Tóm tắt Luận văn Nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam

Trong quá trình thi hành, pháp luật thuế thu nhập cá nhân đã thể hiện vai trò của mình đối

với sự phát triển của đất nước .Việc thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân để thực hiện được mục

đích quản lý đồng thời đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân trong xã hội cần phải

có những định hướng trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật. Các nguyên tắc trong điều chỉnh

pháp luật là những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn quan trọng trong

quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật về điều chỉnh pháp luật thuế thu nhập cá nhân. Trong một xã

hội dân chủ, công bằng cần phải được thực hiện trước hết đối với việc phân chia gánh nặng của thuế

khóa. Do đó, nguyên tắc công bằng đã trở thành một trong những nguyên tắc cơ bản bao trùm xuyên

suốt của pháp luật thuế thu nhập cá nhân nói chung và thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân nói

riêng.

pdf23 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 628 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh căn bản thứ hai của con người, bao gồm sự thông minh, công bằng, dũng cảm và sự chừng mực. Trong đó các đức hạnh trước luôn là điều kiện của những đức hạnh sau. Theo Aristote, ông đã phân biệt hai loại công bằng, trong đó sự công bằng thể hiện ở hai hình thức khác nhau, đó là công bằng bù trừ (iustitia commutativa) và công bằng phân chia 9 (iustitia distributiva). Công bằng bù trừ là công bằng giữa những cái khác nhau trong tự nhiên, nhưng như nhau trước pháp luật. Công bằng bù trừ có nghĩa là sự bình đẳng tuyệt đối giữa đưa và nhận, giữa những cái được pháp luật xem như nhau, chẳng hạn như hàng hóa và giá cả, thiệt hại và bồi thường. Còn công bằng phân chia lại là sự bình đẳng tương quan trong sự đối xử với một nhóm nguời, là sự phân bổ quyền và nghĩa vụ theo các chuẩn độ xứng đáng, khả năng, nhu cầu. Công bằng phân chia là hình thức nguyên thủy của công bằng, còn công bằng bù trừ của tư luật phải được tạo lập bởi một hành vi quyền lực (chẳng hạn của cơ quan lập pháp), ví dụ như việc quy định những điều kiện để có năng lực pháp luật hay năng lực hành vi. Ở đây công thức “Suum cuique tribuere” (chia cho mỗi người cái mà họ đáng được nhận) không được phép hiểu là một công cụ để san bằng mọi thứ, không phải là mỗi người được nhận cái như nhau, mà mỗi người được nhận cái thuộc về họ, nghĩa là trao cho họ cơ hội đạt được điều tiềm ẩn trong bản thân họ. Theo từ điển Tiếng Việt: “Công bằng là theo đúng lẽ phải, không thiên vị”. Dưới con mắt nhà nghiên cứu luật pháp, có thể nhìn nhận khái niệm “công bằng” theo chiều ngang và chiều dọc hoặc theo nghĩa chủ quan và khách quan. Theo chiều ngang, công bằng nghĩa là đối xử như nhau đối với những người có đóng góp như nhau, mặt khác, theo chiều dọc, công bằng là đối xử khác nhau với những người có những khác biệt bẩm sinh, trình độ, năng lực hoặc có các điều kiện sống khác nhau. Theo nghĩa khách quan, công bằng được hiểu là những giá trị đứng đắn, những quy tắc chuẩn mực chung hoặc cách thức hành động phù hợp, được cộng đồng thừa nhận. Theo nghĩa chủ quan, công bằng phụ thuộc vào sự cảm nhận, đánh giá, phán xét của mỗi cá nhân. Mỗi người có những đánh giá cá nhân của mình thế nào là công bằng hay không công bằng. Từ cách nhìn nhận kể trên, theo TS. Nguyễn Minh Tuấn, công bằng là trạng thái lý tưởng của xã hội loài người, trong đó vấn đề tài sản, lợi ích, cơ hội giữa các thành viên trong xã hội được phân chia một cách phù hợp, không thiên vị. Tác giả nhất trí với cách hiểu về công bằng được nêu ra ở trên. “Nguyên tắc” theo Từ điển Tiếng Việt là “Điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm”. Như vậy, nguyên tắc được hiểu với nghĩa là tư tưởng chỉ đạo, qui tắc cơ bản của một hoạt động nào đó. Bản thân lĩnh vực pháp lý cũng tồn tại một số nguyên tắc cơ bản cần phải tuân thủ. Trong đó, nguyên tắc công bằng là một trong những nguyên tắc cơ bản bao trùm của pháp luật. Trong pháp luật Việt Nam, nguyên tắc công bằng đã nhiều lần được khẳng định trong các văn kiện quan trọng. Tại Đại hội Đảng lần thứ VIII năm 1996 đã xác định việc đảm bảo công bằng là động lực và nội dung của sự nghiệp đổi mới: “Dân giàu nước mạnh. Xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Trong Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ X tiếp tục khẳng định: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua động lực xã hội khác”. Những quan điểm trên đều được hiện thực hóa trong 10 các văn bản quy phạm pháp luật mà điển hình là Hiến pháp. Trong Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung 2001 ghi nhận tại điều 3: “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Quan điểm này được tiếp nối trong Hiến pháp 2013 và trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác. Nhìn vào thực tế phát triển hiện nay có thể thấy, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều sự nỗ lực và bước tiến quan trọng trong việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc công bằng tại Việt Nam cụ thể thể chế hóa nguyên tắc này trong nhiều văn bản pháp luật quan trọng trong đó có pháp luật thuế thu nhập cá nhân. 1.1.1.2. Nguyên tắc công bằng trong pháp luật Thuế thu nhập cá nhân. Trước hết, thuế thu nhập cá nhân là khoản tiền mà người có thu nhập phải trích nộp một phần từ tiền lương hoặc từ các nguồn thu nhập khác vào ngân sách nhà nước, nói cách khác, đây là loại thuế trực thu đánh vào thu nhập chính đáng của từng cá nhân. Thuế thu nhập cá nhân đã được áp dụng từ lâu ở các nước phát triển, đối tượng nộp thuế này là mọi dân cư trong nước và người nước ngoài có thu nhập phát sinh ở nước sở tại không phân biệt nghề nghiệp và địa vị xã hội. Thời kỳ mới ban hành, các Chính phủ thường đánh thuế vào đối tượng dễ đo lường được như đánh trên đất đai, tài sản, hàng hoá hữu hình, các hàng hoá và tàu biển, hoặc số lượng cửa sổ hoặc lò sưởi trong một toà nhà. Thuế thu nhập cá nhân có diện điều chỉnh rộng tất cả các cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công; thu nhập từ kinh doanh; từ đầu tư gián tiếp như mua, bán cổ phần, trái phiếu, cổ phiếu,.... Các khoản thu nhập chịu thuế cũng có diện rộng bao gồm tất cả các khoản thu nhập của cá nhân. Tuy nhiên, thực hiện chính sách xã hội và mục tiêu công bằng của thuế thu nhập cá nhân, luật thuế qui định cụ thể một số khoản thu nhập không chịu thuế, miễn thuế. Để phân biệt với một số loại thuế khác, thuế thu nhập cá nhân có những đặc điểm chính như sau: Thứ nhất, thuế thu nhập cá nhân là loại thế trực thu có đối tượng đánh thuế là thu nhập. Khi có thu nhập chịu thuế phát sinh, người nộp thuế có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân và không thể chuyển giao nghĩa vụ này cho người khác. Thứ hai, thuế thu nhập cá nhân là loại thuế có diện thu rộng, phức tạp và có tính ổn định không cao. Toàn bộ các khoản thu nhập của cá nhân thuộc diện đánh thuế không phân biệt thu nhập đó có nguồn gốc phát sinh trong nước hay ở nước ngoài; đối tượng phải kê khai nộp thuế thu nhập cá nhân là toàn bộ những người có thu nhập. Tính phức tạp xuất phát từ việc phải xác định khoản thu nhập chịu thuế/thu nhập không chịu thuế, nguồn gốc khoản thu nhập, địa điểm phát sinh thu nhập, thời hạn cư trú của chủ sở hữu thu nhập (người nước ngoài cư trú tại Việt Nam), tính ổn định của thu nhập, sự phát triển của nền kinh