nhờ tối thiểu một yếu tố. Nhờ những yếu tố thu đƣợc trong thủ thuật phân tích đó mà một đơn vị ngữ nghĩa cụ thể có thể đƣợc miêu tả rõ ràng khác với đơn vị ngữ nghĩa khác. Quan niệm này hàm ý rằng, các yếu tố nhƣ thế cũng có thể là một tổ hợp các yếu tố. iii) Nghĩa tố là cấu hình ngữ nghĩa có đƣợc một cách tiên nghiệm. Nó có giá trị nhƣ cái bẩm sinh phổ quát. “Nghĩa tố là bộ phận nhỏ nhất trong thông báo một đơn vị ngôn ngữ” (GS.TS Nguyễn Thiện Giáp - Từ vựng học tiếng Việt, NXB Giáo dục, 2003). 13 Có nhiều cách thức khác nhau để phân tích nghĩa tố trong nội dung nghĩa của từ. Chúng ta có thể dựa vào từ điển tƣờng giải để phân tích các nghĩa tố, cũng có thể phân tích nghĩa tố bằng cách đối lập từng cặp từ với nhau để tìm ra các nghĩa tố tồn tại trong nội dung nghĩa của từ. Khi xác định thành phần nghĩa tố của một đơn vị từ vựng, ngƣời ta đề cập đến những loại nghĩa tố khác nhau, bởi từ vừa là đơn vị từ vựng, vừa là đơn vị ngữ pháp, nó cũng có thể bao hàm cả một số sắc thái tu từ đặc biệt. Do đó, trong một từ cần phải chia ra những nghĩa tố từ vựng và nghĩa tố ngữ pháp, đồng thời phân tích thành tố nghĩa có quan hệ với việc phân tích cú pháp. Thủ pháp phân tích nghĩa tố không áp dụng với những từ cô lập. Kết cấu của nghĩa tố chỉ có thể rõ ràng nếu chúng ta xem xét từ trong mối quan hệ với những đơn vị ngôn ngữ khác. 4.1.2. Thủ pháp thống kê Trong luận này, ngoài thủ pháp phân tích nghĩa tố chúng tôi còn áp dụng thủ pháp thống kê để thống kê miêu tả các từ trong trƣờng nghĩa. Thủ pháp thống kê sẽ giúp chúng ta có đƣợc những thông tin định lƣợng về cấu trúc nghĩa cũng nhƣ đặc trƣng của trƣờng từ vựng - ngữ nghĩa miêu tả hoạt động của mắt trong hai ngôn ngữ: tiếng Việt và tiếng Pháp. 4.2. Phƣơng pháp so sánh - đối chiếu Phƣơng pháp so sánh - đối chiếu là một hệ thống các thủ pháp phân tích đƣợc sử dụng để phát hiện cái chung và cái riêng trong các ngôn ngữ đƣợc so sánh. Phƣơng pháp so sánh - đối chiếu tạo ra khả năng phát hiện những đặc điểm kết cấu của các ngôn ngữ khác nhau. Nhiệm vụ của việc so sánh - đối chiếu trƣờng từ vựng - ngữ nghĩa là xác định sự giống nhau và khác nhau giữa các ngôn ngữ về mặt cấu trúc, hoạt động và sự phát triển của chúng; phát hiện và vạch ra những đặc điểm của các ngôn ngữ còn bị giấu kín khi nghiên cứu một ngôn ngữ. Phƣơng pháp so sánh - đối chiếu cũng đƣợc sử dụng để phát hiện những quy luật và khuynh hƣớng đặc trƣng tiêu biểu cho các ngôn ngữ, giúp chúng ta xác định các yếu tố tƣơng đƣơng giữa các ngôn ngữ. 14 PHẦN THỨ HAI NỘI DUNG 15 Chương 1 CƠ SỞ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN 1.1. LÍ THUYẾT VỀ TRƢỜNG NGHĨA Lí thuyết trƣờng nghĩa (theory of semantic fields) xuất phát từ những tiền đề của trƣờng phái Humboldt mới và phần nào từ những tƣ tƣởng của F. de Saussure về tính hệ thống của ngôn ngữ và những phƣơng pháp cấu trúc trong việc nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu tố ngôn ngữ. Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm trƣờng nghĩa, nhƣng có thể quy vào hai khuynh hƣớng chủ yếu. Khuynh hƣớng thứ nhất quan niệm trƣờng nghĩa là toàn bộ những khái niệm mà các từ trong ngôn ngữ biểu hiện. Đại diện cho khuynh hƣớng này là L. Weisgerber và J. Trier. Hai ông chịu nhiều ảnh hƣởng của học thuyết về “hình thái bên trong của ngôn ngữ” của Humboldt mới trong ngữ nghĩa học. Đây là trƣờng phái chủ trƣơng sự phân chia từ vựng của ngôn ngữ bị quy định trƣớc “bởi hình thái bên trong của ngôn ngữ”. Cơ sở ngôn ngữ học của Weisgerber là khái niệm thế giới trung gian của ngôn ngữ. Ông thay thế sự phân tích các từ bằng sự phân tích các khái niệm trong “tinh thần” của một ngôn ngữ nào đó. Ông thừa nhận sự thống nhất giữa mặt bên ngoài (ngữ âm) và mặt bên trong (khái niệm) của ngôn ngữ nhƣng ông lại coi sự thống nhất đó có tính chất song song hoàn toàn và đơn giản. Do đó, ông phủ nhận hiện tƣợng đa nghĩa và đồng nghĩa của các đơn vị từ vựng. Nhiều từ (các tên riêng) là ở ngoài ngôn ngữ. L. Weisgerber không giải thích sự khác nhau của những mô hình cấu tạo từ mà coi đó là kết quả của sự khác nhau trong tƣ duy các dân tộc. Lí thuyết trƣờng của J. Trier phù hợp với luận điểm của Weisgerber về sự tồn tại trong ngôn ngữ những phạm vi khái niệm đƣợc tổ chức một cách có hệ thống. Lý thuyết trƣờng nghĩa xuất phát từ những tiền đề của trƣờng phái Humboldt mới và phần nào những tƣ tƣởng của F de Saussure về tính hệ thống của ngôn ngữ và những phƣơng pháp kết cấu trong việc nghiên cứu mối quan hệ giữa các yếu tố ngôn ngữ. Theo quan điểm của ông và những ngƣời 16 kế tục ông, mặt nghĩa của ngôn ngữ là một kết cấu chặt chẽ, đƣợc phân chia ra thành những trƣờng hoặc những phạm vi khái niệm một cách rõ ràng. Những phạm vi đó tồn tại trong ý thức ngôn ngữ của một cộng đồng ngôn ngữ nào đó. Tất cả thành phần từ vựng đƣợc phân bố theo những phạm vi hoặc những trƣờng đó. J. Trier đã giả định sự song song giữa trƣờng khái niệm và trƣờng từ vựng, tức là giữa bình diện nội dung và bình diện biểu hiện. Theo ông, trƣờng từ vựng bao phủ lên trƣờng khái niệm nhƣ một cái hình ghép, cái áo khoác hay tấm vải phủ. Một từ chỉ có ý nghĩa khi nằm ở trong trƣờng, nhờ những quan hệ của nó với các từ khác cũng thuộc trƣờng ấy. Ông viết: “Trong hệ thống, tất cả chỉ nhận đƣợc ý nghĩa qua cái toàn thể. Có nghĩa là từ của ngôn ngữ nào đó không phải là đại diện tách biệt của ý nghĩa, ngƣợc lại, mỗi một từ có ý nghĩa chỉ là vì có các