tế, các khoản khấu trừ khi tính thuế cũng là một bài toán đối với nhà lập pháp và thực thi chính sách để đảm bảo công bằng xã hội. 11 Thứ ba, việc đánh thuế thu nhập cá nhân áp dụng theo nguyên tắc lũy tiến từng phần. Với những đặc điểm kể trên, thuế thu nhập cá nhân đã thể hiện vai trò quan trọng của mình trên những phương diện sau: Một là, tạo lập nguồn tài chính cho ngân sách nhà nước. Hai là, điều tiết thu nhập tiến tới đảm bảo công bằng xã hội. Ba là, minh bạch hóa thu nhập cá nhân góp phần phòng chống tội phạm.. Ở Việt Nam, pháp luật về thuế thu nhập cá nhân đã có sự phát triển nhất định trong những năm gần đây. Trước 1975, chính quyền Sài Gòn đã áp dụng thuế thu nhập cá nhân nhưng với tên gọi là thuế lợi tức lương bổng năm 1962 và sau đó được cải cách vào năm 1972. Sau 1975, vào ngày 27/12/1990, Chủ tịch nước đã ký lệnh công bố Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao và đã được ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua. Đây là cơ sở tiền đề quan trọng cho việc thực thi thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam. Pháp lệnh này đã có 06 lần sửa đổi, bổ sung cụ thể như sau: lần thứ nhất vào ngày 10/3/1992, lần thứ hai vào ngày 1/6/1994, lần thứ ba vào ngày 6/2/1997, lần thứ 4 vào ngày 30/6/1999 và lần thứ năm vào ngày 13/6/2001 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2001) và lần thứ 6 là pháp lệnh sửa đổi, bổ sung số 14/2004/PL- UBTVQH11 ban hàng năm 2004 (có hiệu lực từ ngày 01/07/2004). Đến năm 2007, Luật thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 21 tháng 11 năm 2007, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2009. Luật thuế thu nhập tiếp tục được sửa đổi bổ sung vào năm 2012 (Luật số 26/2012/QH13 ngày 22 tháng 11 năm 2012 của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân) và năm 2014 (Luật số 71/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014 của Quốc hội về sửa đổi bổ sung một số điều của các luật về thuế). Trong quá trình thi hành, pháp luật thuế thu nhập cá nhân đã thể hiện vai trò của mình đối với sự phát triển của đất nước .Việc thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân để thực hiện được mục đích quản lý đồng thời đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân trong xã hội cần phải có những định hướng trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật. Các nguyên tắc trong điều chỉnh pháp luật là những phương châm, định hướng chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn quan trọng trong quá trình xây dựng và áp dụng pháp luật về điều chỉnh pháp luật thuế thu nhập cá nhân. Trong một xã hội dân chủ, công bằng cần phải được thực hiện trước hết đối với việc phân chia gánh nặng của thuế khóa. Do đó, nguyên tắc công bằng đã trở thành một trong những nguyên tắc cơ bản bao trùm xuyên suốt của pháp luật thuế thu nhập cá nhân nói chung và thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân nói riêng. Có thể nói, nguyên tắc công bằng là phương châm, định hướng quan trọng chi phối trong toàn bộ quá trình thực thi, áp dụng pháp luật thuế thu nhập cá nhân. Việc áp dụng nguyên tắc công 12 bằng là chủ trương của Đảng và Nhà nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân và vì nhân dân. 1.1.2. Đặc điểm của nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân và thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân Nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân và thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân được thể hiện qua một số điểm sau: Thứ nhất, công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Yếu tố công bằng được thể hiện dưới hai khía cạnh: công bằng giữa Nhà nước với người nộp thuế và công bằng giữa những người nộp thuế. Thứ hai, công bằng trong việc tính thuế dựa trên khả năng trả thuế của đối tượng nộp thuế. Bài toán công bằng ở đây là việc Nhà nước phải tìm ra mức thuế thu nhập phù hợp một mặt đáp ứng nhu cầu chi tiêu công và an sinh xã hội, một mặt đảm bảo khả năng trả thuế thu nhập của đối tượng nộp thuế cũng như nguyện vọng của người nộp thuế - vấn đề vốn bị xem nhẹ. Một trong những giải pháp đã được áp dụng biểu thuế lũy tiến, mức nộp thuế theo đó sẽ tăng tên theo mức thu nhập, thu nhập càng lớn đóng thuế càng nhiều. Thứ ba, công bằng trong quy định về miễn giảm thuế. Miễn giảm thuế về mặt bản chất là việc Nhà nước đã không thu hoặc thu ít hơn mức phải thu đối với những đối tượng nhất định, thường là những đối tượng không đủ khả năng. Từ những nhận định trên có thể thấy rằng, nguyên tắc công bằng đã được thể hiện cụ thể và trở thành thuộc tính, đặc điểm vốn có của pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế thu nhập cá nhân nói riêng. Tuy nhiên, để pháp luật thực sự có sức sống đòi hỏi vai trò rất lớn của Nhà nước trong việc hoạch định chính sách, khoanh vùng đối tượng đóng thuế/miễn giảm thuế phù hợp cũng như đặt ra biểu thuế tương ứng đối với từng đối tượng và thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, song hành với Nhà nước là vai trò của người nộp thuế, bản thân người nộp thuế cần ý thức tự giác và tự nguyện thực hiện theo pháp luật thuế thu nhập cá nhân của Nhà nước, như vậy nguyên tắc công bằng mới thức sự đi vào thực tiễn. 1.1.3. Nội dung của nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân và thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân Để đảm bảo nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân và thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân cần nắm rõ nội dung của nguyên tắc này cũng như sự thể hiện trong pháp luật. Những nội dung này bao gồm: Thứ nhất, đảm bảo công bằng trong công tác ban hành quy phạm pháp luật thuế thu nhập cá nhân. Thứ hai, công bằng trong việc triển khai áp dụng các quy định của pháp luật thuế thu nhập cá nhân. 13 Thứ ba, công bằng trong việc nâng cao ý thức của tổ chức cá nhân trong xã hội thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân. Thứ tư, công bằng trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân trong xu thế hội nhập quốc tế. 1.1.4. Vai trò của nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân và thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân Trong hệ thống pháp luật chung, công bằng là một nguyên tắc phân phối lợi ích, thước đo của nó là sự bình đẳng trong quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ, được thực hiện dựa trên sự tự nguyện của các cá nhân. Nguyên tắc công bằng không chỉ có tác động mạnh mẽ, tích cực trong lĩnh vực kinh tế, mà còn đóng vai trò điều chỉnh quan hệ giữa con người với con người trong các lĩnh vực chính trị, pháp luật, xã hội, đạo đức Pháp luật thuế thu nhập cá nhân không chỉ có ảnh hưởng tới cá nhân người nộp thuế mà còn tác động đến toàn xã hội. Do đó, đảm bảo nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển đi lên của kinh tế xã hội đất nước. Nếu nguyên tắc này được đảm bảo bằng việc thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân của nhà nước, điều này sẽ kích khởi động lực phát triển từ tự thân người dân hay cụ thể chính những người nộp thuế. Ngược lại, vô hình chung, thuế thu nhập cá nhân sẽ trở thành sức ì cho xã hội (nếu đánh ở mức thấp và rộng rãi) hoặc trở thành gánh nặng cho người dân (nếu đánh ở mức quá cao và khắc nghiệt). Không chỉ vậy, chính sự không công bằng sẽ làm nảy sinh tình trạng trốn thuế khiến Nhà nước bị thất thu một khoản ngân sách không nhỏ. Nguyên tắc công bằng trong thực thi thuế thu nhập cá