từ khác liên hệ với nó”. Rõ ràng, cơ sở lí luận của lí thuyết trƣờng nghĩa là duy tâm, nó thoát li thực tế nhận thức thế giới, tách rời hẳn ngôn ngữ với chức năng tự nhiên của nó là một phƣơng tiện giao tiếp quan trọng nhất của con ngƣời để sa vào một lĩnh vực các tƣ tƣởng thuần tuý. Thực ra, ý nghĩa của từ không đồng nhất với khái niệm. Cách quan niệm trƣờng nghĩa là cấu trúc của những khái niệm liên quan lẫn nhau, nhƣ thế chƣa bao gồm các đơn vị ngôn ngữ là ý nghĩa. Các trƣờng khái niệm đƣợc phân xuất trên cơ sở logic thuần tuý, không phải dựa trên tài liệu ngôn ngữ. Khuynh hƣớng thứ hai cố gắng xây dựng lí thuyết trƣờng nghĩa trên cơ sở các tiêu chí ngôn ngữ học. Trƣờng nghĩa không phải là phạm vi các khái niệm nào đó nữa mà là phạm vi tất cả các từ có quan hệ với nhau về nghĩa. Những trƣờng nghĩa đƣợc xây dựng trên cơ sở ngôn ngữ học cũng rất phong phú và đa dạng. Trong cuốn “Giáo trình ngôn ngữ học”, GS.TS Nguyễn Thiện Giáp đã trình bày rất cụ thể về khuynh hƣớng này nhƣ sau: Ipsen đã căn cứ vào hình thái và chức năng của các từ để xây dựng trƣờng nghĩa. Theo ông, trƣờng nghĩa bao gồm các từ có quan hệ họ hàng với nhau về tiêu chí hình thái và ý nghĩa. Ví dụ: những tên gọi kim loại trong các ngôn ngữ Ấn - Âu đều có hình thái giống trung và hoạt động ngữ 17 pháp tƣơng tự nhau. Ngƣời ta thƣờng gọi những trƣờng nghĩa kiểu này là “trƣờng từ vựng - ngữ pháp”. M. Konradt - Hicking lại xây dựng trƣờng nghĩa căn cứ vào các từ ghép. Mỗi kiểu trƣờng nghĩa, trong đó từ rời với tƣ cách thành tố của từ ghép đóng vai trò là thành viên của trƣờng. Theo ông, trong phạm vi một trƣờng từ vựng duy nhất, tức là trong các từ ghép, chỉ có thể tập hợp các từ thuộc cùng một phạm vi biểu tƣợng. Ví dụ: cặp từ đồng âm Eule “con chim” và Eule “cái bàn chải” của tiếng Đức nằm trong hai trƣờng cấu tạo từ khác nhau. Eule “con chim” Eule “cái bàn chải” Eulennest “tổ cú” Keheule “bàn chải bàn” Eulenaugen “mắt cú” Handeeule “bàn chỉ tay” Ở đây, các thành tố Nest, Augen đã nhập vào lĩnh vực những biểu tƣợng gắn liền với chim chóc, còn các thành tố Keh, Hande lại thuộc về các biểu tƣợng gắn liền với bàn chải. Một kiểu trƣờng nghĩa khác gọi là “trƣờng từ vựng - cú pháp” do Mỹller và Porzig xây dựng trƣờng nghĩa căn cứ vào các ý nghĩa ngữ pháp của các quan hệ. Các ông cho rằng ý nghĩa của từ lệ thuộc vào những liên hệ cú pháp. Vì vậy, trƣờng của các ông là những quan hệ đơn giản gồm động từ hành động và danh từ chủ thể hành động hay danh từ bổ ngữ, tính từ và danh từ... Tuy nhiên, kiểu trƣờng nghĩa đƣợc xem là phổ biến nhất đƣợc gọi là “nhóm từ vựng - ngữ nghĩa”. Theo quan điểm của Weisgerber, sự phân chia ngữ nghĩa của một hệ thống ngôn ngữ đƣợc xác định không phải bởi những mối quan hệ có thực trong thực tế khách quan, mà đƣợc xác định bởi những nguyên tắc nằm trong bản thân ngôn ngữ, trong kết cấu ngữ nghĩa của nó. Mỗi dân tộc có các nguyên tắc phân chia thế giới bên ngoài của mình, có quan 18 điểm của mình đối với thực tế xung quanh; do đó hệ thống ngữ nghĩa của các dân tộc cũng khác nhau, đồng thời các trƣờng của chúng đƣợc xây dựng nên cũng không trùng nhau. Vì vậy, Weisgerber thích dùng thuật ngữ “trƣờng từ vựng”, “trƣờng ngôn ngữ” hơn. Tiêu chuẩn để tập hợp các từ vào nhóm từ vựng - ngữ nghĩa này thƣờng rất khác nhau. Ngƣời ta có thể dựa vào sự tồn tại của các từ khái quát, biểu thị các khái niệm ở dạng chung nhất, trừu tƣợng nhất và trung hoà. Các từ này đƣợc dùng nhƣ cái máy đo đạc và phát hiện ý nghĩa phạm trù chung, trên cơ sở đó, tập hợp tất cả các thành phần còn lại của trƣờng. Bên cạnh đó, còn có các nhóm từ vựng - ngữ nghĩa biểu thị một khái niệm nào đó tồn tại trong cuộc sống. Chẳng hạn: nhóm từ chỉ cảm xúc, nhóm từ chỉ thực vật, nhóm từ biểu thị màu sắc... Các từ đồng nghĩa và trái nghĩa cũng là những nhóm từ vựng - ngữ nghĩa. Nhiều nhà ngôn ngữ học đã khảo sát các từ đồng nghĩa và các từ trái nghĩa với tƣ cách là các trƣờng ngữ nghĩa. Đặc biệt, ngƣời ta cũng coi là trƣờng nghĩa cả những kết cấu ngữ nghĩa của các từ nhiều nghĩa. Giữa các nghĩa khác nhau của một từ nhiều nghĩa thƣờng có một yếu tố ngữ nghĩa chung tạo nên cái gọi là trục ngữ nghĩa. Toàn bộ các nghĩa khác nhau của một từ tạo ra một trƣờng nghĩa nhỏ nhất. Hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ là vô cùng lớn và phức tạp. Vì vậy, ngƣời ta không có cách nào để hiểu một cách thấu đáo từng đơn vị ấy cùng một lúc. Những liên hệ về mặt ngữ nghĩa giữa các đơn vị từ vựng không hiện ra trực tiếp giữa các từ đƣợc lựa chọn một cách ngẫu nhiên. Tuy nhiên, những liên hệ ngữ nghĩa ấy sẽ hiện ra khi các từ đƣợc đặt trong những hệ thống con thích hợp. Nói cách khác, “tính hệ thống về ngữ nghĩa của từ vựng và quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ riêng lẻ thể hiện qua quan hệ giữa những tiểu hệ thống ngữ nghĩa chứa chúng” (Đỗ Hữu Châu). Những tiểu hệ thống ngữ nghĩa ấy đƣợc gọi là trƣờng nghĩa. 19 Nhƣ vậy, lí thuyết trƣờng nghĩa là một trong những lí thuyết ngữ nghĩa đã và đang đƣợc vận dụng một cách rộng rãi để nghiên cứu từ vựng của rất nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Ƣu điểm của lí thuyết này ở chỗ nó cho phép chúng ta nghiên cứu từ vựng của một ngôn ngữ trong sự so sánh với các ngôn ngữ khác (cùng hoặc không cùng nguồn gốc và loại hình). Hiện nay, ngƣời ta đang cố gắng xây dựng những lí thuyết trƣờng nghĩa dựa trên các tiêu chí ngôn ngữ học. Trƣờng nghĩa không