nhân đóng vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy công bằng xã hội và sự đi lên của đất nước. Do đó, đảm bảo nguyên tắc này chính là nhiệm vụ trọng tâm đặt ra đối với các cơ quan công quyền khi thực thi luật thuế thu nhập cá nhân. 1.2. Những vấn đề lý luận về thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân và việc thực hiện nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân 1.2.1. Khái niệm về thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích mà các chủ thể pháp luật bằng hành vi của mình thực hiện các quy định pháp luật trong thực tế đời sống. Cụ thể hơn, theo Vũ Văn Thiệu, thực hiện pháp luật – xét trong quy trình "quản lý nhà nước bằng pháp luật", là sự tiếp nối xây dựng pháp luật, gồm toàn bộ các hoạt động nhằm đưa các quy phạm pháp luật vào đời sống nhà nước, xã hội và sinh hoạt của công dân. Về bản chất, thực hiện pháp luật là quá trình hiện thực hoá pháp luật, làm bộc lộ và phát huy những giá trị tiềm năng của pháp luật trong thực tế. Suy rộng ra, thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân là quá trình hoạt động có mục đích mà các chủ thể pháp luật thuế thu nhập cá nhân bằng hành vi của mình thực hiện các quy định về pháp luật thuế thu nhập cá nhân trong thực tiễn như: kê khai thuế, thu nộp thuế, đăng ký giảm trừ gia cảnh Hành vi thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân là những xử sự (hành động hoặc 14 không hành động) của các chủ thể pháp luật (các cá nhân, tổ chức) phù hợp với những yêu cầu của các quy phạm pháp luật thuế thu nhập cá nhân, có ích cho xã hội, nhà nước và cá nhân. Tương tự thực hiện pháp luật, thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân mang các đặc điểm như sau: Thứ nhất, thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật thuế thu nhập cá nhân đi vào cuộc sống. Thứ hai, thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân là hành vi hợp pháp của các chủ thể. Thứ ba, thực hiện pháp luật do nhiều chủ thể khác nhau tiến hành với nhiều cách thức, trình tự thủ tục khác nhau. Theo đó, các hình thức thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân được phân loại như sau: Tuân thủ pháp luật là hình thức thực hiện những qui phạm pháp luật thuế thu nhập cá nhân mang tính chất ngăn cấm bằng hành vi thụ động, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không làm những việc mà pháp luật cấm như trốn thuế, kê khai thu nhập không đầy đủ Thực thi pháp luật là hình thức thực hiện những qui định trao nghĩa vụ bắt buộc của pháp luật một cách tích cực trong đó các chủ thể thực hiện nghĩa vụ của mình bằng những hành động tích cực như chủ động đăng ký thuế, kê khai thu nhập, đăng ký giảm trừ gia cảnh, Sử dụng pháp luật là hình thức thực hiện những qui định về quyền chủ thể của pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật chủ động, tự mình quyết định việc thực hiện hay không thực hiện điều mà pháp luật cho phép. Như vậy hình thức này khác với 2 hình thức trên ở chỗ chủ thể không bị buộc không được làm hoặc phải làm một việc nào đó mà được tự do lựa chọn theo ý chí của mình. Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những qui định pháp luật hoặc chính hành vi của mình căn cứ vào những qui định của pháp luật để ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hay chấm dứt một quan hệ pháp luật. Áp dụng pháp luật thuế thu nhập cá nhân được thực hiện bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong đó có cơ quan quản lý thuế như Tổng cục thuế, chi cục thuế tỉnh, thành phố và các cán bộ quản lý thuế. Như vậy, thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân về mặt lý thuyết cơ tương đồng với việc thực hiện pháp luật nói chung. Sự khác biệt chính xuất phát từ trong chính quá trình thực hiện pháp luật trên thực tế của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội. 15 1.2.2. Vấn đề thực hiện nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân Với việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế TNCN, trước hết cần xem xét về việc thực hiện nguyên tắc công bằng trong xây dựng và ban hành quy phạm pháp luật thuế thu nhập cá nhân. Khi xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, nhà lập pháp dựa trên những yếu tố cấu thành của quy phạm pháp luật để thiết kế các điều khoản phù hợp (giả định, quy định, chế tài). Ba bộ phận cấu thành này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên tính thống nhất của quy phạm pháp luật. Để đảm bảo nguyên tắc công bằng, nhà lập pháp đặt ra các điều kiện, hoàn cảnh giả thiết trong phần giả định để có những quy định và chế tài của Nhà nước tương ứng. Việc thực hiện nguyên tắc công bằng được thể hiện cụ thể thông qua các quy định về thuế thu nhập cá nhân, như xây dựng mô hình đánh thuế thu nhập cá nhân, xác định đối tượng nộp thuế, quy định thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân, quy định thu nhập không chịu thuế thu nhập cá nhân, các định khoản giảm trừ gia cảnh, xác định thuế suất và biểu thuế, Thứ hai, việc thực hiện nguyên tắc công bằng cần được đảm bảo trong hoạt động của các chủ thể quản lý thuế thu nhập cá nhân. Hiện nay, vấn đề quản lý thu nộp thuế thu nhập cá nhân được thực hiện trên cơ sở Luật Quản lý thuế năm 2006 và Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007 và một số văn bản hướng dẫn thi hành. Nguyên tắc công bằng, công bằng có được đảm bảo hay không, vai trò của các cán bộ thuế, của cơ quan thuế rất quan trọng. Thứ ba, để đảm bảo thực hiện nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân cần có cơ chế thông qua các hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm. Nhìn chung, pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam đã có những quy định tương đối đầy đủ, chặt chẽ về công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực quản lý thuế. Đây là những công cụ quan trọng để thực hiện nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân hiện nay. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 1. Công bằng là một khái niệm căn bản của đời sống chính trị, xã hội, tôn giáo và pháp luật. Về bản chất, công bằng là sự tương xứng mà theo đó tài sản, lợi ích, cơ hội giữa các thành viên trong xã hội được phân chia một cách phù hợp, không thiên vị. Công bằng vừa là mục tiêu vừa là chuẩn mực trong việc xây dựng và thực thi hệ thống pháp luật. Nguyên tắc công bằng tại Việt Nam đã được thể hiện trong nhiều văn bản pháp luật quan trọng trong đó có pháp luật Thuế TNCN. 2. Nội dung của nguyên tắc công bằng trong pháp luật thuế TNCN được đảm bảo trong các giai đoạn xây dựng và thực thi pháp luật như trong công tác ban hành quy phạm pháp luật thuế TNCN, triển khai áp dụng các quy định của pháp luật thuế TNCN, nâng cao ý thức của tổ chức cá nhân trong xã hội thực thi pháp luật thuế TNCN và trong công cuộc hội nhập quốc tế. 16 CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC CÔNG BẰNG TRONG THỰC THI PHÁP LUẬT THUẾ TNCN Ở VIỆT NAM 2.1. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc công bằng trong thực thi các quy định của pháp luật thuế TNCN. Nguyên tắc công bằng là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật thuế thu nhập cá nhân. Phạm vi tác động và điều chỉnh của nguyên tắc công bằng rất đa dạng theo nhiều chiều. Trong phần này, tác giả chỉ tập trung phân tích sự thể hiện của nguyên tắc công bằng thông qua một số các chế định và quy định tiêu biểu thể hiện nguyên tắc công bằng và sự thực thi trên thực tế các quy định đó trong vấn đề đảm bảo công bằng. Để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu tác giả có so sánh đối chiếu với các quy định pháp luật thuế thu nhập cá nhân hiện hành của pháp luật thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao trước đây, và cũng có so sánh đối chiếu với các quy định của pháp luật nước ngoài trong việc quy định và thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân dưới góc độ thể hiện nguyên tắc công bằng. 2.1.1. Thực hiện nguyên tắc công bằng trong quy định về đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân. Xác định đối tượng nộp thuế là tiền đề cơ bản của thuế thu nhập cá nhân. Để đảm bảo nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thế thu nhập cá nhân trước hết phải xác định đối tượng nộp thuế đầy đủ và hợp lý qua đó đảm bảo sự phù hợp giữa tên gọi của sắc thuế với phạm vi điều chỉnh, tạo sự công bằng cho các cá nhân trong xã hội. Các văn bản pháp luật đầu tiên của Việt Nam khi mở cửa nền kinh tế quy định về chủ thể (đối tượng) nộp thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã dựa vào tiêu chí “nơi cư trú” và “quốc tịch” để xác định những cá nhân nào là công dân Việt Nam và người nước ngoài nhưng vẫn chưa bảo đảm yêu cầu của nguyên tắc công bằng khi xác định đối tượng nộp thuế. Qua các quá trình sửa đổi, bổ sung pháp lệnh, luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007 và các văn bản sửa đổi, bổ sung luật, văn bản hướng dẫn đã từng bước chuyển biến, quy định cụ thể và bao quát được về đối tượng chịu thuế. Theo đó, quy định đã dựa trên căn cứ nơi cư trú và nguồn phát sinh thu nhập, không phân biệt nơi chi trả và nơi nhận thu nhập làm căn cứ xác định đối tượng nộp thuế. Tuy nhiên, việc công bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân không chỉ là sự nhìn nhận trong hệ thống pháp luật rằng có quy định bao quát được hết các cá nhân có thu nhập hay không. Việc quy định đầy đủ về số lượng các đối tượng nộp thuế, không có sự phân biệt đối xử giữa người Việt Nam và người nước ngoài mới chỉ là một phần yêu cầu của nguyên tắc công bằng theo chiều ngang. Nguyên tắc công bằng trong thực thi pháp luật thuế thu nhập cá nhân còn đòi hỏi phải được xem xét theo cả chiều ngang, chiều dọc và công bằng chung của cả xã hội nữa. Việc xây 17 dựng và thực hiện các quy định của pháp luật thuế thu nhập cá nhân phải nhằm bảo đảm việc thu thuế hợp lý, thuận lợi dựa trên khả năng chi trả của người nộp thuế có xem xét đến các yếu tố hoàn cảnh, điều kiện của từng người đó nhằm đảm bảo những người có thu nhập khác nhau sẽ có nghĩa vụ nộp thuế khác nhau, người có thu nhập cao hơn sẽ phải nộp thuế cao hơn những người có thu nhập thấp và những người có điều kiện, hoàn cảnh giống nhau mà thu nhập ngang nhau sẽ phải nộp thuế như nhau. 2.1.2. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc công bằng trong thực thi các quy định về thu nhập chịu thuế Thu nhập chịu thuế của cá nhân là căn cứ để tính thuế thu nhập cá nhân trong kỳ tính thuế. Đây là một trong những yếu tố then chốt trong việc đảm bảo công bằng trong thực thi thuế thu nhập cá nhân. Trước khi có sự xuất hiện của Luật thuế thu nhập các nhân năm 2007, việc quy định thu nhập chịu thuế là sự phân loại và liệt kê theo các khoản thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên của các đối tượng nộp thuế. Việc liệt kê và thay đổi trong thời gian ngắn trong việc phân định thế nào là thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên thể hiện sự chưa rõ ràng, lung túng của các nhà làm luật và gây khó khăn trong việc thực thi trên thực tế. S

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdflkt_le_thi_thu_huong_nguyen_tac_cong_bang_275_1946797.pdf
Tài liệu liên quan