phải là phạm vi các khái niệm nào đó nữa mà là phạm vi tất cả các từ có quan hệ lẫn nhau về nghĩa. Những trƣờng nghĩa đƣợc xây dựng trên cơ sở các từ nhƣ thế cũng có nhiều kiểu khác nhau. Mặc dù có nhiều quan điểm đa dạng về những vấn đề cá biệt nhƣng vẫn có thể nhận thấy hai con đƣờng chủ yếu trong việc khảo sát các trƣờng nghĩa. Theo thuật ngữ của GS.TS Nguyễn Thiện Giáp, chúng ta có các loại trƣờng nghĩa sau: Các trường đối vị: Thuộc vào các trƣờng đối vị là những lớp hạng các đơn vị từ vựng đa dạng, có chung một tiêu chí ngữ nghĩa nào đó: các nhóm từ vựng - ngữ nghĩa của các từ, các từ đồng nghĩa, các từ trái nghĩa, toàn bộ các ý nghĩa liên hệ lẫn nhau của từ đa nghĩa, hệ thống cấu tạo từ, các từ loại và các phạm trù ngữ pháp của chúng. Các tiêu chuẩn để thống nhất các từ thành một nhóm từ vựng - ngữ nghĩa duy nhất có thể rất khác nhau. Weisgerber (1962) đã viết: “Trƣờng từ vựng hoạt động với tƣ cách là cái toàn thể, do đó để nhận thức ý nghĩa của các thành tố riêng biệt của nó cần phải trình bày tất cả các trƣờng và đi tìm vị trí cảu thành tố này trong kết cấu của nó”. Theo quan điểm của ông, sự phân chia ngữ nghĩa của hệ thống ngôn ngữ đƣợc xác định không phải bởi những mối quan hệ có thực trong thực tế khách quan, mà đƣợc xác định bởi những nguyên tắc nằm trong bản thân ngôn ngữ, trong kết cấu ngữ nghĩa của nó. Mỗi dân tộc có các nguyên tắc phân chia thế giới bên ngoài của mình, có quan điểm của mình đối với thực tế xung quanh, do đó các hệ thống ngữ nghĩa của các ngôn ngữ cũng khác nhau, cũng nhƣ các trƣờng đƣợc xây dựng nên của chúng không trùng nhau. Do đó, Weisgerber cho rằng cần phải rút ra những nguyên tắc là cơ sở của sự phân chia từ vựng thành các trƣờng từ trong bản 20 thân ngôn ngữ. Các trƣờng ngôn ngữ (từ vựng) lại đƣợc chia ra thành các trƣờng một tầng và các trƣờng nhiều tầng. Việc chia cắt các trƣờng một tầng đƣợc quy định bởi một quan điểm nào đó, tức là đƣợc cắn cứ vào một tiêu chí, một diện nào đó. Ví dụ về sự phân chia nhƣ vậy có thể có loạt số từ, các thuật ngữ họ hàng... Còn sự phân chia ra các trƣờng nhiều tầng thì đƣợc dựa vào nhiều diện khác nhau. Cho đến nay, chƣa có quan niệm thống nhất về các từ đồng nghĩa. Quan niệm rộng nhất về từ đồng nghĩa cho rằng, các từ đồng nghĩa bao gồm cả các hình thức từ đồng nhất về nghĩa vị từ vựng hoặc nghĩa vị ngữ pháp nào đó. Quan niệm hẹp nhất về từ đồng nghĩa cho rằng, từ đồng nghĩa bao gồm những hình thức từ đồng nhất về tất cả nghĩa vị từ vựng và nghĩa vị ngữ pháp [...]. L.M.Vaxiliev, 1969 (Sự đồng nhất và sự khu biệt của các từ đồng nghĩa từ vựng) trong Những vấn đề lí luận và phương pháp luận của tiếng Nga quan niệm các từ đồng nghĩa từ vựng là các lớp hạng ngữ nghĩa của các từ (các dạng thức từ) đồng nhất về tất cả nghĩa vị từ vựng và ngữ pháp, vốn có đối với từ chủ đạo của lớp hạng này. Nói cách khác, tất cả các nghĩa vị của dạng thức từ chủ đạo phải đƣợc lặp lại với tính cách là bất biến thể trong các ý nghĩa của toàn bộ tất cả các thành phần của nhóm đồng nghĩa. Do đó, dung lƣợng và kết cấu của nhóm đồng nghĩa với tính cách là trƣờng ngữ nghĩa đƣợc quy định bởi chỗ chúng ta lấy nghĩa vị - hình thức từ nào làm hạt nhân. Các từ trái nghĩa không phải cái gì khác là các lớp hạng ngữ nghĩa của các từ (hình thức từ) mà các thành phần của chúng gắn bó với những sự đối lập có tính trái ngƣợc. Cần phân biệt 4 kiểu trái nghĩa: i) Quan hệ tƣơng phản: đây là những nhóm từ chỉ tham số với nghĩa kích thƣớc, số lƣợng, cƣờng độ, đại lƣợng. Ví dụ: cao - thấp, dài - ngắn, nhiều - ít, to - nhỏ, nóng - lạnh, mỏng - dày... ii) Quan hệ ngƣợc hƣớng. Ví dụ: ra - vào, lên - xuống, tiến - lùi... iii) Quan hệ mâu thuẫn. Ví dụ: đúng - sai, trái - phải, sống - chết, yêu - ghét, tốt - xấu... iiii) Quan hệ nghịch đảo. Ví dụ: mua - bán... 21 Về nguyên tắc, mối quan hệ trái nghĩa là mối quan hệ đối xứng: một trong hai từ trái nghĩa thuộc một cặp nào đó phức tạp hơn về mặt ngữ nghĩa so với từ kia. Những từ có quan hệ tƣơng phản thể hiện sự đối lập về mức độ của các thuộc tính, phẩm chất của sự vật, hiện tƣợng. Đặc biệt, ngƣời ta cũng coi là trƣờng nghĩa cả những kết cấu ngữ nghĩa của các từ nhiều nghĩa. Giữa các nghĩa khác nhau của một từ nhiều nghĩa thƣờng có một yếu tố ngữ nghĩa chung tạo nên cái gọi là trục ngữ nghĩa. Toàn bộ các nghĩa khác nhau của một từ tạo ra một trƣờng nghĩa nhỏ nhất [34 - 35]. Ngƣời ta còn xếp cả từ loại, tiểu loại vào những nhóm từ vựng - ngữ nghĩa. Từ loại cũng thuộc trƣờng đối vị, tức là các lớp hạng ngữ nghĩa - ngữ pháp của các từ, bởi vì các từ thuộc vào một từ loại hoặc một tiểu loại cũng có cùng một ý nghĩa khái quát chung. Chẳng hạn, ý nghĩa sự vật ở danh từ, ý nghĩa hành động ở động từ, ý nghĩa tính chất ở tính từ. Bởi vì các nghĩa tố cú đoạn và các vị trí cú đoạn tƣơng ứng với chúng là cơ sở của sự đồng nhất của các lớp từ này, cho nên có ngƣời gọi chúng là các lớp cú đoạn. Với tƣ cách là các lớp ngữ nghĩa - cú đoạn của các từ, các từ loại có hai sự phân loại bên trong. Một mặt, chúng đƣợc chia ra các tiểu loại của từ nhƣ danh từ động vật và danh từ chỉ sự vật vô tri, các tính từ chỉ phẩm chất và quan hệ, các động ừt chỉ hành động và trạng thái. Mặt khác, các từ loại đƣợc chia ra các lớp hình thái từ, thống nhất bởi các ý nghĩa ngữ pháp bất biến về cách, số, giống, thời, thể..

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfv_l2_01827_9672_2003117.pdf
Tài liệu liên quan